LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Ngô Văn Sỹ
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ (1998 - 2006)
2.1.
Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở
2.2.
Chủ trương của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
2.3.
Đảng chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN QUY
CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ (2006 - 2015)
3.1.
Những yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
3.2.
Chủ trương của Đảng đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
3.3.
Đảng chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1.
Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở (1998 - 2015)
4.2.
Những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở (1998 - 2015)
KẾT LUẬN
CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
10
10
24
29
29
38
56
75
75
84
93
120
120
144
162
165
166
181
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
1. Ban Chấp hành Trung ương
BCHTƯ
2. Ban Chỉ đạo
BCĐ
3. Chủ nghĩa xã hội
CNXH
4. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH, HĐH
5. Hệ thống chính trị
HTCT
6. Hội đồng nhân dân
HĐND
7. Mặt trận Tổ quốc
MTTQ
8. Quy chế dân chủ
QCDC
9. Trách nhiệm hữu hạn
TNHH
10. Ủy ban nhân dân
UBND
11. Xã hội chủ nghĩa
XHCN
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Dân chủ XHCN là dân chủ của đại đa số Nhân dân, gắn với quyền làm
dân chủ của Nhân dân; là hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công
dân, xác định Nhân dân là chủ thể của quyền lực. Dân chủ XHCN là bản chất
của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Nhà
nước tơn trọng và bảo đảm tồn bộ các quyền của con người, quyền của công
dân như quyền tự do cá nhân, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, tơn
giáo và khơng tín ngưỡng, tơn giáo, quyền bất khả xâm phạm thân thể và quyền
nhà ở, nghỉ ngơi, học hành… Đồng thời, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương,
quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cốt lõi của dân chủ XHCN là
khẳng định quyền lực của Nhân dân, là giải quyết mối quan hệ giữa quyền và lợi
ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm.
Trước u cầu của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, Việt Nam
chủ trương xây dựng nền dân chủ XHCN, tức là nền dân chủ mà ở đó tất cả
quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân; pháp luật của Nhà nước vì lợi
ích của Nhân dân. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị BCHTƯ Đảng (khố VIII)
đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, nhằm phát huy tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân, coi đây là một
khâu quan trọng và cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ
sở - nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước; nơi thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân một cách trực tiếp và rộng
rãi nhất. Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) đánh dấu một bước
chuyển biến nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ XHCN trong xã hội,
tạo sự đồng thuận sâu rộng trong Nhân dân.
Để phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân trong sự nghiệp CNH,
HĐH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa Chỉ thị số 30CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) thành các nghị quyết, nghị định là cơ sở
pháp lý quan trọng để thực hiện QCDC đối với các loại hình cơ sở; góp phần
6
nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền, chất
lượng thực hiện chế độ công vụ; đổi mới phong cách làm việc của cán bộ, cơng
chức, lắng nghe ý kiến chính đáng của Nhân dân trong việc xây dựng các
chương trình phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh; thay đổi phương
thức và lề lối làm việc của chính quyền theo hướng trọng dân, gần dân, hiểu
dân, có trách nhiệm với dân và chịu sự giám sát của dân. Bên cạnh đó, vẫn cịn
một số hạn chế bất cập như: Một số cán bộ, cơng chức, viên chức cịn có biểu
hiện nhũng nhiễu, phiền hà, làm khó doanh nghiệp, người dân. Phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” có khâu cịn hình thức, việc
cơng khai một số chương trình, dự án, cơng trình ở một số địa phương chưa
đầy đủ, chưa thực hiện đúng quy trình lấy ý kiến của Nhân dân, quá trình triển
khai chưa đảm bảo quyền giám sát của Nhân dân nên dẫn đến nảy sinh một số
bức xúc; người dân còn tỏ ra thờ ơ, thụ động trong tìm hiểu, thực hiện các
quyền làm chủ của mình; hiểu biết pháp luật về các quyền, nghĩa vụ công
dân… chưa cao; đồng thời, xuất hiện hiện tượng một số cá nhân lợi dụng các
quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật. Biểu hiện của những hạn chế trên
là tình trạng khiếu kiện đơng người vượt cấp, kéo dài ở một số địa phương;
tình trạng chống người thi hành công vụ, không thực hiện các quyết định hành
chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền…
Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở với cả
những thành công và chưa thành cơng, địi hỏi phải nghiên cứu có hệ thống,
chun sâu, toàn diện về Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm đánh
giá đúng ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân hạn chế
và đúc rút kinh nghiệm để vận dụng vào giai đoạn mới là để góp phần tối ưu
hóa sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm phát huy vai trò
của Nhân dân phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời đại mới.
Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có cơng trình khoa học nào đáp ứng
đúng, đủ yêu cầu trên và đây là “khoảng trống” về khoa học cần được giải
quyết. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015”
làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ
năm 1998 đến năm 2015; đúc rút những kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận
dụng vào lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở của Đảng hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện
QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến 2015.
Làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở từ
năm 1998 đến năm 2015 qua hai giai đoạn (1998 - 2006) và (2006 - 2015).
Nhận xét ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh
nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở trong những
năm 1998 - 2015.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện
QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ
sở, bao gồm quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp, đồng thời làm rõ sự chỉ đạo của
Đảng thực hiện QCDC ở cơ sở trên các nội dung: (1) Chỉ đạo thành lập Ban Chỉ
đạo thực hiện QCDC các cấp; (2) Chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nâng
cao về nhận thức, thống nhất hành động cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về
dân chủ, thực hiện QCDC ở cơ sở; (3) Chỉ đạo thực hiện QCDC ở các loại hình
cơ sở; (4) Chỉ đạo cơng tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và sơ tổng kết việc thực
hiện QCDC ở cơ sở. Chủ trương, sự chỉ đạo trên được trình bày qua hai giai
đoạn 1998 - 2006, 2006 - 2015.
