TRƯỜNG
KHOA……………………
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI
Những giải pháp nhằm đẩy
nhanh việc thực hiện các cam
kết của Việt Nam trong
khuôn khổ AFTA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
LỜI NÓI ĐẦU
AFTA dù ít, nhiều mang ý nghĩa quan trọng đối với tương lai kinh tế Việt
Nam. Thách thức của AFTA yêu cầu phải nâng cao tính năng động và hiệu quả
của cả nền kinh tế, con đường tham gia AFTA đòi hỏi tiêu chuẩn hiệu quả phải
đưa lên hàng đầu trong các lĩnh vực quản lý, hoạch định chính sách của Nhà
nuớc, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các doanh nghiệp, buộc
Việt Nam phải có nỗ lực lớn về cải cách kinh tế và hành chính, cải cách doanh
nghiệp Nhà nước theo hướng hiệu suất hoá.
Cho dù còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được làm sáng tỏ, AFTA đã thể hiện
một bước chuyển đổi chiến lược đúng đắn của sự hợp tác kinh tế ASEAN.
AFTA là cơ sở để xây dựng khu vực mở và là một đóng góp quan trọng vào tiến
trình tự do hoá thương mại toàn cầu. Bản thân AFTA là bước mở đầu để đưa
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đi từ liên minh thương mại đến các liên
minh về thuế quan, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế.
Để đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA, các doanh nghiệp trong nước
cần căn cứ theo hướng phát triển trong tình hình mới để có những quyết định
kịp thời và phù hợp. Doanh nghiệp cần xem xét, đánh giá cụ thể các yếu tố liên
quan đến sản xuất, tiêu thụ của từng mặt hàng trong tương quan các mặt hàng
cùng loại từ ASEAN. Qua đó, doanh nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới,
hay phát triển các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu, tìm ra thị trường mới cho
sản phẩm của mình, các giải pháp để có thể làm chủ được thị trường nội địa và
sau đó phải tìm kiếm khả năng xuất khẩu, định hướng về các sản phẩm chủ lực,
thị trường trọng điểm để có phương án sản xuất-kinh doanh đáp ứng các nhu
cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài ASEAN. Hơn nữa, các doanh nghiệp
sản xuất trong nước cần đánh giá các chọn lựa và đưa ra các giải pháp cụ thể
trước mắt và giải pháp lâu dài. Xuất phát từ những quan điểm trên, em đã chọn
nội dung của khoá luận tốt nghiệp và đề cập những giải pháp nhằm đẩy
nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CHƯƠNG I :
TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN (AFTA)
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ
KHU VỰC
1.Khái niệm:
Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc nhiều nước
nhằm mục đích tự do hoa hoá việc buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt
hàng nào đó. Biện pháp sử dụng là bãi miễn các công cụ thuế quan và phi thuế
quan giữa các nước thành viên song các nước thành viên vẫn thi hành chính
sách ngoại thương độc lập với các nước ngoài liên minh.
2.Cấp độ liên kết:
Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế ở cấp độ thấp nhất trong
các hình thức liên kết quốc tế
3.Tác động của khu vực mậu dịch tự do
Khu vực này thiết lập nên một mối quan hệ mậu dịch giữa các nước thành
viên,mở rộng quan hệ xuất khẩu với nhau và tiến tới mở rộng ra ngoài khối,
điều này cho thấy nó tác động tích cực đến buôn bán quốc tế nói chung.Việc di
chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ,người sản xuất và
người tiêu dùng đều có lợi
I. II. TỔNG QUAN VỀ AFTA:
1. Sự hình thành và phát triển của AFTA:
Tuyên bố thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được đưa ra tại
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore ngày 28 tháng 1 năm
1992 với thời hạn dự định thực hiện 15 năm, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm
1993 và hoàn thành vào năm 2008. “Tuyên bố chung Singapore - 1992” mở ra
một thời kỳ mới trong hợp tác ASEAN nhằm tạo cơ hội ổn định và phát triển
khu vực. Trên cơ sở đó, hội nghị đã quyết định thành lập “Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN” (AFTA). Lúc đầu, chương trình AFTA dự định thực hiện trong
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
vòng 15 năm kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993. là phải bắt đầu từ ngày 1 tháng 1
năm 1998 Nhưng do yêu cầu đẩy nhanh tốc độ phát triển, đầu tháng 7 năm
1994, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế lần thứ 26 tháng 9 năm 1994 tại Chiềng Mai
quyết định rút thời hạn xuống 10 năm, tức là hoàn thành vào năm 2003. Việt
Nam là hội viên mới, được thực hiện chậm 5 năm, tức.
Khối ASEAN không phải là một khối có sức mạnh kinh tế lớn so với các
khối khác như NAFTA (700 tỉ USD); EU (600 tỉ USD); Nhật (3.500 tỉ USD);
AFTA (400 tỉ USD) tuy nhiên, được đánh giá là khối phát triển năng động nhất.
Tốc độ tăng bình quân 5 năm qua là 7,5% so với 3% của toàn thế giới. Tỉ trọng
thương mại của ASEAN cao hơn nhiều so với các khu vực khác, xuất khẩu trên
50% tổng sảm phẩm quốc dân, đặc biệt Singapore là 139% (* số liệu 1994).
AFTA ra đời là phù hợp với quy luật vận động nội tại của các nền kinh tế
ASEAN trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá. Song với tư cách là một tổ
chức hợp tác kinh tế có thể chế, AFTA dường như là một dạng của "mô hình
phát triển rút ngắn" của kiên kết kinh tế khu vực và trên thực tế, nó không có
được những điều kiện chuẩn bị chín muồi về các bước liên kết khu vực giống
như EU, NAFTA. Do đó, AFTA hình thành trước tiên chỉ như là một hiệp định
khung, có phần hơi đơn giản; còn các nội dung và lịch trình của hiệp định lại
chỉ được soạn thảo, sửa đổi và bổ sung đồng thời với tiến trình tổ chức và thực
hiện chúng.
Nền kinh tế của các nước Đông Nam Á đang chuyển động theo những thay
đổi lớn trên thị trường tài chính và hàng hoá thế giới, trên khung cảnh hợp tác
khu vực, trước hết là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, với sự hoạt động hết
sức sôi động của các công ty đa quốc gia. Sự di chuyển ồ ạt các dòng vốn đầu
tư, công nghệ và tri thức kinh doanh kéo theo sự biến động trong lợi thế so sánh
của nhiều nước. Thị trường khu vực ngày càng phát triển và thể chế hợp tác khu
vực ngày càng được định hình đã làm thay đổi nhanh chóng vị trí và chiến lược
phát triển của từng nước.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế đã diễn ra trong những năm giữa thập kỷ 80, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN từ năm 1981 đến 1994 là 5,4% (* thống kê
của Ban thư ký ASEAN) gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế
giới. Với tốc độ phát triển kinh tế như vậy cùng với mục đích hợp tác toàn diện
trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - khoa học - xã hội ngay từ khi mới thành
lập, lẽ ra hợp tác kinh tế của ASEAN đã rất phát triển nhưng trên thực tế thành
tựu lớn nhất mà ASEAN đạt được trong suốt 25 năm tồn tại đầu tiên là hợp tác
trong lĩnh vực chính trị quốc tế và an ninh nội bộ của các nước thành viên. Mặc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
dù nhấn mạnh vào hợp tác kinh tế, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho
tới năm 1992, việc hợp tác này vẫn tiến triển rất chậm chạp.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng trở lại với
Kế hoạch Hợp tác kinh tế mà lĩnh vực đầu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng
hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và
các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác
kinh tế trong ASEAN, nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được
những mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên của
ASEAN ký kết một Hiệp định về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - AFTA thì
hợp tác kinh tế các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức mới.
