Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Những nét lịch sử cơ bản của sự hình thành phép biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.74 KB, 25 trang )

Lời nói đầu
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của t duy triết học gắn
liền với cuộc đấu tranh của hai phơng pháp t duy biện chứng và siêu hình. Lịch sử
phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có lúc bị phép siêu
hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của mình, phép biện
chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định vị trí của mình là
học thuyết về sự phát triển dới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không
phiến diện.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con ngời nắm vững
những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc phơng
pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải tạo tự
nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng triệt để. Ngợc lại,
quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với lối t duy
cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi trong tiến
trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển
của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng đ-
ợc đặt ra nh một nhu cầu cần thiết và tất yếu.
Tiến trình cải tổ nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nớc ta
trong giai đoạn hiện nay hơn lúc nào hết cần phải quán triệt t duy biện chứng triệt
để dựa trên lập trờng duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy vật nói
riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh nói chung là kim chỉ nam đa
cách mạng nớc ta giành đợc thắng lợi trên con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật là một quá trình lâu
dài và phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ phát triển cao
thấp khác nhau. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận triết học này, em xin đợc trình
bày nhận thức của mình về những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành và phát
triển phép biện chứng.
1
Đề tài: Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng
Tuy đã rất cố gắng song bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất


mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các đồng chí học viên
lớp cao học Văn hoá học. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 2006
I. phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình
Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong t duy. Phơng pháp biện
chứng là phơng pháp t duy triết học xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến,
trong sự vận động và phát triển vô cùng với t duy mềm dẻo, linh hoạt. Trái lại,
phơng pháp siêu hình là phơng pháp t duy triết học xem xét thế giới trong trạng
thái cô lập, phiến diện với t duy cứng nhắc. Lịch sử đấu tranh giữa hai phơng
pháp biện chứng và siêu hình luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giữa hai khuynh
hớng triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chính cuộc
đấu tranh lâu dài của hai phơng pháp này đã thúc đẩy t duy triết học phát triển
và đợc hoàn thiện dần với thắng lợi của t duy biện chứng duy vật.
Hạn chế của phơng pháp siêu hình thể hiện ở chỗ chỉ thấy những sự việc cá
biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự
vật mà không rhấy sự ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự
vật mà không thấy trạng thái động của nó. Quan điểm biện chứng đã khắc phục
đợc những hạn chế của phơng pháp siêu hình bằng cách xem xét các sự vật trong
mối liên hệ qua lại với nhau, không chỉ thấy sự tồn tại mà còn rhấy cả sự hình
thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng
thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật.
Tuy nhiên, Ăngghen cũng khẳng định rằng thế giới quan siêu hình là điều
không thể tránh khỏi và sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn
nhất định trong lịch sử phát triển của nhận thức khoa học giai đoạn nghiên cứu
các chi tiết của bức tranh toàn cảnh về thế giới tự nhiên. Muốn nhận thức đợc các
chi tiết ấy, ngời ta buộc phải tách chúng ra khỏi những mối liên hệ tự nhiên, lịch
sử của chúng để nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính của chúng, theo
nguyên nhân, kết quả riêng của chúng. Thời kỳ này kéo dài từ cuối thế kỷ XV
2
đến đầu thế kỷ XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, việc nghiên cứu

tiến từ giai đoạn su tập sang giai đoạn chỉnh lý, nghiên cứu về các quá trình phát
sinh, phát triển của sự vật, hiện tợng thì phơng pháp siêu hình không còn đáp ứng
đợc yêu cầu của nhận thức khoa học. Cuộc khủng hoảng Vật lý học cuối thế kỷ
XIX do ảnh hởng của quan niệm siêu hình là một minh chứng cho hạn chế của
phơng pháp siêu hình. Những kết quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên, nhất là
vật lý học và sinh học đã đòi hỏi và chứng tỏ rằng cần phải có một cách nhìn biện
chứng về thế giới và khi đó, phép siêu hình đã bị phủ định nhờng chỗ cho phép
biện chứng.
Trong lịch sử triết học, phơng pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai đoạn
phát triển cao thấp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là thành quả
phát triển cao nhất và khoa học nhất của t duy biện chứng. Sau đây chúng ta sẽ
nghiên cứu sự hình thành phép biện chứng qua từng thời kỳ lịch sử nhất định, bắt
đầu từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ phục hng và cận đại, tiếp đó hình thành phép
biện chứng duy tâm cổ điển Đức và sau cùng hoàn chỉnh ở phép biện chứng duy
vật Mácxít.
II. sự hình thành phép biện chứng thời kỳ cổ đại
Ba nền triết học tiêu biểu của thời kỳ cổ đại đợc biết đến là nền triết học ấn
Độ cổ đại, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại.
1. Phép biện chứng trong triết học ấn Độ cổ đại
ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc nam châu á có điều kiện khí hậu hết
sức khắc nghiệt và địa hình tách biệt với các quốc gia, do đó ấn Độ cổ đại trở
thành một nền văn minh khép kín. Các t tởng tôn giáo rất phát triển trong xã hội
ấn Độ thờng xuyên đan xen vào triết học làm nên nét đặc thù riêng của triết học
ấn Độ cổ đại. Có thể nói, triết học ấn Độ tuy còn ở trình độ sơ khai song nó đã
chứa đựng các yếu tố về bản thể luận và những t duy biện chứng. Các t tởng biện
chứng mộc mạc, thô sơ đợc tập trung thể hiện trong một số trờng phái triết học
ấn Độ cổ đại sau:
a. Triết học Samkhya
3
Theo phái Samkhya, Prakriti là vật chất đầu tiên ở dạng tinh tế, trầm ẩn, vô