Về thời gian: Luận án chọn mốc thời gian mở đầu nghiên cứu là năm
1998, năm ra đời Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Thời gian kết thúc năm
8
2015, là mốc Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC Trung ương Tổng kết 17 năm thực
hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC ở
cơ sở gắn với thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng. Mốc chia 2 chương lịch sử là năm 2006, năm tiến hành Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, có đánh giá sau 8 năm việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
Để bảo đảm tính hệ thống và làm rõ vấn đề nghiên cứu, luận án có đề cập
đến một số nội dung liên quan trước năm 1998 và sau năm 2015.
Về không gian: Trên phạm vi cả nước.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hiện dân chủ.
Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa vào thực tiễn Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ
năm 1998 đến năm 2015. Điều đó được thể hiện thông qua hệ thống văn kiện
của Đảng, cơ quan chức năng và báo cáo tổng kết của Đảng, Nhà nước, MTTQ
và các các tổ chức chính trị - xã hội về thực hiện QCDC ở cơ sở; đồng thời dựa
vào kết quả nghiên cứu khảo sát thực tế, điều tra xã hội học về thực hiện
QCDC ở cơ sở được nghiên cứu sinh tiến hành trong thời gian làm luận án; kế
thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã công bố liên quan đến
đề tài luận án.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic là chủ
yếu; đồng thời, sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh và qua khảo sát thực tế, điều tra xã hội học để triển
khai các nội dung nghiên cứu của luận án.
Phương pháp lịch sử được sử dụng trong cả 4 chương, nhưng chủ
yếu ở chương 2 và chương 3 để nêu lên các sự kiện lịch sử, quá trình lịch
sử liên quan đến dân chủ, thực hiện dân chủ và QCDC ở cơ sở của Đảng
mà luận án nghiên cứu.
Phương pháp lơgíc được sử dụng trong cả 4 chương của luận án, dùng
để khái qt kết quả nghiên cứu của các cơng trình đã công bố liên quan đến đề
9
tài luận án ở chương 1, khái quát chủ trương của Đảng về thực hiện QCDC ở
cơ sở bao gồm quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và quá trình chỉ đạo
thực hiện QCDC ở cơ sở trên các loại hình cơ sở ở chương 2 và chương 3;
Phương pháp lơgíc được sử dụng nhiều ở chương 4 để khái quát những ưu
điểm, hạn chế và đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực
hiện QCDC ở cơ sở (1998 - 2015) .
Đồng thời, nghiên cứu sinh cịn sử dụng các phương pháp khác như: Phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia
để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu của luận án một cách phù hợp.
5. Những đóng góp mới của luận án
Hệ thống hóa nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu về dân chủ và thực hiện
QCDC ở cơ sở.
Phục dựng trung thực, khách quan lịch sử Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC
ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015.
Nhận xét ưu điểm, hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân sự lãnh đạo của Đảng
thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015.
Luận án đúc rút những kinh nghiệm lịch sử từ quá trình Đảng lãnh đạo
thực hiện QCDC ở cơ sở (1998 - 2015) để vận dụng vào hiện tại.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ
sở trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Ý nghĩa thực tiễn
Tài liệu tham khảo cho các tổ chức cơ sở đảng, các đơn vị cơ sở về thực
hiện dân chủ ở cơ sở nói chung, thực hiện QCDC ở cơ sở nói riêng.
Tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam ở các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 04 chương (10 tiết), kết luận, danh mục các cơng
trình của tác giả đã cơng bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những nghiên cứu về dân chủ, thực hiện dân chủ ở một số nước
trên thế giới
Dân chủ, thực hiện dân chủ là những giá trị chung của nhân loại; do đó,
khơng chỉ là vấn đề nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học trong nước mà còn nhiều nước trên thế giới. Các cơng trình nghiên cứu
về dân chủ, thực hiện dân chủ ở một số nước trên thế giới có thể kể đến như:
Robert Alan, Dalh (1991), Democracy and its Critics (Dân chủ và những
thảo luận về dân chủ) [167]. Từ cách tiếp cận chính trị học, tác giả khẳng định
quyền lực mà nhà nước có được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân; do
vậy, để đạt tới một nền dân chủ lý tưởng, đáp ứng năm tiêu chí: Một là, mọi
cơng dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để thể hiện nguyện vọng của mình.
Hai là, các cơng dân phải được bình đẳng, cơng bằng trong bầu cử ở giai đoạn
quyết định. Ba là, các công dân phải được hưởng những cơ hội phong phú và
bình đẳng cho những phát hiện và lựa chọn tốt nhất phục vụ cho lợi ích của họ.
Bốn là, các cơng dân phải có cơ hội quyết định những vấn đề chính trị thực sự
tồn diện. Năm là, tính bình đẳng phải được mở rộng đến tất cả các công dân.
Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Cheibub and
Fernando Limongi (1996), What makes Democracies Endure (Điều gì khiến
các nền dân chủ tồn tại) [161], đã chỉ ra được với mức độ thu nhập bình
quân đầu người ở mức nào thì dân chủ xuất hiện, ở mức nào thì dân chủ bền
vững. Bài viết so sánh thực hiện dân chủ ở một số nước có nền kinh tế phát
triển với việc thực hiện dân chủ ở các nước có nền kinh tế kém phát triển và
chỉ ra kinh tế là thước đo giá trị dân chủ, chưa đề ra những giải pháp hay
kinh nghiệm để thực hiện dân chủ bền vững hơn dù kinh tế có phát triển hay
chậm phát triển.