Trước khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế hoạch
hợp tác kinh tế khác nhau. Đó là:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP)
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản
xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên là những nỗ lực không nhỏ của ASEAN
tuy nhiên tác động của nó đến thương mại nội bộ ASEAN rất nhỏ và không đủ
khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến
sự không thành công này. Đó là việc vạch kế hoạch kém, vội vã liên kết mà
không có các bước nghiên cứu khả thi kỹ càng, quản lý thiếu hiệu quả, trong
nhiều trường hợp, việc quyết định đầu tư vào ngành công nghiệp nào lại do các
Chính phủ chứ không phải thị trường quyết định tức là còn dựa nhiều vào
những ý tưởng chủ quan mà thiếu đi sự gắn kết với thực tiễn. Hợp tác kinh tế
ASEAN cũng bị ảnh hưởng một phần vì cơ cấu tổ chức với một Ban thư ký có
quá ít quyền hạn độc lập, không đủ khả năng để thực hiện vai trò cơ bản trong
việc đẩy nhanh và tăng cường hợp tác kinh tế khu vực. Nếu như nguyên tắc
nhất trí của ASEAN đã thúc đẩy việc thống nhất và ổn định thì chính nó cũng
làm cho các bước đi hợp tác kinh tế vị chậm lại hoặc bị điều chỉnh chỉ bởi một
nước thành viên thận trọng nào đó.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hướng
tiến đến hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã được chú trọng
hơn,
quy luật thị trường dần dần được tuân thủ, các thủ tục liên quan được đơn giản
hoá và một số trường hợp các thủ tục rườm rà đã được loại bỏ, mức ưu đãi
(MOP) được tăng cường. Tuy không đạt được kết quả mong đợi nhưng các kế
hoạch hợp tác kinh tế này thực sự là những bài học quý báu cho việc hợp tác
kinh tế giữa các nước đang phát triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở đúc rút kinh
nghiệm từ những kế hoạch hợp tác kinh tế trước AFTA. Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN họp tại Singapore năm 1992 đã quyết định thành lập một Khu mậu
dịch Tự do ASEAN (AFTA) theo sáng kiến của Thái lan.
AFTA thực sự là một bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN, là kết quả tất
yếu của những chuyển động về hợp tác kinh tế ASEAN được tính kể từ năm
1976 - năm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất tại Bali
(Indonesia) và là bước đánh dấu sự chú trọng trở lại với các kế hoạch phát triển
kinh tế mà các lĩnh vực ưu tiên chủ yếu là sản xuất và cung ứng các hàng hoá cơ
bản, phát triển các xí nghiệp công nghiệp lớn, thực hiện các thoả thuận thương
mại ưu đãi và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nói tóm lại, AFTA ra đời là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các nhân tố
bên trong và bên ngoài mà ta có thể xem xét khái quát như sau:
Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp hoá trong 2 thập kỷ qua
đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán qua lại giữa các nền kinh tế
ASEAN. Người ta tính rằng vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ
ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nước này đã đạt tới khoảng
20% (* số liệu thống kê trên ) và điều đó chứng tỏ
khuynh hướng liên kết thương mại khu vực đã ngày càng trở nên mạnh mẽ. Các
nền kinh tế ASEAN đã mang đặc tính hướng ngoại dựa vào xuất khẩu và hơn
bao giờ hết nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên kết thị trường, trước
hết là các thị trường láng giềng kề cận lại trở nên quan trọng như vậy. Điều này
càng được thúc đẩy nhanh hơn nhờ sự tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế
khu vực đối với các chiến lược phi điều chỉnh và các biện pháp tự do hoá
thương mại và theo đó, các nước này dễ dàng đi đến những mặc nhiên thừa
nhận AFTA. Chính phủ của từng nước ASEAN cũng đã thấy rõ trở ngại của chủ
nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lược phát triển, đã đi đến nhất trí cởi bỏ nó
bằng việc theo đuổi các chiến lược tự do hoá theo hướng xuất khẩu. Do đó, về
thực chất, chính sự chuyển đổi trong chiến lược phát triển và tình hình kinh tế
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
của các nước ASEAN đã khiến cho đề xuất về một khu vực mậu dịch tự do
ASEAN mang tính khả thi.
Về các nhân tố bên ngoài, vào đầu những năm 90, môi trường chính trị, kinh
tế quốc tế và khu vực đã có những thay đổi quan trọng do chiến tranh lạnh đã
kết thúc. Ở kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh, vị trí của ASEAN trong chiến lược
khu vực và quốc tế của các cường quốc đã bị hạ thấp. Điều đó có nghĩa là Hoa
Kỳ, Trung Quốc, Nga sẽ giảm bớt cam kết an ninh và giúp đỡ về kinh tế cho
ASEAN. Chính sách mới của các cường quốc và những biến đổi theo hướng
tích cực trên bán đảo Đông Dương đưa lại cho ASEAN những cơ hội và thách
thức mới. Ở thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, kinh tế các nước ASEAN đứng trước
những thách thức lớn khiến cho các nước ASEAN không dễ vượt qua nếu
không có sự cố gắng chung của toàn Hiệp hội. Đó là sự xuất hiện những tổ chức
hợp tác khu vực như EU, NAFTA có nguy cơ trở thành các khối thương mại
khép kín, sẽ làm cho hàng hoá ASEAN vấp phải những trở ngại hơn nữa khi
thâm nhập vào các thị trường trên.
Mặc dù trong gần một thập niên qua, kinh tế ASEAN đã tăng trưởng với nhịp
độ cao nhưng nền kinh tế các nước này vẫn phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn
từ bên ngoài. Vị thế và triển vọng tăng trưởng của các nền kinh tế này sẽ không
được củng cố và thúc đẩy nếu như toàn hiệp hội không tạo dựng được sự nỗ lực
chung. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự cấp thiết thành lập khu
vực mậu dịch tự do ASEAN. Trong đó, việc liên kết thị trường khu vực như
một trung tâm sản xuất và thương mại quốc tế là điều kiện căn bản để cải thiện
thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài - một nhân tố được coi là động lực tăng trưởng và tạo ra sự năng
động của châu Á trong những năm gần đây.
Việc thành lập AFTA sẽ mở ra một thị trường tự do rộng lớn và dồi dào tiềm
năng ở khu vực Đông Nam Á. Tham gia AFTA, các nước ASEAN sẽ liên kết
với nhau để phát triển kinh tế chặt chẽ hơn và rút ngắn khoảng cách về sự phát
triển giữa các quốc gia thành viên, nâng cao vai trò của ASEAN trong khu vực
và trên thế giới.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định ASEAN sẽ thành công trong việc
tạo lập AFTA. Thứ nhất, từ giữa những năm 80, các thành viên ASEAN đã lần
lượt thực hiện phi tập trung hoá và tự do hoá nền kinh tế của mình, đã cải thiện
đáng kể (mặc dù chưa đồng bộ) về môi trường đầu tư và thương mại và trên cơ
sở này, AFTA sẽ đặt từng quốc gia thành viên ASEAN trước những nhu cầu
bức thiết phải tiến hành cải cách nền kinh tế quốc gia nhằm thích ứng với các
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
yêu cầu chung của khu vực. AFTA sẽ góp phần đáng kể vào việc cải thiện hiệu
quả sản xuất cho mọi quốc gia thành viên với chi phí ít hơn, hay nói đúng hơn,
AFTA sẽ hỗ trợ cho các nền kinh tế này trở thành các nền kinh tế có hiệu suất
thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa điều chỉnh cơ cấu kinh tế khu vực với cơ
cấu kinh tế nội địa của từng nước. Thứ hai, tạo ra AFTA, về thực chất, ASEAN
sẽ thực hiện một cam kết chính trị đầy đủ, nghĩa là các Chính phủ ASEAN
không chỉ thể hiện những nỗ lực của mình ở trong nước mà thông qua AFTA,
họ còn muốn có sự điều hoà, giải quyết các khó khăn riêng cho từng quốc gia
thành viên. Thứ ba, các nước ASEAN đã có những bài học kinh nghiệm trong
việc thực hiện Hiệp định thương mại ưu đãi ASEAN (PTA) không mấy thành
công từ cuối những năm 70. Do vậy, có thể nói rằng AFTA là thành tựu và là
nấc thang mới trong chiến lược hợp tác kinh tế ASEAN hiện nay. AFTA giúp
các nhà sản xuất giảm chi phí đầu vào khi các thị trường ASEAN mở cửa. Mặt
khác, các nhà sản xuất hàng hoá sẽ được kích thích bởi tiến trình tự do hoá nhập
khẩu nhờ AFTA và đồng thời nhờ đó có thể được lợi do nhận được chi phí về
các sản phẩm trung gian cấu thành đầu vào giảm. Cũng tương tự như vậy, đầu
tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng lên do chỗ các nhà đầu tư nước ngoài muốn được
hưởng các ưu đãi đặc biệt của AFTA.