định hình và trong nó chứa đựng khả năng tự biến hoá. Prakriti không ngừng biến
hoá, phát triển trong không gian theo luật nhân quả dẫn tới xuất hiện tính đa dạng
của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị
nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật
chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa.
b. Triết học Jaina
T tởng biện chứng của phái Jaina thể hiện ở học thuyết tơng đối. Theo đó,
tồn tại vừa bất biến, vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể còn cái không
vĩnh hằng luôn biến đổi là các dạng của bản thể. Điều đó có nghĩa là thế giới bao
quanh con ngời vừa vận động lại vừa đứng im, đó là một mâu thuẫn mà con ngời
cần phải chấp nhận.
c. Triết học Lokayata
Theo phái Lokayata, mọi sự vật, hiện tợng của thế giới đợc tạo ra từ bốn
nguyên tố vật lý: đất, nớc, lửa và không khí. Các nguyên tố này tự tồn tại, tự vận
động trong không gian mà tạo thành tất cả các sự vật, kể cả con ngời. Đây là tr-
ờng phái duy vật và vô thần triệt để nhất trong các trờng phái triết học ấn Độ cổ
đại. Nó ra đời từ phong trào đấu tranh chống sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm
trong Veda và giáo lý của đạo Bàlamôn đòi tự do t tởng và bình đẳng xã hội.
d. Triết học Phật giáo
Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học,
Phật giáo đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép biện
chứng, với t cách là học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự biến đổi
của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học phật giáo và những t tởng biện chứng của
nó đợc thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: vô ngã, vô thờng và nhân quả.
- Vô ngã là không có cái tôi bất biến. Cách nhìn này hoàn toàn đối lập với
cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo đa ra
những nguyên lý về mối liên hệ tất định, phổ biến: không có cái nào là biệt lập
tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau.
- Vô thờng nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái gì
4

đứng im. Quy luật vô thờng của mọi tồn tại là Sinh - Trụ - Dị - Diệt.
Đây là một phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại.
- Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới
đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định và phổ
biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Triết học ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài ngời thời kỳ
cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha hình thành
các t tởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, t duy triết học thời kỳ này cũng bộc lộ
nhiều hạn chế nh: coi linh hồn con ngời là bất tử (đạo Phật) hay phán đoán về thế
giới hiện tợng của phái Jaina.
2. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu đời vào
bậc nhất thế giới. Đó là một trong những trung tâm t tởng lớn nhất của nhân loại
thời cổ. Triết học Trung Quốc cổ đại chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề
chính trị xuất phát từ hiện trạng xã hội biến động đơng thời. Chính vì vậy trong
thời kỳ này, các triết gia Trung Quốc thờng đẩy sâu quá trình suy t về các vấn đề
thuộc vũ trụ quan và biến dịch luận. Song cần phải khẳng định rằng, chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại là chủ nghĩa duy
vật chất phác và phép biện chứng tự phát. Có thể thấy một số t tởng biện chứng
nổi bật của triết học Trung Quốc cổ đại qua một số trờng phái triết học sau:
a. Trờng phái triết học Âm Dơng gia
Về căn bản, những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Quốc cổ đại
mang tinh thần biện chứng sâu sắc (nếu hiểu theo nguyên tắc: phép biện chứng là
học thuyết triết học về sự biến đổi). Điển hình cho t duy này là học thuyết Âm -
Dơng. Nội dung triết học căn bản của phái Âm -Dơng là lý luận về sự biến dịch,
đợc khái quát thành những nguyên lý phổ biến, khách quan và tất yếu.
Một là, phái Âm - Dơng nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng
nhất tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập, gọi
là sự thống nhất của Âm và Dơng. Nói cách khác, Âm -Dơng là đối lập nhau nh-
ng là điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa, học thuyết Âm - Dơng còn thừa nhận