11
Vũ Văn Hiền (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển và
Trung Quốc [64]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học
nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân Trung Quốc và
Thụy Điển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơng trình đã phân tích việc
thực hiện dân chủ cơ sở ở Thụy Điển và Trung Quốc dưới góc độ: Nhà nước
phúc lợi xã hội, về HTCT; sự tham gia hoạt động quản lý nhà nước một
cách dân chủ; dân chủ điện tử - một cơng cụ chính trị mới; xây dựng chính
phủ của nhân dân trong thế kỷ mới; xây dựng dân chủ cơ sở với xã hội khá
giả, quan hệ xây dựng dân chủ ở cơ sở với cải cách HTCT, khu dân cư tự
quản là thực tiễn mới của việc xây dựng nền dân chủ cơ sở ở đô thị…
Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nơng thơn Trung
Quốc [117], cơng trình này gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về hệ thống
chính quyền cơ sở và tổ chức tự quản ở nông thôn Trung Quốc. Chương 2:
Việc thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc. Chương 3: Thành tựu,
những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết trong việc thực hiện dân chủ
cơ sở ở nông thôn Trung Quốc. Tác giả nghiên cứu hệ thống chính quyền cơ
sở, tổ chức tự quản ở nông thôn Trung Quốc và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở
ở nông thôn Trung Quốc. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế, các
vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết, tác giả rút ra những bài học kinh
nghiệm có thể tham khảo trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
Philip Cam (2006), “Tồn cầu hóa và dân chủ” [11], tác giả chỉ rõ vấn đề
chính trị - xã hội đang đặt ra trước mắt và bàn về cách mà chúng ta có thể liên hệ
với vấn đề kinh tế. Bài viết trình bày tiêu chuẩn đánh giá thái độ của người tham gia
vào nền kinh tế toàn cầu theo nghĩa là các nguyên tắc cho sự chuyển đổi xã hội chính trị dưới khẩu hiệu dân chủ. Nền kinh tế tồn cầu khơng thể hiện rõ là một sức
mạnh không thể cưỡng lại đối với dân chủ và cũng không thể hiện rõ dân chủ là cái
cần đến nhất trong một nền kinh tế bị điều khiển bởi thị trường đang ngày càng
thống trị thế giới. Tuy nhiên, dưới hình thức nào đó, chúng ta đang chứng kiến sự
mở rộng của dân chủ mà ở đó đã có nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng.
12
Thomas Meyer và Nicole Breyer (2007), The future of social democracy
(Tương lai của nền dân chủ xã hội) đã được Trần Danh Tạo và Ngô Lan Anh
dịch [168], tác giả chỉ rõ cơng bằng xã hội có vai trị như thế nào đối với nền dân
chủ hiện đại, nền dân chủ ấy dựa trên những quyền cơ bản nào, nó có ý nghĩa
như thế nào đối với sự ổn định và hiệu quả của xã hội và chỉ ra các quyền cơ bản
của con người và đối tượng thực hiện dân chủ trên tất cả các lĩnh vực. Theo cách
nhìn nhận này, dân chủ tân tự do có thể được coi là một dạng khơng hồn thiện,
vì sự khiếm khuyết về cơ cấu thống trị, khi không đảm bảo được cơ hội bình
đẳng cho các nhóm lợi ích kinh tế và xã hội tác động vào tiến trình chính
trị…Tuy nhiên, tác giả vẫn khẳng định rằng, tồn cầu hóa khơng làm mất đi cơ
sở của dân chủ xã hội, tương lai của nền dân chủ xã hội và khẳng định: “Dân
chủ xã hội khơng chỉ là một địi hỏi nhằm cải thiện cuộc sống của con người mà
còn đảm bảo quyền thực thi các quyền cơ bản của họ” [168, tr. 414].
N.M.Voskresenskaia, N.B.Davletshina (2009), Democratic regime:
State and society (Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội) [166], được Phạm
Nguyên Trường dịch, đưa ra khái niệm dân chủ, ý nghĩa khái niệm dân chủ và
chỉ rõ quan điểm về dân chủ của các luật sư, nhà hoạt động chính trị đều cho
rằng dân chủ là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Xây dựng nhà nước pháp
quyền là quy phạm pháp luật nhằm thực thi chủ quyền của nhân dân trong
khuôn khổ tổ chức nhà nước; nghĩa là tất cả quyền lực đều nằm trong tay nhà
nước. Nhưng quyền lực đó được đặt lên trên cơ sở và thực thi theo những quy
phạm pháp lí đã được ghi thành luật và được nhân dân thừa nhận. Sự phát triển
của dân chủ trong lịch sử ở các bang của Hy Lạp cổ đại cho đến dân chủ trực
tiếp từng tồn tại ở các nước như tại nước Nga xa xưa.
Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (Đồng chủ biên, 2011), Trào lưu xã
hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện đại [127]. Trào lưu xã hội dân chủ
có ảnh hưởng mạnh mẽ và các đảng dân chủ xã hội, có vai trị quan trọng trong
đời sống chính trị châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu. Nội dung cuốn sách
đã khái quát trào lưu xã hội dân chủ, nguồn gốc nội dung, bản chất của trào lưu
13
xã hội dân chủ và sự điều chỉnh cơ bản của trào lưu dân chủ xã hội trong bối
cảnh quốc tế đương đại. Các tác giả đã bàn đến những ảnh hưởng của trào lưu
xã hội dân chủ ở các nước phương Tây, những giá trị và hạn chế của trào lưu
xã hội dân chủ và ảnh hưởng của trào lưu này đối với Việt Nam. Qua đó, đã tác
động đến nhận thức của một bộ phận Nhân dân khi so sánh việc thực hiện
QCDC ở cơ sở ở Việt Nam với xu thế của một số nước trên thế giới bị ảnh
hưởng bởi trào lưu dân chủ ở một số nước phương Tây.
Vũ Công Giao (2014), “Dân chủ trực tiếp trên thế giới và những gợi mở
cho Việt Nam” [56], nêu: “Trong thực tế, khơng có quốc gia nào hiện chỉ áp
dụng dân chủ đại diện mà loại trừ dân chủ trực tiếp và ngược lại” [56, tr. 69].