2. Những mục tiêu cơ bản của AFTA:
2.1. Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước ASEAN
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Bởi lẽ các nước thành viên
ASEAN đều có nền kinh tế hướng ngoại dựa vào xuất khẩu với tỉ trọng mậu
dịch với các nước ngoài khối khoảng 77% trong đó Mỹ chiếm khoảng 20%,
Nhật 14% và EU 15% trong khi đó tỉ trọng mậu dịch nội bộ khối chỉ chiếm
khoảng 23% theo số liệu thống kê trung bình từ năm 1993 là năm bắt đầu thực
hiện Hiệp định CEPT đến năm 1998. Thêm vào đó cơ cấu hàng hoá xuất nhập
khẩu của các nước ASEAN tương đối giống nhau vì các nền kinh tế ASEAN
chủ yếu đều là các nền kinh tế đang phát triển có các điều kiện và nhu cầu xuất
nhập khẩu tương đối giống nhau. Vì vậy kim ngạch thương mại chịu ảnh hưởng
trực tiếp của AFTA sẽ không lớn. Về mặt này, AFTA sẽ không thể so được với
các thoả thuận thương mại khu vực khác như EU hay NAFTA trong đó có sự
liên kết giữa các nền kinh tế rất phát triển với những nền kinh tế kém phát triển
hơn như trường hợp của Mỹ và Mexico. Tuy nhiên mục tiêu này nhằm thúc đẩy
sự hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN. Thông qua AFTA, tạo ra một thị
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
trường chung ASEAN mà trong đó các nước thành viên được hưởng ưu đãi hơn
so với các nước không thuộc Hiệp hội. Từng bước, tiến tới xoá bỏ về cơ bản
thuế nhập khẩu hàng hoá thuộc các nước thành viên ASEAN với nhau, nhưng
vẫn giữ nguyên thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước khác.
Như vậy, với mục tiêu thúc đẩy buôn bán giữa các nước trong khu vực thông
qua chế độ ưu đãi thuế quan, AFTA sẽ tăng sức cạnh tranh của hàng hoá
ASEAN trên thương trường thế giới.
2.2. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối
thị trường thống nhất - xây dựng khu vực đầu tư ASEAN (AIA):
Mục tiêu của AFTA là biến các nước ASEAN thành khu vực hợp tác kinh tế
thông qua việc thực hiện các chương trình kinh tế mà quan trọng nhất là chương
trình ưu đãi thuế quan (CEPT). Mục tiêu trung tâm này góp phần làm tăng
cường năng lực kinh tế của các nước thành viên ASEAN nhằm tạo ra sức mạnh
để tự bảo vệ mình và vươn lên trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn của
nền kinh tế Thế giới, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Vào đầu thập kỷ 90, từ địa vị là địa bàn đầu tư hấp dẫn các nước ASEAN ở
vào thế bị cạnh tranh gay gắt với các nước khác như Trung Quốc, Nga, các
nước Đông Âu, và cả Việt Nam. AFTA sẽ tạo ra một thị trường thống nhất, cho
phép việc khai thác lợi thế kinh tế về qui mô và tạo nhiều điều kiện thuận lợi
khác cho việc hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Khi đầu tư nước ngoài vào ASEAN
tăng lên, do việc mở rộng khai thác các lợi thế của AFTA, chắc chắn sẽ dẫn đến
việc gia tăng trao đổi buôn bán giữa các nước ASEAN về các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Tuy vây, khối lượng buôn bán trao đổi về các sản phẩm
đầu vào như vậy chắc chắn sẽ tăng nhưng tỷ trọng so với tổng kim ngạch
thương mại của ASEAN sẽ không lớn vì những lý do mang tính cơ cấu hàng
hoá xuất nhập khẩu như đã nêu trên, đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện
AFTA khi quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư và sản xuất quốc tế và khu vực
xuất phát từ việc thành lập AFTA và sau này là việc hình thành khu vực đầu tư
ASEAN (AIA).
Mục tiêu của AIA là xây dựng một khu vực đầu tư ASEAN thông thoáng, rõ
ràng và hấp dẫn nhất nhằm đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ cả các nguồn trong
và ngoài Hiệp hội. Tinh thần của AIA là muốn các nước thành viên "mở cửa
ngay lập tức" các ngành nghề và "dành ngay lập tức" chế độ đối xử quốc gia.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng vì kết quả trao đổi mậu dịch
giữa các quốc gia này sẽ tăng theo AFTA và do đó, sẽ kích thích các công ty
Nhật, Mỹ, EU và NIEs đầu tư nhiều hơn để giữ thị trường này thay vì trước đây
họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào ASEAN sẽ tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường khu vực
ASEAN và theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm cung
cấp sản phẩm cho các thị trường này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, các
thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và thông qua
AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với
các khu vực khác. Vấn đề đáng lưu ý là ASEAN cần phải đón bắt được các
dòng đầu tư quốc tế đang trong xu hướng chuyển mạnh từ các khu vực Âu, Mỹ
trở lại châu Á. Dĩ nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN không phải là
một hiện tượng mới, song những tác động của tiến trình AFTA sẽ nâng cao và
thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở
liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể hy vọng tới khả
năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
2.3. Hướng ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đặc biệt là xu
thế tự do hoá thương mại thế giới
Chương trình CEPT là sẽ đưa ASEAN AFTA trở thành một khu vực mở và là
sự phản ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở cả trong và ngoài khu
vực. Hay nói cách khác mục tiêu này liên quan đến sự đáp ứng của ASEAN đối
với xu hướng đang gia tăng của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Trước những
biến động của bối cảnh quốc tế, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện
và tương lai có thể không chỉ dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên minh
quan thuế mà sẽ tiếp tục được phát triển thành một liên minh tiền tệ, một liên
minh kinh tế. Nhờ tăng buôn bán trong và ngoài khu vực, AFTA sẽ trợ giúp cho
các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng được với chế độ thương mại đa biên
đang tăng lên ngày càng nhanh chóng, hoà nhập với xu thế thương mại chung
của thế giới.
3. Nội dung cơ bản của AFTA
3.1 Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung - CEPT
sự thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc cắt giảm thuế quan
trong nội bộ xuống còn 0 - 5%, hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
thuế từ ngày 1/1/1993 đến ngày 1/1/2003. Chương trình thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung này sẽ thực hiện theo 4 danh mục. Danh mục 1 là giảm thuế
nhập khẩu, được chia làm 2 phần: Phần thứ 1 là cắt giảm nhanh, áp dụng cho
các loại sản phẩm có mức thuế suất từ 20% trở xuống và phần thứ 2 là cắt giảm
thuế quan thông thường, áp dụng cho các loại hàng hoá có mức thuế suất nhập
khẩu cao hơn 20%. Danh mục này được áp dụng cho 15 nhóm sản phẩm công
nghiệp chế biến của ASEAN như: xi măng, hoá chất, phân bón, chất dẻo, hàng
điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giấy, đồ gốm và
thuỷ tinh, đồ dùng bằng gố và song mây, dược phẩm với khoảng 3200 mặt
hàng, chiếm tới 43% tổng số danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Danh mục
2 là Danh mục loại trừ tạm thời, chưa cắt giảm thuế nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho một số thành viên ASEAN tham gia vào tiến trình tự do hoá thương mại
mà không bị sốc về kinh tế, tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra
trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn định
thương mại hoặc để chuyển hướng sản xuất đối với một số sản phẩm tương đối
trọng yếu trong buổi đầu tham gia CEPT, không bị ảnh hưởng xấu đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh trong nước. Sau 5 năm, những hàng hoá này sẽ phải
chuyển dần sang Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh
mục loại trừ tạm thời. Danh mục 3 là Danh mục loại trừ hoàn toàn, bao gồm các
sản phẩm không tham gia CEPT nhưng phải có điều kiện phù hợp với quy chế
Tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Đây là các mặt hàng có ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia, đạo đức xã hội, vốn sống và sức khoẻ con người, động vật, thực
vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật của mỗi nước. Danh mục 4
là sản phẩm nông sản chưa qua chế biến. Các mặt hàng nông sản chưa chế biến
có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế các nước ASEAN. Thời hạn
đưa các mặt hàng trong danh mục này vào Danh mục giảm thuế sẽ bắt đầu từ
2001 và kết thúc vào 2003, đối với Việt Nam là 2004 và 2006.
