Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.1 KB, 5 trang )
Sốt xuất huyết: Những ngộ
nhận chết người
Theo bộ Y tế, sốt xuất huyết đang có dấu hiệu bùng phát thành dịch ở
nhiều nơi. Bên cạnh hậu quả do bệnh gây ra, những hiểu biết và xử lý bệnh
không đúng cách, cũng góp phần làm cho tình trạng bệnh nguy hiểm hơn.
Bệnh sốt xuất huyết xuất hiện quanh năm ở nước ta, đặc biệt gia tăng vào
những tháng mùa mưa. Từ nhiều năm qua, sốt xuất huyết luôn là gánh nặng cho
ngành y tế và là nỗi ám ảnh của các bậc phụ huynh. Sốt xuất huyết Dengue là bệnh
nhiễm siêu vi trùng cấp tính do bốn týp huyết thanh virút Dengue gây ra. Bệnh
nguy hiểm vì có thể gây tử vong nhanh chóng cho trẻ em. Nhiễm virút Dengue có
thể gây ra nhiều bệnh cảnh lâm sàng, nhẹ nhất là sốt nhẹ không phân biệt được với
bệnh cảm cúm thông thường, hoặc gây ra bệnh sốt Dengue với biểu hiện sốt có thể
kèm xuất huyết nhưng không gây ra hiện tượng cô đặc máu và truỵ tim mạch.
Dạng nặng nhất là bệnh sốt xuất huyết Dengue có thể gây ra truỵ tim mạch (sốc)
và tử vong nhanh chóng nếu không được phát hiện sớm và điều trị đúng.
Có phải sốt xuất huyết chỉ xảy ra ở trẻ tuổi đi học? Bệnh sốt xuất huyết
không chỉ xảy ra ở trẻ tuổi đi học mà tất cả mọi người, từ sơ sinh đến người lớn,
đều có thể bị sốt xuất huyết. Hiện ở các tỉnh phía Nam, khoảng 70% bệnh nhân sốt
xuất huyết là trẻ 15 tuổi trở xuống, 30% trường hợp còn lại là ở người lớn và trẻ
lớn trên 15 tuổi.
Bệnh sốt xuất huyết chỉ có biểu hiện sốt cao và chỉ khi trẻ sốt cao mới phải
đi thử máu để chẩn đoán bệnh? Các dấu hiệu của sốt xuất huyết thường là trẻ sốt
cao liên tục từ 2 – 7 ngày; có biểu hiện xuất huyết như chấm hoặc mảng xuất
huyết dưới da, chảy máu mũi, chảy máu chân răng, nôn ra máu, tiêu phân đen.
Một số trẻ có biểu hiện truỵ tim mạch xảy ra từ ngày thứ ba đến hết ngày thứ sáu
của bệnh khi trẻ hết sốt và có biểu hiện li bì hoặc bứt rứt, đau bụng; tay chân lạnh,
vã mồ hôi, mạch nhanh nhẹ, khó bắt; tụt huyết áp hoặc huyết áp không đo được.
Thử máu cho thấy dung tích hồng cầu tăng (cô đặc máu) và số lượng tiểu cầu
giảm.