Có thể khái quát dân chủ trực tiếp có những ưu điểm: Nêu ra các vấn đề quan
trọng với toàn thể hoặc một bộ phận dân chúng mà cơ quan nhà nước không để
ý hoặc muốn giấu đi; cho phép nhân dân lấy lại quyền lực của mình từ các
đảng phái chính trị hoặc từ những quan chức được bầu ra để bảo đảm việc thực
thi quyền lực đó vì lợi ích của đa số cơng chúng chứ khơng phải vì lợi ích của
một nhóm hay một cá nhân trong xã hội; cho phép nhân dân quyết định và
kiểm soát con đường phát triển của đất nước; thúc đẩy sự tham gia của cộng
đồng vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội…
Nghiên cứu những tài liệu này giúp cho nghiên cứu sinh có cách nhìn đầy
đủ hơn và toàn diện hơn về dân chủ, thực hiện dân chủ cả góc độ lý luận và thực
tiễn; các mơ hình dân chủ ở một số quốc gia trên thế giới, từ phạm vi, mục tiêu
và phương pháp tổ chức thực hiện, mối quan hệ giữa dân chủ với đời sống chính
trị; các yếu tố tác động, ảnh hưởng tới thực hiện dân chủ ở các quốc gia.
1.1.2. Những nghiên cứu về dân chủ, thực hiện dân chủ và Quy chế dân
chủ ở cơ sở tại Việt Nam
1.1.2.1. Những nghiên cứu chung về dân chủ, thực hiện dân chủ và Quy
chế dân chủ ở cơ sở trên phạm vi cả nước
Thái Ninh, Hồng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa [100], chỉ ra bản chất của nền dân chủ XHCN là “Một nền dân chủ
14
khác hẳn với dân chủ tư sản bởi dân chủ XHCN là dân chủ thuộc về số đông,
hơn thế, dân chủ còn là kết quả của đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội do quần
chúng nhân dân thực hiện như một hành vi giải phóng để đạt đến tự do và trở
thành tự do” [100, tr. 41]. Khi bàn đến nền dân chủ tư sản, các tác giả khẳng
định: “Nền dân chủ tư sản không phải là của đa số nhân dân lao động, không
phải là nền dân chủ của dân, vì dân, do dân mà chỉ là dân chủ tư sản, vì giai
cấp tư sản, do giai cấp tư sản, dân chủ của thiểu số giai cấp này” [100, tr. 31].
Như vậy, đã có sự so sánh để thấy được tính ưu việt của nền dân chủ XHCN.
Đối với Việt Nam, các tác giả cho rằng: “Dân chủ hóa trên các lĩnh vực ở Việt
Nam là vấn đề cấp bách. Nhưng dân chủ hóa muốn được đảm bảo cần phải có
pháp luật tức dân chủ hóa là thực hiện pháp luật dân chủ hóa đồng thời là pháp
chế hóa xã hội” [100, tr. 111].
Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Đồng chủ biên, 2003), Thực hiện Quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay [116], cuốn
sách được rút ra từ những kết quả khảo cứu, nghiên cứu của tập thể tác giả tiến
hành ở nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước và có tham khảo kinh
nghiệm ở một số nước. Qua đó, chính quyền cơ sở đã tích cực thực hiện chức
năng nhiệm vụ của mình, nhiều nơi đã triển khai QCDC cơ sở có hiệu quả
cùng Nhân dân làm nên những thành tựu đổi mới trong phát triển kinh tế làm
thay đổi bộ mặt nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, trong q trình xây dựng,
chính quyền cơ sở còn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém trong công tác lãnh
đạo, tổ chức và vận động Nhân dân. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất
đồn kết, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân còn xảy ra ở nhiều nơi, QCDC
cơ sở chưa được triển khai đầy đủ, có nơi chưa đi vào cuộc sống.
Trần Ngọc Khuê, Lê Kim Việt (Chủ biên, 2004), Tâm lý xã hội trong quá
trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở [75], đã tổng quan các yếu tố tâm lý xã
hội trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở; phân tích mối quan hệ giữa các yếu
tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở; đề ra một số giải pháp cơ
bản nâng cao chất lượng, phân tích các yếu tố tâm lý xã hội cần chú ý trong quá
15
trình thực hiện QCDC ở cơ sở, chỉ ra các yếu tố chủ yếu như vai trò gương mẫu
của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền; về thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ; về tâm lý xã hội nói chung; nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ
sở; phong cách của người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở; mối quan hệ giữa nhu cầu
và lợi ích trong triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở; vấn đề xây dựng quy ước,
hương ước; tác động của tâm lý làng xã; tâm lý của phụ nữ nông thôn; tâm lý tôn
giáo; những giải pháp thực hiện QCDC ở cơ sở.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), “Tồn cầu hóa hiện nay và vấn đề dân chủ
hóa đời sống xã hội” [23], tác giả cho rằng: Tồn cầu hóa là xu thế khách quan,
nó tác động mạnh đến q trình dân chủ hóa trong lĩnh vực tài chính và vốn
đầu tư quốc tế. Tồn cầu hố hiện nay đang diễn ra với những nét khác biệt hết
sức lớn so với các giai đoạn trước mà nhân loại đã từng chứng kiến, với năm
yếu tố: Một là, phản ánh xu thế khách quan, tiến lên của lịch sử nhân loại. Hai
là, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ba là, kết quả của sự
phát triển mang tính đột biến của khoa học và cơng nghệ cao. Bốn là, tác động
đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Năm là, tác động mạnh đến q trình dân chủ
hố trong lĩnh vực tài chính và vốn đầu tư quốc tế.
Hồng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nơng thơn trong tiến
trình đổi mới [7], vai trị thực hiện dân chủ của nông dân và coi vấn đề dân chủ là
vấn đề bức xúc của nông dân, nhưng cũng là động lực để phát triển nông thôn
hiện nay, “nông dân nước ta là lực lượng xã hội to lớn đã đóng góp một phần
quan trọng cả vật chất và tinh thần, cả tính mạng và của cải, hy sinh cả xương
máu của mình để làm nên những thành quả đó” [7, tr. 156]. Tác giả nêu lên những
kinh nghiệm: Thứ nhất, tuyên truyền, vận động về dân chủ và QCDC ở cơ sở phải
sâu rộng, thường xuyên, bằng nhiều hình thức cụ thể, nhiều biện pháp sinh động,
thiết thực đối với người dân, hộ dân tại thôn xóm. Thứ hai, thực hiện QCDC là
thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân ở cơ sở. Thứ ba, thực hiện
QCDC ở cơ sở, đặc biệt ở nông thôn phải tạo được động lực để thúc đẩy kinh tế
nông thôn, kinh tế hộ nông dân, kinh tế từng người phát triển. Thứ tư, thực hiện
16
QCDC ở cơ sở, nhất là nông thôn phải chú trọng phát huy tác dụng của các thiết
chế xã hội có tính tự quản cộng đồng của dân. Thứ năm, thực hiện QCDC thực sự
là một cuộc thử thách về đạo đức, năng lực, bản lĩnh.