Hơn nữa, chương trình CEPT còn cho phép các nước thành viên đưa ra một
danh mục tạm thời chưa thực hiện tiến trình giảm thuế theo kế hoạch CEPT để
các nước có thời gian chuẩn bị, nâng cao hơn khả năng cạnh tranh hàng hoá của
nước mình.
Danh mục các mặt hàng thuộc CEPT của Việt Nam năm 1998:
- Danh mục giảm thuế: 1.661 dòng thuế
- Danh mục loại trừ tạm thời: 1.317 dòng thuế
- Danh mục nhạy cảm: 26 dòng thuế
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
- Danh mục loại trừ hoàn toàn: 213 dòng thuế
Tổng cộng là 3.217 dòng thuế (* nguồn Bộ Tài chính và Ban thư ký ASEAN)
Như vậy, cốt lõi của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do là thực hiện
chương trình CEPT, nhằm giảm dần thuế nhập khẩu hàng hoá giữa các nước
ASEAN với nhau tới mức 0 - 5%, nhằm mục đích khuyến khích thương mại
giữa các nước thành viên. Theo chương trình này, các nước thành viên đưa ra
danh mục những mặt hàng sẽ tham gia vào CEPT, cắt giảm những biện pháp
hạn chế phi thuế quan khác, và đưa ra lịch trình triển khai. Chương trình này bắt
đầu vào năm 1993, dự kiến kéo dài 15 năm, nhưng mới đây được rút bớt 5 năm,
tức là kết thúc vào năm 2003. Theo quy ước của AFTA, ngoài các loại nông sản
chưa chế biến hoặc sơ chế là những mặt hàng không nằm trong CEPT, mỗi
nước xác định và đăng ký 3 loại mặt hàng tuỳ theo mức độ tham gia CEPT;
không tham gia hoàn toàn, tạm thời chưa tham gia và tham gia.
Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các thoả thuận
trong hiệp định AFTA như là: sự thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hoá hàng
hoá giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng
hoá của nhau, xoá bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thương, hoạt động
tư vấn kinh tế vĩ mô trong đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu.
CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN về
việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% thông qua "cơ cấu
thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung" đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định
lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với
mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hoá tư bản và
các sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến.
Tuy vậy, trong khung hiệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các mặt hàng
công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu được thụ hưởng các ưu đãi của
chương trình giảm thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan cho chúng sẽ được áp
dụng trong một lịch trình cụ thể theo 2 kênh giảm nhanh và giảm thông thường
đồng tuyến, nghĩa là trong vòng 7 đến 10 năm, phải đưa được khoảng 90%
trong số hơn 44.000 dòng thuế của các nước ASEAN xuống mức thuế dưới 5%
vào năm 2000 và sau đó sẽ đưa được mức thuế quan bình quân của toàn
ASEAN vào năm 2003 khoảng 2,63%.
Kênh giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế quan tăng tốc) có lịch
trình giảm thuế nhanh sẽ được phân định thành hai nấc: các sản phẩm có thuế
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
suất trên 20% được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000 và các sản phẩm có
thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/1998.
Kênh giảm thuế bình thường (còn gọi là chương trình giảm thuế quan theo
lịch trình thông thường) sẽ áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế
biến còn lại. Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, việc giảm thuế ở
kênh này sẽ được tiến hành theo hai nấc: sẽ giảm thuế suất của chúng xuống tới
20% vào năm 1998 và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào năm 2003.
Đối với sản phẩm đã có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm thuế
đến 0-5% trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các danh mục giảm
thuế theo kênh thông thường hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các danh
mục hàng hoá tham gia CEPT với 49%.
Với các tỷ lệ lớn của hai danh mục giảm thuế trong chương trình thực hiện
CEPT (khoảng 93%), các lịch trình giảm thuế này nếu được thực hiện, về căn
bản, chúng đã gần như hoàn thành tỷ suất tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN.
Điều đáng lưu ý ở dây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nước thành
viên ASEAN đã có đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là không
nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy định rạch ròi cho
các suất thuế cần cắt giảm qua từng thời kỳ. Tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế
quan xuống còn 0-5% càng sớm càng tốt trước năm 2003. Hiện nay Hội đồng
AFTA đã chấp nhận đề xuất đó như một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu
về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thương mại ASEAN trước thời hạn đã
định. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (15-16/12/1998), với sáng
kiến thực hiện các thoả thuận đa phương và song phương, đã khẳng định một
lần nữa việc đẩy nhanh tiến trình AFTA. Ít ra là phải hoàn thành AFTA vào
năm 2000 đối với 6 nước thành viên ASEAN đã kết nạp trước năm 1995.
Cũng xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt của từng quốc gia thành viên mà CEPT
còn quy định danh mục các sản phẩm tạm thời chưa tham gia giảm thuế (còn
gọi là danh mục loại trừ tạm thời) để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này
Các sản phẩm trong danh mục này sẽ không được hưởng nhượng bộ từ các
nước thành viên và chỉ tồn tại mang tính chất tạm thời, nghĩa là sau 5 năm,
chúng sẽ buộc phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến
đã định. Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục loại trừ tạm thời sẽ phải
chuyển sang danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm. Dĩ
nhiên, loại danh mục này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 8% tổng số các danh
mục tham gia giảm thuế.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Một vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong việc xây dựng chương trình
CEPT là vấn đề đưa hay không đưa các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế
biến vào danh mục giảm thuế. Theo Hiệp định CEPT năm 1992, các sản phẩm
nông nghiệp chưa qua chế biến không được đưa vào danh mục giảm thuế theo
CEPT. Nhưng đến tháng 9/1994, các thành viên ASEAN đã đồng ý đưa chúng
vào danh mục này. Do đó, cùng với các danh mục giảm thuế là loại trừ thuế tạm
thời, phạm vi sản phẩm tham gia tiến trình tự do hoá thương mại theo CEPT đã
được mở rộng tới 98% tổng số dòng thuế của toàn khối ASEAN. Các sản phẩm
nông nghiệp chưa qua chế biến cũng sẽ được phân định thành ba danh mục:
danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn và một danh mục đặc biệt
khác là danh mục các sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm. Trừ một số nhỏ hàng
nông nghiệp chưa qua chế biến được đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn, hiện
hành nông nghiệp chưa qua chế biến của toàn bộ ASEAN bao gồm 1823 dòng
thuế, chiếm 4% tổng số dòng thuế sẽ giảm theo CEPT của các quốc gia này.
Các sản phẩm thuộc danh mục nhạy cảm là đối tượng cần có cơ chế tự do hoá
riêng phù hợp với các quy định của Hiệp định về nông sản của WTO. Tuy
nhiên, mức cam kết giảm thuế của các sản phẩm thuộc danh mục này ở ASEAN
sẽ cao hơn mức mà các nước thành viên đã cam kết tại vòng đàm phán
Urugoay. Đến nay, theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng
này đã được phép kết thúc lịch trình giảm thuế đến 0-5% vào ngày 1/1/2010.
