Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tổ chức hoạt động âm nhạc cho sinh viên khoa mầm non theo hướng tăng cường các hoạt động trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.4 KB, 15 trang )

168

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC CHO SINH VIÊN KHOA MẦM NON
THEO HƢỚNG TĂNG CƢỜNG CÁC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
Người viết: Vũ Thị Huyền
Đơn vị: Khoa Mầm non
Tóm tắt:
“Học qua trải nghiệm” là mơ hình giảng dạy thể hiện quan điểm “Học đi đôi với
hành, lý luận gắn với thực tiễn”. Việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cho sinh viên trong
quá trình giảng dạy học phần “Phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc” sẽ tạo điều kiện
cho người học có những trải nghiệm khám phá mới mẻ, qua đó góp phần hình thành và
phát triển năng lực cho người học, góp phần nâng cao hiệu quả học tập, giảng dạy và đáp
ứng yêu cầu thực tiễn giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết tập trung đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động âm nhạc cho sinh
viên khoa mầm non theo hướng trải nghiệm cũng như cung cấp cho các em các kĩ năng
nghề nghiệp cần thiết sau này.
Từ khóa: Hoạt động trải nghiệm, hoạt động âm nhạc…
I. Đặt vấn đề
Để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy, giảng viên cần tổ chức các hoạt động đa dạng
nhằm giúp sinh viên lĩnh hội tri thức khoa học, hình thành kĩ năng, kỹ xảo thơng qua việc
trải nghiệm giải quyết các tình huống; tạo cơ hội cho sinh viên được thử thách trước những
thách thức khác nhau của hoạt động nghề nghiệp. Vì vậy, giảng viên phải hướng dẫn sinh
viên tìm kiếm và thu thập thơng tin, gợi mở giải quyết vấn đề, tạo điều kiện cho sinh viên
được thực hành, tiếp xúc với thực tiễn, học cách phát hiện và giải quyết vấn đề một cách
sáng tạo. Các năng lực cần hình thành cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên sư phạm, bao
gồm năng lực cá nhân (xác định mục tiêu và định hướng giá trị, giải quyết vấn đề, ra quyết
định, làm chủ bản thân, làm việc độc lập, tin học, ngoại ngữ…), năng lực chuyên môn
(hiểu biết vê chuyên ngành đào tạo, mối quan hệ liên môn, khả năng vận dụng vào cuộc
sống và hoạt động nghề nghiệp…), năng lực phương pháp (dạy học, giáo dục, phát triển
chương trình, nghiên cứu khoa học, tự học, tự bồi dưỡng…), năng lực xã hội (giao tiếp,
ứng xử, lãnh đạo, hợp tác, hoạt động xã hội…).


Việc áp dụng mơ hình học tập qua trải nghiệm trong quá trình giảng dạy học phần
“Tổ chức hoạt động âm nhạc” là một hoạt động góp phần nâng cao năng lực cho sinh viên
mầm non tương đối hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực hiện đổi mới đào tạo theo hướng tiếp
cần năng lực nghề nghiệp nhằm giúp sinh viên gắn lý luận với thực tiễn giáo dục; bồi
dưỡng lòng yêu nghề, rèn luyện phẩm chất và năng lực sư phạm cần thiết của người giáo
viên mầm non tương lai.


169

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu “Tổ chức hoạt động âm
nhạc cho sinh viên khoa mầm non theo hướng tăng cường các hoạt động trải nghiệm”.
II. Phƣơng pháp nghiên cứu
1. Đọc, nghiên cứu tài liệu:
- Tìm hiểu các nguồn tài liệu liên quan tới hoạt động trải nghiệm cho sinh viên;
- Tổng hợp các nguồn tài liệu, biên soạn và hướng dẫn SV thực hành tổ chức hoạt
động âm nhạc.
2. Phương pháp điều tra, đánh giá thực trạng:
- Quan sát, đánh giá việc SVMN thực hành tổ chức hoạt động âm nhạc trên trẻ giả
định;
- Điều tra, đánh giá ý kiến của 100 SV, các giáo viên khoa mầm non có liên quan
tới tổ chức hoạt động âm nhạc theo hướng trải nghiệm cho trẻ ở trường mầm non.
3. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp:
- Tiến hành điều tra thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm trong tổ chức hoạt
động âm nhạc:
+ Nhận thức của giáo viên về việc tổ chức hoạt động âm nhạc theo hướng tăng
cường hoạt động trải nghiệm;
+ Thực hiện tăng cường trải nghiệm trong giờ tổ chức hoạt động âm nhạc của các
giáo viên;
+ Mức độ đạt được của việc tổ chức hoạt động âm nhạc cho sinh viên theo hướng