5
mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong mặt đối lập này đã bao hàm khả
năng của mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện chứng về sinh thành, về
vận động.
Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu kỳ
và chu kỳ đó đợc bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dơng.
Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lôgíc của sự vận động là
một nguyên lý tất định. Nguyên lý đó đợc khái quát bằng một lôgíc nh sau: Thái
cực sinh Lỡng nghi, Lỡng nghi sinh Tứ tợng, Tứ tợng sinh Bát quái, Bát quái tơng
thôi sinh vô cùng (vạn vật).
Về bản thể luận, phái Âm - Dơng quy thế giới về những dạng vật chất cụ
thể và coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này, nguyên thuỷ của
thế giới bao gồm Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ.
b. Triết học của phái Đạo gia
Ngời khởi xớng triết học phái Đạo gia là Lão Tử. Những ý kiến luận giải về
Đạo, coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ đã
thể hiện rất sâu sắc quan điểm biện chứng của Lão Tử. Trong đó nổi bật lên hai
quan điểm về phép biện chứng của ông là quan điểm về luật quân bình và quan
điểm về luật phản phục. Luật quân bình để giữ cho sự vận hành của vạn vật đợc
cân bằng, không thái quá mà cũng không bất cập. Phản phục là nói lên tính tuần
hoàn, tính chu kỳ trong quá trình biến dịch của vạn vật.
Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một t tởng biện
chứng độc đáo của Lão Tử. Ông cho rằng: có và không sinh lẫn nhau, dễ và khó
tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trớc và sau theo
nhau. Trong đó, mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập, không có mặt
này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tơng đối. Tuy nhiên, sự đấu
tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tợng không theo khuynh
hớng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật phản phục.
Hơn nữa, Lão Tử không chủ trơng giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các
mặt đối lập mà ông chủ trơng lấy cái tĩnh, cái vô vi để tạo thành sự chuyển hoá

theo luật quân bình. Chính vì thế, phép biện chứng của ông mang tính chất máy
6
móc, lặp đi lặp lại một cách tuần hoàn.
Trang Tử cũng là một nhà t tởng lớn của phái Đạo gia. Học thuyết của
Trang Tử có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát, nhng thế giới quan của
ông về cơ bản nghiêng về chủ nghĩa duy tâm. Khi quan niệm về vũ trụ (về Đạo),
Trang Tử cho rằng Đạo trời là tự nhiên vốn có không ai sinh ra. Vạn vật đều sinh
ra từ Đạo và biến hoá một cách tự nhiên.
c. Triết học của phái Danh gia
Các t tởng biện chứng của phái Danh gia trớc hết đợc thể hiện qua thuyết t-
ơng đối của Huệ Thi. Huệ Thi quan niệm vạn vật trong vũ trụ luôn biến đổi,
chúng có tính tơng đối và hàm chứa trong đó những mặt đối lập liên hệ chuyển
hoá qua lại với nhau. Nhng do tuyệt đối hoá tính chất tơng đối của sự vật, thực
tại, tách rời nó với những điều kiện, những mối liên hệ cụ thể nên về cơ bản, triết
học của Huệ Thi mang tính ngụy biện và tơng đối luận.
Một biện giả khác của phái Danh gia là Công Tôn Long. T tởng biện chứng
tự phát của Công Tôn Long thể hiện ở quan điểm về tính chất mâu thuẫn của sự
vận động, sự thống nhất biện chứng giữa cái vô hạn và hữu hạn, giữa đồng nhất
và khác biệt. Trong đó, Công Tôn Long đa ra những mệnh đề có tính chất ngụy
biện, chiết trung nh: ngựa trắng không phải là ngựa, trứng có lông, bóng chim
bay không hề động đậy. Nếu Huệ Thi chỉ chú trọng đến tính chất tơng đối, sự
luôn biến đổi của sự vật, hiện tợng trong hiện thực, phóng đại một cách phiến
diện mặt tơng đối của sự vật và đa đến kết luận tơng đối chủ nghĩa thì Công Tôn
Long lại nhấn mạnh tính tuyệt đối, tính không biến đổi và sự tồn tại độc lập của
những khái niệm so với cái đợc phản ánh trong khái niệm ấy. Công Tôn Long đã
tách rời cái chung, cái phổ biến ra khỏi những cái riêng, cái cá biệt đi tới phủ
nhận sự tồn tại của những cái cụ thể trong hiện thực.
d. Triết học của phái Pháp gia
Hàn phi là một đại biểu của phái Pháp gia. Kiên quyết phủ nhận lý luận
chính trị thần quyền, Hàn Phi đợc coi là một nhà vô thần luận nổi tiếng của Trung