Như vậy, xét một cách tổng quát, cấu trúc CEPT bao gồm 3 danh mục chính:
danh mục giảm thuế, danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế và danh
mục các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến. Tuy nhiên, để vận dụng
đúng hơn về CEPT, các thành viên ASEAN đã thống nhất xây dựng một danh
mục loại trừ hoàn toàn một số sản phẩm ra khỏi lịch trình giảm thuế theo CEPT,
tức là việc cắt giảm thuế đối với những sản phẩm này sẽ không được áp dụng
theo các quy định của CEPT. Đó là những sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con người, đến việc bảo tồn
các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử, khảo cổ
Khi vận dụng CEPT, chúng ta không được quên một điều kiện bổ sung cho
cơ chế giảm thuế theo CEPT, đó là những nhượng bộ trao đổi giữa các quốc gia
ASEAN khi thực hiện CEPT trên các nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc này
bắt buộc các nước thành viên để được hưởng ưu đãi về thuế quan của nhau khi
xuất khẩu theo CEPT cần đảm bảo đúng các yêu cầu sau đây: thứ nhất, sản
phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và
nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan tối đa là 20%; thứ hai, sản phẩm đó
phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua và thứ ba, sản
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
phẩm đó phải là những sản phẩm có hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên
ASEAN với ít nhất là 40%. Nếu một sản phẩm đảm bảo được ba yêu cầu đó,
chúng sẽ được hưởng ưu đãi hoàn toàn từ phía các quốc gia nhập khẩu. Để xác
định các sản phẩm có đủ điều kiện hưởng thuế quan ưu đãi theo chương trình
CEPT hay không, mỗi nước thành viên hàng năm phải công bố "tài liệu trao đổi
ưu đãi CEPT" trong đó cần thể hiện được mức thuế quan của các sản phẩm theo
CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện ưu đãi.
Tóm lại, CEPT được thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại
trong nội bộ ASEAN. Bởi vì dựa vào các kế hoạch giảm thuế đã được các nước
thành viên ASEAN cam kết theo chương trình CEPT, đến năm 2000 chắc chắn
87,7% tổng số các dòng thuế tham gia giảm thuế sẽ có mức thuế 0-5%. Điều
này hoàn toàn có cơ sở khi mà hiện nay các sản phẩm CEPT đã tăng rất nhanh
trong tổng kim ngạch xuất khẩu nội bộ ASEAN, từ 81,38% năm 1994 lên
84,7% năm 1995.
3.2. Huỷ bỏ hạn chế về định lượng hàng rào phi quan thuế
Đây là cơ chế quan trọng thứ hai được tiến hành đồng thời với thực hiện
chương trình CEPT. Các nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế
về số lượng đối với các sản phẩm CEPT trên cơ sở chế độ ưu đãi thuế quan
được áp dụng cho các sản phẩm đó. Các hàng rào phi quan thuế khác cũng sẽ
được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.
Đây là sự hỗ trợ cực kỳ quan trọng cho tiến trình AFTA vì lẽ cắt giảm thuế là
biện pháp cần thiết, đầu tiên song đó không phải là biện pháp duy nhất để thực
hiện tự do hoá thương mại. Các khía cạnh như: các kênh giảm thuế đồng tuyến,
danh mục loại trừ tạm thời, danh mục hàng nông nghiệp chưa qua chế biến tạo
nên tính kỹ thuật của chính sách tự do hoá thương mại, còn cấu thành nên sự tác
động có tính chất hành chính, pháp lý giữa các quốc gia trong tiến trình chu
chuyển thương mại đó là các biện pháp về giấy phép xuất nhập khẩu, hạn
ngạch, các hạn chế về tỷ giá hối đoái, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật hàng
hoá Đây là những rào cản trong thực tiễn hoạt động thương mại, nó gắn chặt
với các chính sách bảo hộ mậu dịch nặng nề và theo đó, việc loại bỏ chúng sẽ
không dễ dàng nếu không có sự cải cách toàn diện ở tầm vĩ mô nền kinh tế của
từng nước. Hơn nữa, hiện nay, những biện pháp này còn rất không đồng nhất
giữa các nước thành viên ASEAN. Do vậy, để chuẩn bị tốt tiến trình xoá bỏ các
hàng rào phi quan thuế, Uỷ ban Phối hợp thực hiện CEPT/AFTA của ASEAN
đã tiến hành các bước như sau:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Bước 1: Các nước thành viên cùng thống nhất định nghĩa về các biện pháp phi
quan thuế dựa trên sự phân loại của UNCTAC.
Bước 2: tập trung trước tiên việc giảm các hàng rào phi thuế quan đối với các
sản phẩm có tỷ trọng lớn trong giao dịch thương mại nội bộ ASEAN.
Bước 3: Ban thư ký ASEAN sẽ tập hợp thông tin các hàng rào phi quan thuế
của các nước thành viên từ nhiều nguồn, gồm: báo cáo của các quốc gia thành
viên, bản đánh giá chính sách thương mại của GATT, báo cáo của Phòng
thương mại-Công nghiệp ASEAN, hệ thống thông tin và phân tích dữ liệu
thương mại của UNCTAC để có một chính sách điều hoà thích hợp. Trừ một
số lý do được phép duy trì các hàng rào phi quan thuế như: sự cần thiết phải bảo
hộ một số sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, sự bảo hộ đối với một
số sản phẩm trong thời gian còn được hưởng chế độ miễn trừ tạm thời việc
xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế cần được phối hợp đồng bộ với chương trình
CEPT, trong đó quan trọng nhất và khó khăn nhất là việc thống nhất các tiêu
chuẩn về hàng hoá và việc thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa
các nước thành viên. Hiện tại, Uỷ ban về tiêu chuẩn Chất lượng của ASEAN
(ACCSQ) đang tiến hành thống nhất hoá các tiêu chuẩn về kỹ thuật của các sản
phẩm CEPT thuộc nhóm những hàng hoá có kim ngạch buôn bán lớn giữa các
nước ASEAN. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt rõ giữa hàng rào phi quan thuế và
các biện pháp phi quan thuế bởi vì rất nhiều biện pháp phi quan thuế lại có tác
dụng tốt cho việc tạo dựng môi trường thương mại. Ví dụ, chính sách trợ giá
xuất khẩu của Chính phủ, biện pháp chống bán phá giá
Dĩ nhiên, việc thống nhất và xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế là một công
việc khó khăn vì ba lý do: thứ nhất, các hàng rào phi quan thuế đa dạng và
thường ẩn dấu đằng sau các chính sách (ví dụ chính sách kiểm dịch, chính sách
duy trì hạn ngạch để hỗ trợ công nghiệp, chính sách đánh giá cao giá trị của
đồng bản tệ ); thứ hai, các bộ luật thuế quan của các nước ASEAN vẫn còn
chưa được điều hoà (Việt Nam theo hệ thống điều hoà thuế quan (HS) 6 chữ số,
Thái Lan là HS-8, Malaysia và Singapore là HS-9 ), và theo đó, cơ quan hải
quan trong từng nước thành viên khó có thể áp dụng đúng thuế, đúng sản phẩm.
Thứ ba là, các nguyên tắc về xuất xứ sản phẩm cũng sẽ làm phức tạp hơn các
tình thế xử lý về mặt phi quan thuế theo CEPT khi đầu tư và thương mại giữa
các nước ASEAN trở nên thường xuyên và mật thiết. Để giải quyết các vấn đề
này, phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN có nhiệm vụ đẩy nhanh quá
trình điều hoà các bộ luật thuế quan với sự ưu tiên trước hết giành cho các sản
phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch buôn bán nội bộ ASEAN và
những sản phẩm thuộc 15 danh mục hàng hoá tham gia kênh giảm thuế nhanh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
của CEPT. Hội đồng CEPT đã tán thành kế hoạch hành động để điều hoà về các
tiêu chí luật thuế và phi quan thuế trên toàn khu vực vào năm 1997.
3.3. Sự phối hợp trong ngành hải quan
Các nước ASEAN đã xác định việc hợp tác hải quan là một trong những nhân
tố quan trọng để thực hiện mục tiêu của AFTA, do vậy ngay sau khi Hiệp định
CEPT được ký kết, các nước đã tăng cường hợp tác trên lĩnh vực này.
Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi nó hỗ trợ
các nước thành viên thống nhất biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà (HS) của
nó. Hơn nữa, nó tạo thuận lợi cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi
hệ thống tính giá hải quan được thống nhất, các luồng xanh ưu đãi cho hàng hoá
theo CEPT của ASEAN được hình thành và đặc biệt thủ tục hải quan được
thống nhất. Như vậy, tiến trình AFTA nhanh hay chậm, được điều chỉnh hay bổ
sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác hải quan.
Thuế quan trung bình theo CEPT trong giai đoạn 1998-2003 của
ASEAN
Nước thành viên 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Bruney
Indonesia
Lào
Malaysia
Mianma
Philipin
Singapore
Thailand
Việt Nam
1,4
6,1
5,0
3,4
4,5
7,4
0,0
10,6
3,9
1,3
5,3
5,0
3,0
4,5
6,5
0,0
9,8
3,9
1,0
4,6
5,0
2,6
4,4
5,3
0,0
7,4
3,0
1,0
4,4
5,0
2,4
3,3
4,8
0,0
7,4
3,0
0,9
4,1
5,0
2,3
3,3
4,5
0,0
6,0
2,7
0,9
3,7
5,0
2,0
3,2
3,6
0,0
4,6
1,8
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
ASEAN 5,1
4,6
3,7
3,5
3,2
2,6
Đơn vị: % (* nguồn: Ban thư ký ASEAN, 1999)
Ghi chú: Thuế suất theo CEPT của toàn ASEAN là bình quân gia quyền với
quyền số là dòng thuế trong Danh mục cắt giảm ngay (IL) năm 1998.
Chúng ta thấy, thuế quan bình quân ASEAN vào thời điểm này của từng
nước ASEAN-6 đều đã đạt xấp xỉ dưới 5% (ngoại trừ Thailand và Philipin vẫn
còn thuế suất bình quân khá cao). Như vậy có thể nói các nước ASEAN-6 về cơ
bản đã hoàn thành việc chuyển các dòng thuế trong các danh mục, đặc biệt là
Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay đồng thời giảm thuế
trong Danh mục cắt giảm ngay.
Đối với các thành viên mới, vì thời hạn hoàn thành CEPT còn xa hơn, do đó,
tiến độ chuyển các dòng thuế từ các danh mục, đặc biệt là Danh mục loại trừ
tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay chậm hơn. Tới năm 2000, mới chỉ có
khoảng 50% số dòng thuế được đưa vào Danh mục này.
Đối với Việt Nam, năm 2000 sẽ đạt 3.573 dòng thuế trên tổng số 4.827 dòng
trong Danh mục cắt giảm ngay, tương đương khoảng 74% tổng số dòng thuế.
Đây là tỷ lệ cao nhất so với các thành viên mới khác của ASEAN. Cũng căn cứ
vào số liệu do Ban thư ký ASEAN cung cấp, trong năm 2000, mức thuế quan
bình quân thực hiện CEPT của Việt Nam đạt 3,4% từ mức 3,9% năm 1999, đây
là một sự cắt giảm đáng kể. So với mức thuế quan bình quân hiện nay tính gia
quyền theo kim ngạch thương mại cho tất cả các dòng thuế (kể cả dòng có thuế
suất bằng 0) trên 11% thì chúng ta đã thực hiện thuế theo CEPT chỉ thấp bằng
1/3 của mức thuế suất bình quân hiện hành áp dụng chung cho các nước có
quan hệ thương mại với Việt Nam.
Trên cơ sở thực hiện Hiệp định CEPT với các nước ASEAN, thời gian vừa
qua Việt Nam đã đạt được nhiều thuận lợi về thương mại với các nước ASEAN,
điều dó tạo điều kiện để kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh
chóng. Khu vực các nước ASEAN đã và sẽ ngày càng chiếm một vị trí quan
trọng trong mối quan hệ thương mại với Việt Nam.
Tổng cục Hải quan đã tham gia với các nước thành viên ASEAN khác trong
mọi lĩnh vực hợp tác hải quan ASEAN: Điều hoà thống nhất danh mục biểu
thuế quan của các nước ASEAN; Điều hoà thống nhất các hệ thống xác định trị
giá hải quan để tính thuế; Điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan
ASEAN; Xuất bản sách Hướng dẫn về các quy trình thủ tục hải quan của các
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
nước; Triển khai Hệ thống Luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục
hải quan cho các sản phẩm của CEPT; Xây dựng tờ khai hải quan chung; Xây
dựng Hiệp định Hải quan của các nước ASEAN.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực này do những sự khác biệt giữa Việt Nam và các
nước về quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu, danh mục biểu thuế, quy trình
thủ tục hải quan nên ta đang có những khó khăn khi tham gia các nội dung hợp
tác này.
4. Triển vọng của AFTA
Tỷ lệ xuất khẩu của ASEAN sang các đối tác ngoài khối tăng 10.5% tương
đương 200,5 tỉ đô la năm 1999 từ 178,4 tỉ đô la năm 1998. Điều này có sự đóng
góp rất lớn của các mặt hàng xuất khẩu sang EU, tiếp theo là Mỹ, Hàn Quốc và
Nhật Bản. Trong khi lượng nhập khẩu từ các đối tác này cũng tăng vào năm
1999 trừ Mỹ, lượng nhập chỉ còn 5 tỉ đô la. Sự gia tăng nhập khẩu trong số các
đối tác thuộc khối chủ yếu là từ Hàn Quốc và Nhật Bản.
Các quốc gia thành viên dược thụ hưởng các điều kiện ưu đãi do AFTA mang
lại: có thị trường chung rộng lớn, các yếu tố đầu vào giảm, thu hút mạnh mẽ đầu
tư nước ngoài và thông qua AFTA từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Trên cơ sở này, các nước thành viên ngày càng phát huy được các lợi thế so
sánh của mình. Cũng vì vậy, người ta đã dự báo rằng trong những năm đầu
của thế kỷ XXI, ASEAN vẫn là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao
nhất, vẫn là những nền kinh tế có hiệu suất của khu vực phát triển năng động
nhất thế giới. Với việc Việt Nam gia nhập APEC vào năm 1998, ASEAN ngày
càng có ảnh hưởng đáng kể đối với Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương.
Hiện tại, Hiệp hội ASEAN đã quyết định kết nạp thành viên cuối cùng của
Đông Nam Á là Campuchia vào tổ chức của mình. từ ASEAN - 9 đến ASEAN -
10 và theo đó là việc nghiễm nhiên Campuchia tham gia AFTA, khu vực mậu
dịch tự do ASEAN sẽ được mở rộng về quy mô, đa dạng về trình độ, và là sự bổ
sung về mặt cơ cấu để cả khu vực ASEAN thành một thể chế kinh tế thống
nhất. Những kinh nghiệm và các vấn đề bức xúc đặt ra trong tiến trình thực hiện
AFTA hiện nay sẽ là những bài học quý giá cho các thành viên đi sau. Nhìn
chung, triển vọng ở AFTA không phải chỉ là hiệu quả thương mại và đầu tư nội
bộ khu vực mà là ở việc AFTA đã đặt tất cả các nền kinh tế thành viên trước
những sự chuyển đổi cần thiết từ bên trong, tìm được ra những điểm tương
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
đồng, bổ sung và thúc đẩy nhau với tư cách là một thể chế thống nhất có sức
mạnh và ảnh hưởng lớn tới các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu khác.