tăng cường hoạt động trải nghiệm;
+ Tính hiệu quả trên sinh viên khi được tăng cường HĐTN trong học phần “Tổ
chức hoạt động âm nhạc”.
- Phân tích và tổng hợp kết quả điều tra.
III. Kết quả nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Vài nét về mơ hình học tập qua trải nghiệm
Hơn 2000 năm trước, Khổng Tử (511 – 479 TCN) đã nói: “Những gì tơi nghe, tơi
sẽ qn. Những gì tơi thấy, tơi sẽ nhớ. Những gì tơi làm, tơi sẽ hiểu”. Cịn nhà triết học Hy
Lạp, Xơcrat (470 – 399 TCN) cũng nêu quan điểm: “Người ta phải học bằng cách làm một
việc gì đó. Với những điều bạn nghĩ là mình biết, bạn sẽ thấy khơng chắc chắn cho đến khi


170

làm nó”. Những tư tưởng của các nhà giáo dục, các nhà triết học thời cổ đại có thể được
coi là nguồn gốc tư tưởng đầu tiên của học qua trải nghiệm.
Tư tưởng này thực sự được đưa vào giáo dục hiện đại từ những năm đầu của thế kỉ
XX. Năm 1902, tại Mĩ, “Câu lạc bộ trồng ngô” đầu tiên dành cho học sinh được thành lập
với mục đích dạy cho trẻ thực hành trồng ngô, ứng dựng kĩ thuật nông nghiệp thông qua
trải nghiệm các công việc thực tế của nhà nơng từ gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch ngô.
Năm 1907, tại Anh, một Trung tướng quân đội Anh đã tổ chức một cuộc cắm trại hướng
đạo đầu tiên. Hoạt động này sau phát triển thành phong trào Hướng đạo sinh rộng khắp
toàn cầu. Hướng đạo là một loại hình “Giáo dục trải nghiệm”, chú ý đặc biệt vào các hoạt
động thực hành ngoài trời, bao gồm: cắm trại, kỹ năng sống trong rừng, kỹ năng sinh tồn,
lửa trại, các trị chơi tập thể và các mơn thể thao. Cho đến năm 1977, học qua trải nghiệm
đã chính thức được thừa nhận bằng văn bản và được tuyên bố rộng rãi khi Hiệp hội giáo
dục trải nghiệm (Association for Experiential Education – AEE) được thành lập. Giáo dục
trải nhiệm bước thêm một bước tiến mạnh mẽ hơn khi vào năm 2002, tại Hội nghị thượng
đỉnh Liên hiệp quốc tế về Phát triển bền vững, chương trình “Dạy và học vì một tương lai

bền vững” đã được UNESCO thơng qua, trong đó có học phần quan trọng về “Giáo dục
trải nghiệm” được giới thiệu, phổ biến và phát triển sâu rộng. Ngày nay, học qua trải
nghiệm đang được tiếp tục triển khai trên phạm vi toàn thế giới và được nhìn nhận như là
một triển vọng tương lai tươi sáng cho giáo dục toàn cầu trong những thập kỉ tiếp theo.
Người Việt Nam từ xưa đã quan niệm: “Trăm hay không bằng tay quen”, “Học đi
đôi với hành”, “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” để nhấn mạnh yếu tố thực hành và
vận dụng thực tế. Ở nước ta, một trong những quan điểm đổi mới giáo dục và đào tạo được
nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 8 khóa XI của BCHTW chỉ rõ: “Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp
đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học,
tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Chuyển tự học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học…”. Theo đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng
là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang thiết bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Điều đó cho thấy,
việc đổi mới hình thức, phương pháp dạy học theo chương trình mới sau năm 2015 đặc
biệt nhấn mạnh hình thức học tập trải nghiệm. Một trong những giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng dạy học theo Dự thảo chương trình mới sau năm 2015 là tổ chức hoạt động
trải nghiệm trong dạy học.