Trần Nguyên Việt (2008), “Sự thống nhất giữa ổn định chính trị và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa - cơ sở của đồng thuận xã hội và phát triển đất nước
hiện nay” [160], chỉ ra rằng, ổn định chính trị trước hết là sự phản ánh các mối
quan hệ xã hội giữa Đảng và các bộ phận cấu thành khác của HTCT. Với tư cách
là đội tiên phong của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động, xuất phát từ
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ nên sự lãnh đạo của
Đảng không phải là một chiều, mang tính áp đặt hoặc độc đốn, chun quyền,
mà ln tiếp nhận sự tác động trở lại của đối tượng lãnh đạo. Nguyên tắc “Liên hệ
mật thiết với quần chúng, lấy phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của
Đảng là điều kiện tất yếu để giữ vững sự ổn định chính trị” [160, tr. 5]. Tuy nhiên,
bài viết chưa phản ánh đầy đủ nội dung dân chủ với những yếu tố được thừa nhận
một cách rộng rãi, mà dân chủ còn chung chung, chưa phải là cái phổ biến.
Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên, 2009), Phản
biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền [128]. Các tác giả cùng khẳng
định: Để xã hội phát triển ổn định, quyền lực không trở thành tham quyền vị
lợi, thì phải phát huy vai trò của phản biện xã hội. Khi phản biện được thực
hiện đúng đắn sẽ đem lại kết quả tích cực trực tiếp chủ trương, đường lối,
chính sách sẽ vận động phù hợp với thực tiễn khách quan, các chính sách phản
ánh đúng nhu cầu thực tế, có cơ sở vững chắc: “Phản biện xã hội chính là cách
thức cân bằng tốt nhất đối với các chủ thể lợi ích giúp họ phản ánh tiếng nói
của mình để những nhà quản lý, chính trị gia uốn nắn, điều chỉnh lại các chính
sách cho phù hợp với địi hỏi chính đáng của quần chúng” [128, tr. 37].
Hồng Chí Bảo, Tống Đức Thảo (Đồng chủ biên, 2011), Mối quan hệ
giữa dân chủ và văn hóa pháp luật [9], các tác giả khẳng định: Dân chủ và pháp
luật ln có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Việc thực hiện dân chủ phải dựa vào pháp luật và thông qua pháp luật: “Pháp
17
luật của chúng ta là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ
rộng rãi cho Nhân dân lao động” [9, tr. 223]. Xây dựng và hồn thiện hệ thống
chính sách và pháp luật theo yêu cầu dân chủ phải được cụ thể hóa, thể chế hóa
bằng hệ thống cơ chế, chính sách, các quy định, quy chế, văn bản pháp luật cụ
thể; bổ sung, hồn thiện thể chế, chính sách, pháp luật bảo đảm thực hiện đồn
kết, đồng thuận, cơng bằng, văn minh. “Hồn thiện cơ chế giải trình, đối thoại
với dân, tiếp dân, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, quy định về từ chức,
cách chức, bãi miễn, xử lý quan liêu, tham ô, tham nhũng” [9, tr. 223].
Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
phục vụ xây dựng nơng thơn mới [25], trình bày chủ trương, đường lối của
Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã và
xây dựng nông thôn mới. Từ việc làm rõ vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cấp xã phục vụ xây dựng nơng thơn mới, trong đó tác giả đã phân tích khá
sâu sắc một số nội dung về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như
dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và quản
lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xố đói giảm
nghèo; đề xuất các giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
Trần Đăng Sinh (2013), “Dân chủ và thực hiện dân chủ trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [118], đã phân tích về
nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại, yếu tố dân chủ trong lịch sử
Việt Nam, thành tựu và một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện dân chủ ở
nước ta hiện nay. Theo tác giả bài viết, dân chủ và pháp quyền khơng mâu
thuẫn nhau; dân chủ càng cao thì pháp quyền càng nghiêm; pháp quyền
nghiêm thì dân chủ cao mới thực hiện được. Ở Việt Nam, dân chủ được thực
hiện trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Do đó, thực
hành dân chủ, đề cao và tơn trọng pháp luật là cơ sở vững chắc để thực hiện
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Dân chủ
càng cao thì pháp quyền càng nghiêm, pháp quyền càng nghiêm thì dân chủ
18
cao mới thực hiện được. Dân chủ và pháp quyền khơng mâu thuẫn, mà là
thống nhất với nhau. “Đó là sự thống nhất của hai mặt đối lập tạo nên bản
chất của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam” [118, tr. 67].
Lưu Ngọc Tố Tâm (2017), “Một số giải pháp phát huy dân chủ ở cơ sở”
[121], nêu rõ bản chất tiến bộ của chế độ, ngay từ khi chính quyền cách mạng
mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẳng định quyền lực
nhà nước là của Nhân dân và nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng cấp, từng
công việc và vận động toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu và có trách
nhiệm thực thi quyền và nghĩa vụ trong vị thế của người làm chủ. Trên cơ sở đó
tác giả đề xuất một số giải pháp: Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và
Nhân dân về dân chủ. Thứ hai, thực hiện dân chủ cơ sở là góp phần vào sự phát
triển kinh tế - xã hộ. Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những cơ chế bảo
đảm dân chủ trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Thứ tư, nâng
cao hiệu quả hoạt động của chế độ thực hành dân chủ trong các cơ quan, đơn vị.