AFTA với tư cách là một sự nhất thể hoá thị trường khu vực, sẽ làm tăng sự
lệ thuộc lẫn nhau vì sự cần thiết phải phối hợp với nhau về các chính sách kinh
tế. Mọi sự chênh lệch về mức thuế quan sẽ được thu hẹp và khả năng mở ra cho
một khu vực thương mại tự do hơn sẽ được đẩy mạnh. Những nhân tố chủ yếu
quyết định sự thành công của AFTA mà chúng ta có thể thấy là: thứ nhất, với
sự hội tụ của công nghiệp hoá, giảm thuế quan và các hàng rào phi quan thuế,
phi điều chỉnh và tư nhân hoá, nguồn gốc tiềm tàng của xung đột và các vấn đề
nảy sinh trong khu vực thương mại tự do sẽ bị thu hẹp. Thứ hai, với chương
trình giảm thuế CEPT được kết hợp chặt chẽ với chương trình hợp tác công
nghiệp ASEAN (AICO), các lợi ích thu được từ AFTA sẽ được nhân lên gấp
bội. Cùng với các chương trình hợp tác rộng rãi về nhiều lĩnh vực: tài chính,
tiền tệ, sở hữu trí tuệ và hợp tác theo vùng kinh tế khu vực như là với các tam
giác, tứ giác tăng trưởng ASEAN sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ. Thứ ba, sự hài
hoà trong khu vực về các tiêu chuẩn công nghiệp, luật đầu tư và các chính sách
nội địa khác sẽ góp phần đẩy nhanh tiến ttrình nhất thể hoá. Thứ tư, với những
thành công trong vòng đàm phán Urugoay và với sự tăng cường của WTO,
APEC, Hiệp hội ASEAN nhất thiết phải cố gắng giảm thuế quan và phi quan
thuế nhanh cho tất cả đối với các nước thành viên và không phải thành viên. Do
đó, thực hiện AFTA trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá hiện nay đang
tạo cơ hội tốt nhất cho các nước thành viên ASEAN tiếp tục mở rộng sự tăng
trưởng năng động của nó. )
5. Những tác động của AFTA đến các nước thành viên
Khi tham gia vào AFTA có ba loại chủ thể chịu tác động là Nhà nước,
doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Đối với Nhà nước, khi gia nhập AFTA, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu
sẽ giảm xuống. Nếu việc tham gia AFTA không làm tăng khối lượng biôn bán
đến lúc mà số lượng thuế thu được do tăng doanh thu không bù đắp được sự cắt
giảm thu do giảm thuế suất.
Đối với doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại chịu hai loại tác
động ngược chiều, tăng khả năng cạnh tranh về giá cả và chịu sức ép cạnh tranh
lớn hơn do xoá bỏ các hàng rào bảo hộ.
Đối với người tiêu dùng, họ sẽ có lợi về giá cả rẻ hơn, chủng loại hàng
hoá phong phú đa dạng hơn. Họ đước quyền lựa chọn lớn hơn và mức độ thoả
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
mãn trong tiêu dùng cao hơn.
CHƯƠNG II:
VIỆC THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUÔN KHỔ AFTA
I. NHỮNG CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG KHUÔN KHỔ AFTA
1. Áp dụng quy chế tối huệ quốc - MFN
Việt Nam cam kết áp dụng trên cơ sở có đi có lại, ưu đãi tối huệ quốc và ưu
đãi quốc gia cho các nước thành viên ASEAN, cung cấp các thông tin phù hợp
về chính sách thương mại theo yêu cầu. Có thể nói, hợp tác kinh tế là quá trình
hợp tác trên cơ sở "có đi có lại", trong đó các nước thành viên giành sự đối xử
ưu đãi cho nhau trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của tổ chức, chấp nhận các
luật lệ và tập quán quốc tế. Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư trong tổ
chức ASEAN nói riêng và APEC, GATT, WTO nói chung đều được thực hiện
trên cơ sở giải thoát các nước ra khỏi tình trạng phân biệt đối xử nghiêm trọng
trong các quan hệ thương mại gây cản trở lớn cho phát triển kinh tế thế giới,
trong đó mọi thành viên đều bình đẳng, mọi quyết định đều đạt tới bằng sự nhất
trí chung tôn trọng quan điểm của các nước tham gia. Trên nguyên tắc vừa hợp
tác vừa đấu tranh để tiến hành các cuộc thương lượng tập thể nhằm thiết lập các
thoả thuận và và các luật lệ chung, việc tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và
khu vực nói chung và AFTA nói riêng giúp chúng ta tránh khỏi tình trạng bị
phân biệt đối xử trong trong quan hệ với các nước, đặc biệt là những nước lớn,
tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế, tranh thủ được lợi ích tập
thể của cả khối để nâng cao vai trò và sức cạnh tranh của mình trong quan hệ
với các cường quốc, giải quyết các tranh chấp thương mại với các nước thành
viên.
2. Cắt giảm thuế quan Việt Nam - AFTA theo CEPT
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ VI, các nguyên thủ quốc gia
ASEAN đã quyết định đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện AFTA. Theo các cam
kết của ASEAN thì:
Sáu nước ASEAN gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Thái Lan sẽ hoàn thành AFTA vào năm 2002, cụ thể là:
+ Đạt ít nhất 85% số dòng thuế của Danh mục giảm thuế (IL) có thuế suất 0 -
5% vào năm 2000
+ Đạt ít nhất 90% số dòng thuế của IL có thuế suất 0- 5% vào năm 2001
+ Đạt 100% số dòng thuế của IL có thuế suất 0 - 5% vào năm 2002, nhưng
có một số linh hoạt
Việt Nam sẽ tối đa số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2003, mở rộng số dòng
0% vào năm 2006
Lào và Myanma sẽ tối đa số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2005, mở rộng số
dòng thuế 0% vào năm 2008
Tại Hội nghị AEM Retreat (3/1999), các Bộ trưởng kinh tế ASEAN đã đặt
mục tiêu phấn đấu đạt 60% số dòng thuế trong Danh mục cắt giảm thuế (IL)
có thuế suất 0% vào năm 2003.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm những mặt hàng sẽ được loại trừ
vĩnh viễn ra khỏi chương trình CEPT. Danh mục này được xây dựng phù hợp
với điểm 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con
người, động vật, thực vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật
của mỗi nước… Danh mục loại trừ hoàn toàn của Việt Nam ban đầu gồm 213
dòng thuế, chiếm 6,2% tổng số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu. Sau đó
được chuyển bớt một số sang Danh mục loại trừ tạm thời và cơ cấu lại còn
127 dòng thuế.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) chủ yếu được sử dụng để nhằm đạt được
yêu cầu không ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách và bảo hộ các ngành
sản xuất trong nước. Danh mục này gồm các sản phẩm mà các nước ASEAN
chưa sẵn sàng cắt giảm thuế ngay. Trong vòng 5 năm, kể từ 1/1/1996 (đối với
Việt Nam là 1/1/1999), các sản phẩm thuộc danh mục này phải được chuyển
dần vào Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục.
Đối với các sản phẩm có thuế suất trên 20% và được chuyển sang Danh mục
giảm thuế trước 1/1/1998, đến 1/1/1998 thuế suất phải được giảm xuống
20%. Đối với các sản phẩm được chuyển sang Danh mục giảm thuế sau
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
1/1/1998, thuế suất khi đưa vào phải bằng hoặc nhỏ hơn 20%, để từ đó giảm
tiếp xuống 0 - 5%. Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam bao gồm 1147
dòng thuế chiếm 39,2 % tổng số dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu.
Danh mục giảm thuế (IL)
Theo quy định của Hiệp định CEPT/AFTA (đã sửa đổi), những mặt hàng
được đưa vào IL là những mặt hàng sẽ phải cắt giảm thuế để có thuế suất
cuối cùng từ 0% đến 5% vào năm 2003 (đối với Việt Nam là năm 2006, đối
với Lào và Myanma là năm 2008). Kể từ năm 1996, mỗi năm các nước
ASEAN phải đưa thêm 20% các mặt hàng từ danh mục hàng tạm thời chưa
giảm thuế (TEL) sang IL. Các thời hạn tương ứng đối với Việt Nam là năm
1999, với Lào và Myanma là năm 2001, Campuchia là 2003. Trong quan hệ
thương mại giữa hai nước ASEAN, chỉ khi một mặt hàng nằm trong IL của
cả hai nước thì mới được hưởng các ưu đãi nói cách khác ưu đãi được đưa ra
trên cơ sở có đi có lại. Danh mục giảm thuế của Việt Nam gồm 1718 dòng
thuế, chiếm 53% tổng số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu.