171

1.2. Một số quan niệm về “Giáo dục trải nghiệm”:
- Định nghĩa của Hiệp hội Giáo dục trải nghiệm quốc tế: “Giáo dục trải nghiệm là
một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học
tham gia trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát
triển kỹ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp

tích cực cho cộng đồng và xã hội”. Người dạy ở đây có thể là: giáo viên, tình nguyện viên,
hướng dẫn viên, huấn luyện viên, bác sĩ tâm lý… Nó nói lên tính đơn giản, đa dạng, phổ
biến và ứng dụng “Giáo dục trải nghiệm”.
- Giáo dục trải nghiệm cũng có cơ sở lý thuyết dựa trên một nghiên cứu của Edgar
Dale (1900-1985) năm 1946 chỉ ra rằng:

+ Nghiên cứu của Edgar Dale năm 1946 chỉ ra rằng: Chúng ta nhớ: 10% những gì
chúng ta đọc, 20% những gì chúng ta nghe, 30% những gì chúng ta nhìn, và 90% những gì
chúng ta làm. Các đặc điểm nổi bật trong “Giáo dục trải nghiệm”:
. Quá trình học qua trải nghiệm diễn ra khi trải nghiệm được lựa chọn kĩ càng và
sau khi thực hiện được tổng kết bởi quá trình chia sẻ, phân tích, tổng qt hóa và áp dụng;
. Người học được sử dụng tồn diện: trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kĩ năng và các quan
hệ xã hội trong quá trình tham gia;
. Trải nghiệm được thiết kế để yê cầu người học phải sáng tạo, tự chủ, tự ra quyết
định và thỏa mãn với kết quả đạt được;
. Người học được tham gia tích cực vào việc: đặt câu hỏi, tìm tịi, trải nghiệm, giải
quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm;


172

. Kết quả của trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và những điều
học được từ trải nghiệm đó;
. Kết quả đạt được là của cá nhân, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và trải nghiệm
của cá nhân đó trong tương lai;
. Các mối quan hệ được hình thành và hồn thiện; người học với bản thân mình;
người học với những người khác, và người học với thế giới xung quanh.
- Mơ hình học tập dựa vào trải nghiệm của David Kold (1984). David Kold (sinh
năm 1939) là nhà lý luận giáo dục đầu tiên nghiên cứu về học tập dựa vào trải nghiệm và
là giáo sư về hành vi tổ chức trong trường Weatherhead, Case Western University,

Cleveland, Ohio, Mỹ. David Kold đã phát triển một mơ hình học tập dựa vào trải nghiệm
(Experiential learning, thường được biết đến với cái tên “Chu trình học tập Klob”) nhằm
“quy trình hóa” việc học với các giai đoạn và thao tác được định nghĩa rõ ràng. Năm 1970,
David Kold trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của Piagiet, Vưgốtxki… đã cơng bố mơ
hình “Học thơng qua kinh nghiệm”, nhằm khái qt hóa chu kì học tập của người học

+ Giai đoạn 1: Kinh nghiệm rời rạc (Concrete Experience): Bắt đầu từ hành động
trong đó khai thác kinh nghiệm đã có gắn bó với bối cảnh mà người học đã trải qua. Nó
như nguyên liệu đầu vào, là điều kiện cần của trải nghiệm;
+ Giai đoạn 2: Quan sát có suy tưởng – quan sát, đối chiếu, phản hồi (Reflective
Observation): Người học sử dụng kinh nghiệm đã có của mình để xử lí các sự kiện, sự việc
đang xảy ra và phản hồi, chia sẻ với những người xung quanh một cách có mục đích. Như
vậy ở giai đoạn này tiến trình suy nghĩ của người học đi theo cấp độ từ thấp (ghi nhận
thông tin) đến cao (tìm hiểu nguyên nhân và các mối quan hệ) và được cụ thể hóa qua việc
trả lời các câu hỏi như: Bạn cảm thấy như thế nào? Tại sao lại như vậy? Vì sao?;
+ Giai đoạn 3: Khái niệm hóa (Conceptualization): Người học tạo ra những kiến
thức, kinh nghiệm mới dựa trên kết quả phân tích, đánh giá sự việc xảy ra;


173

+ Giai đoạn 4: Thực nghiệm tích cực (Active Experimention): Người học áp dụng
những kiến thức và kinh nghiệm vừa mới lĩnh hội vào các bối cảnh, tình huống và sự việc
mới trong phạm vi mở rộng và cứ thế kinh nghiệm mới lại được tạo ra. Hiểu biết và kinh
nghiệm của người học được nâng cao.
+ Tác giả khuyến cáo tình tự của việc học theo mơ hình học tập trải nghiệm cần
tuân thủ trình tự của chu trình, nhưng không nhất thiết phải khởi đầu từ bước nào trong chu
trình. Tuy nhiên, Klob dựa trên giả định quan trọng về việc học: tri thức khởi nguồn từ
kinh nghiệm, tri thức cần được người học kiến tạo (hoặc tái tạo) chứ khơng phải là ghi nhớ
những gì đã có. Quan điểm cơ bản trong mơ hình học tập dựa tên kinh nghiệm này là