Nguyễn Phú Trọng (2018), “Không ngừng phát huy dân chủ ở cơ sở, khơi
dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của Nhân dân” [148]. Bài viết đã đánh giá một số
thành tựu cơ bản qua 20 năm thực hiện QCDC cơ sở: Một là, nhận thức về dân
chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị xã hội, cán bộ, đảng viên và Nhân dân ngày càng được nâng lên. Hai là, việc thực
hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của
nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước. Những
thành tựu trên là do cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội đã quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt và
tổ chức thực hiện; sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp Nhân dân.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về thực hiện dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ
sở trên các địa phương, các vùng miền
Nguyễn Hạnh Phúc (2007), “Thực hiện Quy chế dân chủ ở Thái Bình thành tựu và kinh nghiệm” [105], tác giả đề cập cơ chế quản lý cũ cùng với
19
những nhận thức hạn chế của đội ngũ cán bộ cơ sở về dân chủ, Thái Bình trở
thành một điểm “nóng” bất ổn. Việc thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần đổi
mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của các cấp ủy, chính quyền, đồn
thể, các cơ quan, đơn vị và tác phong của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cơ
sở, theo hướng khoa học, năng động gắn bó với cơ sở, gần dân, sát dân, nâng
cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế những hiện tượng tiêu cực, quan liêu, cửa
quyền, gây phiền hà đối với Nhân dân. Tác giả chỉ ra một số kinh nghiệm: Một
là, các cấp ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện QCDC ở
cơ sở. Hai là, triển khai quán triệt ở cơ sở phải nghiêm túc, sâu rộng làm cho cán
bộ đảng viên và quần chúng. Ba là, việc thực hiện QCDC là nhiệm vụ thường
xuyên của các cấp, các ngành và của tồn dân. Bốn là, q trình thực hiện
QCDC ở cơ sở gắn với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, xây dựng
chính quyền. Năm là, tăng cường và đổi mới cơng tác kiểm tra.
Đinh Văn Hùng (2009), “Ninh Bình phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở” [68], việc thực hiện tốt dân chủ
cơ sở xã, phường, thị trấn đã thúc đẩy nhanh q trình xã hội hố các lĩnh vực
văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao, tác động mạnh đến việc xây dựng nông thôn
kiểu mới, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Việc xây dựng quy ước,
hương ước với những nội dung sâu sát với thực tiễn, theo hướng văn minh, tiến
bộ, có tác động tích cực đến phát triển các lễ hội truyền thống làng, xã đã giữ gìn
được tập quán tốt đẹp trong cộng đồng dân cư. Chính quyền cơ sở cũng ngày
càng được đổi mới về tổ chức và hoạt động. Phong cách, lề lối làm việc của đội
ngũ cán bộ, công chức từng bước được chuyên nghiệp. Việc thực hiện chủ
trương cải cách hành chính của Nhà nước bước đầu thực hiện có kết quả, hạn
chế dần tình trạng phơ trương, hình thức, hành chính hố.
Nguyễn Hồng Chun (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ thực
tiễn của tỉnh Thái Bình [24], tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ trên địa bàn
các xã, phường, thị trấn của tỉnh Thái Bình từ các điểm nóng cho thấy: Ở nơi nào
20
chính quyền cấp xã vững mạnh, tổ chức thực hiện tốt pháp luật về dân chủ, thì kinh
tế - xã hội phát triển mạnh và quá trình CNH, HĐH được thực hiện một cách tuần
tự, hợp với xu thế chung của thời đại. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, để quá trình
CNH, HĐH trong giai đoạn trước mắt và lâu dài ở Thái Bình được thực hiện một
cách có hiệu quả với tốc độ nhanh, thì một trong những nhiệm vụ chính trị trọng
tâm là phải tiếp tục mở rộng dân chủ từ cơ sở, không ngừng củng cố và hồn thiện
chính quyền cấp xã, tạo điều kiện sâu rộng để Nhân dân phát huy sáng tạo, hăng hái
sản xuất và đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn đời sống.
Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường,
thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên [29], chỉ rõ xây dựng và thực hiện
pháp luật về dân chủ cở sở xã, phường, thị trấn là một chủ trương quan trọng,
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa đột phá để giải quyết nhiều vấn
đề bức xúc liên quan đến quyền làm chủ của Nhân dân, củng cố HTCT ở cơ sở.
Việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây
Nguyên từ 1998 đã đạt những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, vẫn còn những
hạn chế, bất cập là: Chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở chưa cao; chính
sách cán bộ cho vùng miền núi Tây Nguyên chưa hợp lý; trình độ dân trí, ý
thức và năng lực thực hành dân chủ, năng lực giám sát của Nhân dân còn thấp,
đời sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn còn chậm phát triển; công tác
tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số nơi chưa được coi trọng...
Đinh Ngọc Chính (2016), “Đảng bộ tỉnh Thái Bình thực hiện Quy chế dân
chủ trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại của Nhân dân (1997-2007)” [20],
công tác quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện QCDC được tiến hành đồng
thời với việc giải quyết tình hình ở cơ sở từ năm 1997 đến năm 2007, dưới sự
lãnh của Đảng bộ, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại của Nhân
dân đã góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội. Đối với công
tác tiếp dân và giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của Nhân dân: việc tiếp dân
và giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại phải làm đúng theo pháp luật. Lắng
nghe ý kiến của Nhân dân, bố trí địa điểm tiếp cơng dân, trưng dụng một số
21
cán bộ có phẩm chất và năng lực làm nhiệm vụ chuyên trách tiếp dân ở tỉnh;
thường xuyên quán triệt, học tập các văn bản về thực hiện QCDC ở cơ sở trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cho các cấp, các ngành, các
huyện, thị một cách nghiêm túc, khẩn trương. Đồng thời tác giả đưa ra một số
kinh nghiệm trong thực hiện QCDC: Một là, việc thanh tra theo đúng nguyên
tắc quy định của Điều lệ Đảng và pháp lệnh Thanh tra, thực hiện đúng hướng dẫn
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc xử lý các vi phạm, xử lý nghiêm cán bộ,
đảng viên có vi phạm; bảo vệ cán bộ bị tố cáo oan sai; Hai là, việc giải quyết
khiệu nại, tố cáo đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự điều hành của chính
quyền, phát huy tốt vai trị của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân và hiệu quả hoạt động của
HTCT; Ba là, các cấp ủy, chính quyền ln chủ động nắm bắt đúng việc khiếu
nại, tố cáo của người dân để kịp thời chỉ đạo các đơn vị chuyên môn hướng dẫn
để người dân hiểu các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Nguyễn Hữu Tâm (2016), Thực hiện Quy chế dân chủ ở các trường
đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay
[123]. Thực hiện QCDC trong các trường đại học và cao đẳng là quá trình
thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ nhằm huy động tiềm năng trí tuệ
của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán bộ, cơng chức theo luật
định, góp phần xây dựng nền nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của
trường đại học và cao đẳng, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã
hội, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với đường lối, chủ
trương của Đảng và pháp luật Nhà nước. Tác giả chỉ ra cần thực hiện các
giải pháp cơ bản như: Thứ nhất, cơng tác chính trị, tư tưởng trong nhà
trường. Thứ hai, mở rộng dân chủ hóa để phát huy quyền cán bộ, giảng viên
và sinh viên. Thứ ba, thực hiện đúng vai trị, chức năng của các tổ chức
đồn thể trong nhà trường. Thứ tư, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân
chủ và tập trung. Thứ năm, xây dựng văn hóa từ chức và kỷ luật nghiêm
minh đối với những đối tượng vi phạm QCDC trong nhà trường.