Quốc cổ đại. Các t tởng triết học của ông biểu hiện rõ tính chất duy vật và biện
chứng tự phát về lịch sử và phơng pháp trị nớc. Về lịch sử, Hàn Phi cho rằng lịch
7
sử xã hội loài ngời luôn biến đổi, từ trớc tới nay không có chế độ xã hội nào vĩnh
viễn tồn tại. Mặt khác, ông cho rằng động lực căn bản quyết định sự biến đổi của
lịch sử là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội nhiều ít. Do vậy, khi bàn về ph-
ơng pháp trị nớc, ông cho rằng kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan
của lịch sử, tuỳ đặc điểm, hoàn cảnh thời thế mà lập ra chế độ, đặt chính sách và
phơng pháp trị nớc mới cho phù hợp. Không có thứ luật nào luôn luôn đúng với
mọi thời đại. Tuy Hàn Phi cha thấy đợc động lực thực sự của lịch sử, nhng ông đã
cố gắng đi tìm nguyên nhân biến đổi của đời sống xã hội trong điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội.
Tóm lại, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận
thức, triết học Trung Quốc cổ đại mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất phác,
cảm tính và phép biện chứng tự phát, sơ khai. Song với các quan điểm biện chứng
trong cách kiến giải về vũ trụ quan, có thể nói triết học Trung Quốc cổ đại đã đặt
cơ sở rộng lớn cho sự phát triển các t tởng biện chứng của triết học nhân loại.
3. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trớc CN. Cơ sở kinh tế
của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với t liệu sản xuất và ngời nô
lệ. Khoa học lúc đó cha phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học,
vật lý học, thiên văn học,... Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất
duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị của Hy Lạp bấy giờ sôi
động, những quan hệ thơng mại với nhiều nớc khác nhau trên Địa Trung Hải, sự
tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nớc
ấy, sự quan sát các hiện tợng tự nhiên một cách trực tiếp nh một khối duy nhất và
lòng mong muốn giải thích chúng một cách khoa học đã góp phần quy định và
làm phát triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có
thể tìm hiểu các t tởng biện chứng nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số
đại diện tiêu biểu sau đây:

a. Talét
Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự
phát. Ông cho rằng nớc là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế
8
giới. Mọi vật đều sinh ra từ nớc và khi phân huỷ lại biến thành nớc. Theo Talét,
vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng,
sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi vật
biến đổi không ngừng mà nền tảng là nớc. Tuy nhiên, các quan điểm triết học
duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính. Ông cha
thoát khỏi ảnh hởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ khi ông
cho rằng thế giới đầy rẫy những vị thần linh.
b. Anaximăngđrơ
Ông là ngời Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu nghiêm túc vấn đề phát sinh và
phát triển của các loài động vật. Theo ông, động vật phát sinh dới nớc và sau
nhiều năm biến hoá thì một số giống loài dần thích nghi với đời sống trên cạn,
phát triển và hoàn thiện dần; con ngời hình thành từ sự biến hoá của cá. Phỏng
đoán của ông còn cha có căn cứ khoa học song đã manh nha thể hiện yếu tố biện
chứng về sự phát triển của các giống loài động vật. Khi giải quyết vấn đề bản thể
luận triết học, Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ
một dạng vật chất đơn nhất, vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà ngời ta
không thể trực quan thấy đợc. Nếu so với Talét thì Anaximăngđrơ có bớc tiến xa
hơn trong sự khái quát trừu tợng về phạm trù vặt chất.
c. Hêraclít
Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác-Lênin, Hêraclít là ngời sáng lập
ra phép biện chứng, hơn nữa, ông là ngời xây dựng phép biện chứng trên lập tr-
ờng duy vật. Phép biện chứng của Hêraclít cha đợc trình bày dới dạng một hệ
thống các luận điểm khoa học nh sau này, nhng hầu nh các luận điểm cốt lõi của
phép biện chứng đã đợc ông đề cập dới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca
và triết lý. Các t tởng biện chứng của ông thể hiện trên các điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít,