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL)
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến có khả năng gây ảnh hưởng
lớn đến nền kinh tế ASEAN nếu thực hiện giảm thuế quan theo lịch biểu của
chương trình CEPT. Danh mục này được xây dựng dựa trên cơ sở tham khảo
danh mục này của các nước ASEAN và căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của
sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến. Thời
hạn đưa các mặt hàng trong Danh mục này vào Danh mục giảm thuế sẽ bắt
đầu từ 2001 và kết thúc vào 2003 (đối với Việt Nam là 2004 và 2006). Các
mặt hàng trong Danh mục này được kéo dài thời hạn giảm thuế quan xuống 0
- 5% cho đến năm 2010 thay vì 2003 như các mặt hàng khác (đối với Việt
Nam là 2013). Đây là các mặt hàng quan trọng đối với mỗi nước nên thường
được bảo hộ rất cao, vì thế bên cạnh thời hạn giảm thuế, các mặt hàng này
còn cần phải có thoả thuận cụ thể về thuế suất bắt đầu thực hiện giảm thuế và
các chế độ đãi ngộ khác. sống ngành.
Danh mục cắt giảm thuế quan chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có
thuế suất thấp hơn 20% và một số mặt hàng có thuế suất cao hơn nhưng Việt
Nam đang có lợi thế xuất khẩu.
Việt Nam đã đưa ra nội dung và kế hoạch thực hiện chương trình cắt giảm
thuế quan nhập khẩu theo cam kết CEPT/AFTA trong năm 2000 và những năm
sau đó. Theo Tổng cục thuế - Bộ Tài chính đến hết năm 1999, Việt Nam đã cắt
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
giảm thuế 3.580 mặt hàng, chiếm 60 % tổng số dòng thuế dự kiến đưa vào thực
hiện , Danh mục nhạy cảm của Việt Nam gồm 23 dòng thuế, bao gồm các mặt
hàng như: các loại thịt, trứng gia cẩm, động vật thóc, gạo lức, đường ăn,… Các
mặt hàng này hiện đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý
theo hạn ngạch, quản lý của Bộ chuyên chương trình cắt giảm thuế. Trong năm
2000, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ phê chuẩn ban hành danh mục CEPT.
Danh mục CEPT 2000 của Việt Nam gồm khoảng 4.230 dòng thuế, trong đó có
hơn 640 dòng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm thời vào thực hiện CEPT
2000, đạt 65% tổng số dòng thuế dự kiến đưa vào cắt giảm theo cam kết với các
nước ASEAN với khoảng 2.960 dòng thuế có mức thuế suất từ 0 - 5% và 1.270
dòng thuế có thuế suất từ 5 - 50%.
So sánh mục tiêu chủ yếu của Chương trình cắt giảm thuế quan CEPT là các
nước thành viên sẽ giảm thuế nhập khẩu đối với đa số các mặt hàng nhập khẩu
từ các nước thành viên ASEAN khác xuống còn từ 0 - 5% với Biểu thuế nhập
khẩu hiện hành của Việt Nam hơn tổng số 3211 nhóm mặt hàng của Biểu thuế
nhập khẩu hiện hành của Việt Nam hơn nửa tổng số nhóm mặt hàng đã phù hợp
với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho Chương trình CEPT, điều đó có nghĩa là về
thực chất Việt Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế cho gần 50% của tổng số
nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu. So với các nước thành viên ASEAN
khác khi bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT của Việt
Nam nhiều hơn rất nhiều. Ví dụ Indonesia khi bắt đầu tham gia CEPT chỉ có
9% tổng số nhóm mặt hàng có thuế suất dưới 5%, Thái Lan có 27%, Philippin
có 32%. Trong cơ cấu của Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam, mức thuế suất
thấp chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng là nguyên vật liệu là đầu vào phục vụ
cho sản xuất, xuất khẩu. Tỷ trọng lớn của số các thuế suất trong khoảng 0 - 5%
phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn khi nhiều nguyên vật liệu
là đầu vào mà sản xuất trong nước chưa đủ khả năng đáp ứng. Các thuế suất cao
hơn phần lớn là áp dụng với các mặt hàng trong nước đã sản xuất được nhằm
bảo về các nhà sản xuất trong nước hoặc các mặt hàng không khuyến khích
nhập khẩu. Các mức thuế suất trên 60% được áp dụng chủ yếu với các mặt hàng
xa xỉ phẩm, đồ dùng thiết bị với mục đích điều chỉnh tiêu dùng. Do đó hiện nay
khi nền sản xuất trong nước của Việt Nam đã phần nào phát triển và đáp ững
được một phần các sản phẩm cần thiết phục vụ cho sản xuất mà trước đây phải
nhập từ nước ngoài, nhu cầu nâng cao các mức thuế suất thuế nhập khẩu nhằm
mục đích bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước là thật sự cần thiết. Điều
này sẽ phần nào mâu thuẫn với nội dung thực hiện của chương trình cắt giảm
thuế khi Việt Nam cam kết tham gia thực hiện AFTA.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Ngoài ra khi cân nhắc, xem xét để thực hiện chương trình cắt giảm thuế theo
Hiệp định CEPT một vấn đề nữa cũng được đặt ra là Biểu thuế nhập khẩu của
Việt Nam có một số điểm không thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế do đó gây
khó khăn khi Việt Nam tham gia thực hiện các Hiệp định quốc tế như Hiệp định
CEPT. Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chương trình giảm
thuế theo Hiệp định CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát
điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nước thành viên khác. Hơn
nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối
với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuế Việt Nam so với các
nước ASEAN khác, các thuế suất của Biểu thuế hiện hành đòi hỏi được điều
chỉnh cơ bản để phù hợp với sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước.
3. Huỷ bỏ các hạn chế về định lượng và hàng rào phi quan thuế
Các biện pháp phi thuế quan mà các nước ASEAN áp dụng là rất đa dạng,
đặc biệt là các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật. Ở Việt Nam, những biện pháp
phi thuế quan còn rất đơn giản và chủ yếu là các biện pháp giấy phép, hạn
ngạch,… Do đó để việc thực hiện loại bỏ các biện pháp phi thuế quan theo Hiệp
định CEPT của Việt Nam có lợi nhất, đáp ứng được yêu cầu của bảo hộ sản
xuất trong nước, ta đã có phương án nghiên cứu ban hành bổ sung các biện
pháp phi quan thuế tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng trước khi loại
bỏ chúng. Chính phủ Việt Nam đã có nỗ lực trong việc huỷ bỏ việc kiểm soát
bằng hạn ngạch trừ một số sản phẩm như gạo và những mặt hàng nước nhập
khẩu phân bổ hạn ngạch cho nước ta. Một thành công nữa là cải thiện một cách
triệt để về giấy phép xuất nhập khẩu mà nhờ đó hầu hết các doanh nghiệp có thể
tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp những mặt hàng không thuộc danh mục hạn
chế hoặc cấm xuất nhập khẩu: Chúng tha đang nghiên cứu và áp dụng dần hiệp
định Trị giá tính thuế quan của GATT thông qua thực hiện hiệp định GVA tính
từ năm 2000-2004.
Danh mục nhạy cảm cao (HSL) bao gồm một số rất ít các nông sản chưa chế
biến mà một số nước ASEAN cho là đặc biệt nhạy cảm đối với nền kinh tế, do
đó khi đưa vào cắt giảm thuế quan theo Chương trình CEPT thì cần phải có quy
chế đặc biệt cho phép linh hoạt hơn về thuế suất, thời gian khi bắt đầu và kết
thúc giảm thuế, về việc loại bỏ Hạn chế định lượng (QR) và các hàng rào phi
thuế quan (NTB), về các biện pháp tự vệ. Danh mục này của các nước ASEAN
có 23 dòng thuế, bao gồm một số mặt hàng như gạo, đường, thuốc lá, gỗ, Việt
Nam không đưa ra danh mục này.