22
Hoàng Trung Dũng (2017), “Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ cơ sở,
đưa Hà Tĩnh phát triển nhanh và bền vững” [27], ở Hà Tĩnh, quyền làm chủ của
Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội được thể hiện rõ, cụ thể trên
ba loại hình cơ sở: Đối với các xã, phường, thị trấn, đã ban hành và công khai
rộng rãi các nội dung để dân biết, dân bàn và quyết định trực tiếp; các nội dung
dân bàn, dân biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; các nội dung dân tham
gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Đối với các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang, các quy chế, quy định, thực hiện công
khai dân chủ trong nội bộ cơ quan, đơn vị và xây dựng mối quan hệ với Nhân dân
luôn được quan tâm; các cơ quan, đơn vị đã thực hiện tốt việc rà soát, sửa đổi, bổ
sung các quy chế, quy định và thực hiện công tác cải cách hành chính, phịng,
chống tham nhũng, lãng phí. Đối với các doanh nghiệp được thể hiện qua việc
người sử dụng lao động cơng khai, minh bạch các chế độ, chính sách, bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, góp phần xây dựng mối
quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp.
Đinh Ngọc Chính (2018), “Tỉnh Thái Bình thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở
cơ sở (2007 - 2013)” [21], việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, đề cập cách
làm sáng tạo, đưa Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở đi vào cuộc sống đã vượt qua nhiều
khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế
- xã hội, ổn định chính trị; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân từng bước
được cải thiện và nâng cao. Tác giả đã nêu một số kinh nghiệm qua thực tế lãnh
đạo của tỉnh Thái Bình: Một là, quán triệt và nhận thức sâu sắc, đầy đủ Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hai là, làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá, tuyên
truyền, vận động, biểu dương, khen thưởng đối với cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân. Ba là, thực hiện dân chủ ở cơ sở đi đôi với tăng cường kỷ cương.
Bốn là, thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn không tách rời thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đinh Văn Thụy, Hà Thùy Dương (2018), “Phát huy vai trò của pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong xây dựng nông thôn mới” [135],
23
đã nhấn mạnh việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ trong xây dựng nơng thơn mới
đã có những bước tiến đáng khích lệ, góp phần phát huy vai trị, nguồn lực của
Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh những kết quả đạt được,
việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở nhiều nơi còn hạn chế, yếu kém: chính
quyền chưa nhận thức đúng và chưa thực sự coi trọng việc thực hiện Pháp lệnh
dân chủ cơ sở; việc lấy ý kiến đóng góp của người dân cịn mang tính hình
thức; nhiều nội dung người dân chưa được tham gia bàn bạc; quyền kiểm tra
giám sát của người dân chưa được bảo đảm... Với mục đích phát huy trí tuệ,
kinh nghiệm, nguồn nhân lực, vật lực của các tầng lớp ở nông thôn phục vụ
công cuộc xây dựng nông thôn mới, Ban Quản lý thôn ở nhiều nơi đã chủ
động công khai cho dân biết các nội dung chương trình xây dựng nơng thơn
mới, tổ chức cho Nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về dự thảo quy hoạch
xây dựng nông thôn mới, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã, tham gia
giám sát thi cơng các hạng mục cơng trình tại xã, thơn. Do vậy, cần có các
giải pháp để thực hiện hiệu quả Pháp lệnh dân chủ trong xây dựng nông thôn
mới: Thứ nhất, đưa các nội dung của Pháp lệnh dân chủ vào tài liệu tuyên
truyền về xây dựng nông thôn mới. Thứ hai, Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn
mới cần đưa việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ vào giải pháp, kế hoạch hành
động cụ thể. Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng vận
dụng triển khai các nội dung của Pháp lệnh dân chủ vào xây dựng nông thôn
mới cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Thứ tư, nâng cao nhận thức, ý
thức, năng lực thực hiện quyền của người dân trong xây dựng nơng thơn mới.
Nguyễn Văn Đại (2019), Vai trị của nhân dân trong thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay [30], đã nêu yếu tố tác động bất lợi đến
phát huy vai trò của Nhân dân trong thực hiện QCDC cơ sở, ảnh hưởng đến giữ
vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Do đó, chưa
bao giờ việc phát huy sức mạnh của toàn thể Nhân dân lại trở lên cấp thiết như
hiện nay. Đồng thời, tác giả chỉ rõ để phát huy sức mạnh của Nhân dân nhất thiết
phải được xác lập trên cơ sở phát huy sự giác ngộ và khả năng cống hiến của
24
từng thành viên trong cộng đồng. Điều này có nghĩa là dưới sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng, việc phát huy cho được vai trò của quần chúng Nhân dân trong thực
hiện QCDC phải được xem là yếu tố chiến lược, quyết định sự thành công của
tỉnh Hưng Yên. Tác giả nhấn mạnh một số giải pháp: Một là, nghiên cứu nâng
cấp Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh 34/PL-2007)
thành Luật. Hai là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức HĐND và
UBND, nhất là quy định tại điều 119. Ba là, nghiên cứu ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về giám sát và phản biện của Nhân dân.