không có sự vật, hiện tợng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngợc lại.
Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự
vật, hiện tợng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của
9
những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi của
những mặt đối lập, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập.
Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới
do quy luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan
của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời
nói, suy nghĩ của con ngời. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng
sơ khai, nhng về cơ bản là đúng đắn. ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết
học khác không có t tởng biện chứng nào sâu sắc nh vậy. Heraclít đã đa triết học
duy vật cổ đại tiến lên một bớc mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố
biện chứng. Học thuyết của ông đã đợc nhiều nhà triết học cận đại, hiện đại kế
thừa và phát triển sau này. Mác và Ăngghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá
trị triết học của Hêraclít, coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen cũng vạch rõ những hạn chế, sai lầm của
Hêraclít về mặt chính trị. Đó là tính chất phản dân chủ, thù địch với nhân dân và
ông chủ trơng dùng chính quyền để dập tắt nhanh chóng phong trào dân chủ.
d. Pácmênít
Khái niệm trung tâm trong triết học của Pácmênít là tồn tại hết sức trừu t-
ợng song cũng chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát. Ông cho rằng với
cách nhìn cảm tính thì thế giới vô cùng đa dạng, phong phú, biến đổi không
ngừng và vô cùng sinh động. Nhng bằng con đờng cảm tính đơn thuần không thể
khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Chỉ với cách nhìn triết học phù hợp
với trí tuệ lý tính mới khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Ông cho rằng
bản chất của mọi vật trong thế giới là tồn tại. Học thuyết về tồn tại của Pácmênít
đánh dấu một bớc tiến mới trong sự phát triển t tởng triết học Hy Lạp, mang tính

khái quát cao. Tuy nhiên, hạn chế trong học thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ
ông đã đồng nhất tuyệt đối giữa t duy và tồn tại và mang tính chất siêu hình vì
ông cho rằng tồn tại là bất biến.
e. Dênông
Dênông là học trò của Pácmênít. Công lao của ông là đã đặt ra nhiều vấn
10
đề biện chứng sâu sắc về mối liên hệ giữa tính thống nhất và tính nhiều vẻ của thế
giới, giữa vận động và đứng im, giữa tính gián đoạn của thời gian và không gian,
giữa tính hữu hạn và tính vô hạn, và về sự phức tạp trong việc thể hiện quá trình
vận động biện chứng của sự vật vào t tởng, vào lôgíc của khái niệm. Tuy nhiên,
những nghịch lý Apôria của ông chỉ có thể đợc giải quyết nếu đứng trên lập trờng
duy vật biện chứng trong nhận thức sự vật.
f. Empêđôcơlơ
Empêđôcơlơ cho rằng nguồn gốc vận động của mọi sự vật là do sự tác động
của hai lực đối lập là Tình yêu và Căm thù. Quan điểm này là một bớc thụt lùi so
với Hêraclít, bởi vì triết học Hêraclít giải thích nguồn gốc vận động của vật chất
là do sự xung đột của những mặt đối lập nội tại của sự vật. tuy nhiên,
Empêđôcơlơ cũng có một số phỏng đoán thiên tài về sự tiến hoá của giới hữu cơ.
Sự giải thích này của ông tuy còn ngây thơ nhng đã manh nha hình thành t tởng
biện chứng về quá trình tiến hoá của sinh vật theo con đờng từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp.
g. Đêmôcrít
Đêmôcrít là một trong những ngời đã phát triển thuyết nguyên tử lên một
trình độ mới. Một mặt, ông tán thành lý thuyết tồn tại duy nhất và bất biến của
Pácmênít khi coi các nguyên tử là bất biến, mặt khác, ông kế thừa quan điểm của
Hêraclít cho rằng mọi sự vật biến đổi không ngừng. Đêmôcrít đã nêu ra lý thuyết
về vũ trụ học. Lý thuyết này đợc xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo
của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát và có một ý nghĩa đặc biệt
trong lịch sử triết học. Đêmôcrít khẳng định: vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô
số thế giới vĩnh viễn phát sinh, phát triển và bị tiêu diệt. Quan điểm của Đêmôcrít

về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng đoán có giá trị đặc biệt. Theo ông,
vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân
vận động của nguyên tử ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy
nhiên ông đã không lý giải đợc nguồn gốc của vận động. Dựa trên học thuyết
nguyên tử, Đêmôcrít đã đi tới quan điểm quyết định luận. Đó là thừa nhận sự
ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và khách quan của các hiện tợng tự
11

×