Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.49 KB, 5 trang )
Hiểu rõ hơn về thuốc trợ tim digoxin
Thuốc trợ tim được hiểu đơn giản là các thuốc làm tăng lực co bóp của
cơ tim, dùng trong các trường hợp suy tim. Các thuốc loại này được chia làm
hai nhóm chính: thuốc trợ tim không phải glucosid và thuốc trợ tim glucosid,
trong đó digoxin là loại thuốc trợ tim tiêu biểu thường được các thầy thuốc sử
dụng nhiều nhất trong lâm sàng.
Tác dụng của digoxin
Digoxin làm tăng sức co bóp của cơ tim gián tiếp thông qua việc ức chế
men natri - kali - adenosine triphosphatase (Na+ - K+ - ATPase) của bơm ion ở
màng tế bào cơ tim, từ đó cản trở việc ion Na+ thoát ra ngoài màng tế bào. Do sự
ức chế này làm cho nồng độ Na+ trong tế bào tăng cao, vì vậy sự vận chuyển Na+,
Ca++ qua màng tế bào cũng bị thay đổi, làm tăng nồng độ Ca++ trong tế bào cơ
tim, từ đó thúc đẩy các sợi cơ tim tăng cường co bóp. Mặt khác, digoxin còn tác
động trên hệ thống thần kinh tự động của tim, làm giảm nhịp tim và giảm tốc độ
dẫn truyền nhĩ - thất. Ngoài ra, digoxin còn làm tăng trương lực hệ phó giao cảm
và làm giảm hoạt tính của hệ giao cảm.
Thuốc được dùng dưới dạng uống (viên nén, viên nang ) hoặc tiêm. Ở
dạng uống, phần lớn digoxin được hấp thu ở ruột non, sau đó sẽ được phân phối
tiếp tại một số mô. Nồng độ thuốc thường được tập trung chủ yếu ở thận, tim, gan,
tuyến thượng thận, ống tiêu hóa được chuyển hóa chủ yếu tại gan. Phần lớn
digoxin được thải trừ qua đường nước tiểu, chỉ có 1 phần (khoảng 25%) được thải
trừ qua đường phân. Ở người lớn, với chức năng gan, thận bình thường thì thời
gian bán hủy trung bình của digoxin (theo đường uống) là 36 giờ. Khoảng cách
giữa nồng độ điều trị và nồng độ ngộ độc là rất hẹp nên rất dễ xảy ra ngộ độc
thuốc.
Trước đây, người ta hay dùng bắt đầu bằng liều tấn công, sau đó chuyển
sang liều duy trì, nhưng nay người ta thường không còn dùng liều tấn công với
một lượng thuốc lớn trong một thời gian ngắn như trên vì cách này rất dễ gây nguy