Đinh Ngọc Chính (2019), Đảng bộ tỉnh Thái Bình Lãnh đạo thực hiện
Dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2013 [22], làm rõ các yếu tố tác động
đến quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở từ
năm 1998 đến năm 2013. Phân tích những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
bộ tỉnh Thái Bình trong lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến
năm 2013 và kết quả của q trình thực hiện đó. Nhận xét những ưu điểm, hạn
chế trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở
từ năm 1998 đến năm 2013. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm chủ yếu vận
dụng vào thực tiễn. Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân đã nhận thức và quán triệt đúng, đầy đủ về vai trị, vị trí,
ý nghĩa của việc thưc hiện dân chủ ở cơ sở. Hai là, triển khai thực hiện dân chủ
ở cơ sở phái gắn liền với công tác kiểm tra, giám sát. Ba là, công tác quán triệt
thực hiện dân chủ ở cơ sở phải được thực hiện liên tục, có chiều sâu tác động
đến nhận thức và thực hành dân chủ trong tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bốn là, mở rộng và phát huy dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế XHCN. Năm là, thực hiện dân chủ ở cơ sở không tách rời thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
những vấn đề luận án tập trung giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Khảo cứu là: Các cơng trình khoa học liên quan đến đề tài luận án
nghiên cứu sinh khái quát một số kết quả chủ yếu luận án có thể kế thừa, phát
triển trên những vấn đề sau:
25
Một là, về tư liệu
Từ những cơng trình đã được công bố liên quan đến luận án, nghiên cứu
sinh nhận thấy: Các cơng trình đó đã cung cấp hệ thống tư liệu, số liệu rất
phong phú, bao gồm nhiều thể loại: Sách chuyên khảo, tham khảo, đề tài khoa
học, luận án, bài báo. Các tư liệu, số liệu đó có nguồn gốc rõ ràng, thơng tin
cập nhật, có độ tin cậy cao, nghiên cứu sinh có thể tham khảo, sử dụng để phục
vụ nghiên cứu đề tài luận án.
Hai là, về cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện dân chủ, QCDC ở cơ
sở được tiếp cận, trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều chuyên
ngành, nhưng tập trung chủ yếu ở môt số chuyên ngành khoa học: Xây dựng
Đảng và Chính quyền Nhà nước, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Triết học, Chính
trị học, Xã hội học… và sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
phù hợp với từng chuyên ngành cụ thể giúp cho nghiên cứu sinh lựa chọn
phương pháp tiếp cận, trình bày vấn đề khi nghiên cứu đề tài luận án dưới góc
tiếp cận của khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, về nội dung nghiên cứu
Các cơng trình đã tập trung làm rõ vị trí, vai trị của dân chủ, thực hiện
dân chủ; những nội dung chủ yếu của dân chủ, thực hiện dân chủ ở một số
nước trên thế giới; sự phát triển nhận thức về dân chủ, thực hiện dân chủ và
QCDC ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến thực
hiện dân chủ... Đặc biệt, một số cơng trình đã phân tích khá sâu sắc cả về lý
luận và thực tiễn về dân chủ; dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp; làm rõ các
quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, giám sát của Nhân dân trong thực
hiện dân chủ và QCDC ở cơ sở. Một số cơng trình đã phân tích, luận giải làm
rõ yêu cầu khách quan thực hiện dân chủ, QCDC ở cơ sở trên cả nước, các
vùng, miền, địa phương gắn với thực tiễn lãnh đạo của Đảng ở các lĩnh vực
khác nhau. Có một số cơng trình đã đưa ra quan niệm và tiêu chí đánh giá chất
lượng thực hiện dân chủ, QCDC ở cơ sở trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
26
Nhiều cơng trình nghiên cứu thực hiện dân chủ; QCDC của Đảng, mà chủ
yếu là chuyên ngành Triết học, Chính trị học, Xã hội học đã đánh giá thành tựu,
hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong quá trình thực hiện
dân chủ, QCDC ở cơ sở và đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu đề xuất phương
hướng, giải pháp thực hiện dân chủ, QCDC ở cơ sở thuộc các phạm vi, đối
tượng và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể.
Có một số cơng trình nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện
QCDC ở cơ sở dưới góc độ tiếp cận của khoa học Lịch sử Đảng đã làm rõ chủ
trương, sự chỉ đạo của Đảng, đánh giá kết quả, đúc rút kinh nghiệm thực hiện
QCDC ở cơ sở; có những nghiên cứu ở các vùng, miền, địa phương khác nhau,
gắn thời gian, không gian của các công trình cụ thể.
Những nội dung và kết quả nghiên cứu trên đây nghiên cứu sinh có thể
kế thừa, phát triển trong luận án.
Như vậy, qua khảo cứu các cơng trình khoa học đã được công bố liên quan
đến đề tài luận án, cho đến thời điểm này chưa có cơng trình nghiên cứu chun
sâu, tồn diện, có hệ thống về “Đảng lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
từ năm 1998 đến năm 2015” dưới góc độ tiếp cận của khoa học Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, đây là “khoảng trống” về khoa học cần được nghiên cứu.
Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm1998 đến năm 2015” làm luận án tiến
sĩ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, không
trùng lặp với các đề tài khoa học đã được công bố.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Lựa chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015”, nghiên cứu sinh tập trung
nghiên cứu những vấn đề sau:
Thứ nhất, những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện
QCDC ở cơ sở (1998 - 2015)
Ở nội dung này, luận án tập trung làm rõ: (1) Tình hình thế giới, trong nước
tác động đến thực hiện dân chủ ở cơ sở (1998 - 2015); (2) Thực trạng dân chủ và