người học cần thiết phải dựa trên các kinh nghiệm của mình để từ đó khái qt hóa và
cơng thức hóa các khái niệm để có thể áp dụng cho các tình huống mới có thể xuất hiện
trong thực tế; sau đó các khái niệm này được áp dụng và kiểm nghiệm trong thực tế để
thấy được sự đúng – sai, hữu dụng – vơ ích…; từ đó lại xuất hiện các kinh nghiệm mới, và
chúng lại trở thành đầu vào cho vòng học tập tiếp theo, cứ thế lặp lại cho tới khi nào việc
học đạt được mục tiêu đề ra ban đầu.
1.3. Học phần “Phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc”
“Phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc” là học phần được thiết kế xây dựng 45
tiết (2 tín chỉ) và giảng dạy ở học kì 1 (năm thứ 2).
Mục tiêu học phần:
- Kiến thức: SV nắm được một số vấn đề chung về tổ chức hoạt động âm nhạc ở
trường mầm non. Hiểu và trình bày được các vấn đề về: nội dung, hình thức, phương pháp
tổ chức các dạng hoạt động âm nhạc ở trường mầm non.
- Kĩ năng:
+ SV biết lựa chọn, sử dụng các nội dung âm nhạc phù hợp với đặc điểm, khả năng
tiếp nhận của trẻ, phù hợp với việc giúp trẻ khám phá chủ đề và mục tiêu chương trình
giáo dục mầm non;
+ SV biết lập kế hoạch tổ chức các hình thức hoạt động âm nhạc cho trẻ ở trường
mầm non;
+ SV có kỹ năng cơ bản, cần thiết trong việc nhận xét, đánh giá các hình thức tổ
chức hoạt động âm nhạc.
- Thái độ: Sinh viên u thích mơn học, tích cực bồi dưỡng tình cảm và thị hiếu
nghệ thuật đúng đắn, góp phần hình thành nhân cách nghề nghiệp của cơ giáo mầm non,
trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo các kiến thức và kỹ năng đã học vào việc tổ chức các hoạt
động giáo dục âm nhạc cho trẻ ở trường mầm non.


174

- Năng lực: Năng lực tổ chức hoạt động giờ dạy âm nhạc, thiết kế giáo án, đánh giá.

Nội dung học phần:
Bao gồm:
- Một số vấn đề chung về giáo dục âm nhạc trong trường Mầm non:
- Phương pháp tổ chức các hoạt động âm nhạc trong trường mầm non:
+ Nghe nhạc (Nghe nhạc – nghe hát):
+ Ca hát:
+ Vận động theo nhạc:
+ Trị chơi âm nhạc:
- Các hình thức tổ chức hoạt động âm nhạc:
+ Tổ chức các hoạt động âm nhạc
+ Hoạt động âm nhạc trong đời sống hàng ngày của trẻ ở trường mầm non
+ Hoạt động âm nhạc trong ngày lễ, ngày hội
- Thiết kế bài soạn và tập dạy:
+ Phân phối chương trình
+ Thiết kế bài soạn
+ Thực hành – tập dạy
- Hiện nay, giáo viên đang sử dụng các phương pháp dạy học: nghiên cứu lí luận,
thảo luận nhóm, nêu vấn đề, dự giờ, và thực hành – tập dạy, ứng dụng… giúp sinh viên trải
nghiệm, lĩnh hội kiến thức và vận dụng vào hoạt động học tập của bản thân phục vụ cho
kiến tập, thực tập và hoạt động nghề nghiệp sau này.
1.4. Khái niệm tổ chức hoạt động âm nhạc theo hướng tăng cường hoạt động trải
nghiệm.
- Dựa trên quá trình nghiên cứu một số quan niệm về “Giáo dục trải nghiệm” của
các nhà nghiên cứu, chúng tôi đưa ra khái niệm: “Tổ chức hoạt động âm nhạc theo hướng
tăng cường hoạt động trải nghiệm” gồm 3 hoạt động: Hoạt động cơ bản (sinh viên chiếm
lĩnh kiến thức mới trên cơ sở kiến thức đã học); Hoạt động thực hành (sinh viên củng cố,
luyện tập kiến thức, kĩ năng đã chiếm lĩnh); Hoạt động ứng dụng (sinh viên tích hợp, mở
rộng và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tế cuộc sống và thực hành nghề
nghiệp).
- Quá trình này cũng chia làm 4 giai đoạn:



175

+ Giai đoạn 1: Cung cấp cho sinh viên lý thuyết
. Bản thân mỗi sinh viên khi bắt đầu tham gia hoạt động học tập dựa vào trải nghiệm
đều đã có vốn kinh nghiệm thực tế. Đó chính là những kiến thức, kỹ năng về chủ đề, nội
dung học đã được giảng viên trang bị trong quá trình học tập, rèn luyện tại giảng đường.
. Đó là những kiến thức cơ sở lý luận cần thiết về môn học (vai trò của âm nhạc đối
với sự phát triển của trẻ mầm non; đặc điểm cảm thụ âm nhạc của trẻ mầm non…). Những
kinh nghiệm này được tích lũy trong mỗi sinh viên thông qua sự hiểu rõ, nẵm rõ về sự vật,
hiện tượng, một khái niệm đã được học, đã được tiếp xúc. Kinh nghiệm đó được lưu lại
trong bản thân sinh viên. Chính những kinh nghiệm nhất định đã có về chủ đề, về nội dung
cần học sẽ là “nguyên liệu đầu vào” quan trọng của quá trình trải nghiệm thực tế.
. Khi bước vào giai đoạn 1, ở mỗi sinh viên bắt đầu xuất hiện sự mâu thuẫn, bất đồng
giữa kiến thức đã có với nhiệm vụ được giao. Chính những mâu thuẫn, bất đồng trong
những kiến thức tạo ra những tình huống có vấn đề kích thích nhu cầu học tập ở mỗi sinh
viên.
+ Giai đoạn 2: Hướng dẫn sinh viên dự giờ, dự hoạt động, viết bài thu hoạch
. Sinh viên trải nghiệm thực tế, tương tác trực tiếp với môi trường học tập. Qua quan
sát, cảm nhận và đối chiếu, phân tích, đánh giá các sự vật, hiện tượng, kết hợp huy động
vốn kinh nghiệm đã có của bản thân để tìm hiểu về sự vật, hiện tượng. Tự mình suy nghĩ
về các sự vật, hiện tượng hoặc trao đổi, tranh luận với các sinh viên khác về tính đúng đắn,
mức độ hợp lý hay khơng hợp lý, xem “có gì đó khơng ổn”, có quan điểm hay thực tế nào
đi ngược lại với các kinh nghiệm bản thân mình đã có về sự vật, hiện tượng đó hay khơng.
. Trên cơ sở kiến thức đã được học tại giảng đường, kết hợp với quan sát và ghi chép
thực tế các hoạt động tại trường mầm non, sinh viên đối chiếu, phản hồi, tự mình suy nghĩ
về các sự vật, hiện tượng hoặc trao đổi, tranh luận với các sinh viên khác về tính đúng đắn,
mức độ hợp lý hay khơng hợp lý, xem “có gì đó khơng ổn”, có quan điểm hay thực tế nào
đi ngược lại với các kinh nghiệm bản thân mình đã có về sự vật, hiện tượng đó hay khơng.

Sinh viên sẽ đối chiếu “nguyên liệu đầu vào” với kết quả quan sát để phản hồi ý kiến về
vấn đề trải nghiệm. Hay nói cách khác, sinh viên đối chiếu giữa lý luận đã thu nhận ở
trường và thực tiễn tổ chức hoạt động ở trường mầm non, so sánh quy trình tổ chức hoạt
động, tìm ra mục đích, cách thức tổ chức từng hoạt động.
. Giai đoạn này, trong mỗi bản thân sinh viên xuất hiện những ý tưởng, dự định về sự
vật, hiện tượng. Bước vào học tập ở giai đoạn 2, những kiến thức mâu thuẫn, bất đồng khi
thực hiện nhiệm vụ học tập ở giai đoạn 1 sẽ được đồng hóa dần thành các ý định, ý tưởng
cho việc thực hiện nhiệm vụ học tập.
+ Giai đoạn 3: Hướng dẫn sinh viên hình thành khái niệm, kinh nghiệm rõ ràng: Mỗi
sinh viên bắt đầu có sự hình thành khái niệm về sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở đối chiếu,
phản hồi, kiến thức về sự vật, hiện tượng được hình thành tập trung trong mỗi sinh viên rất


176

rõ ràng mặc dù các kiến thức đó có thể đúng hoặc chưa đúng về sự vật, hiện tượng. Chính
những kiến thức tập trung này là cơ sở để sinh viên bước vào giai đoạn học tập tiếp theo.
Việc quan sát thực tế sẽ giúp sinh viên hình thành những khái niệm về hoạt động rõ ràng,
cụ thể.
+ Giai đoạn 4: Lập kế hoạch cho sinh viên thử nghiệm, vận dụng tích cực
. Sinh viên đã có một bản kết luận được rút từ thực tiễn với các luận cứ và suy diễn
liên kết chặt chẽ. Bản kết luận đó có thể coi như một giả thuyết đối với mỗi sinh viên. Giả
thuyết đó phải dưa vào thực tiễn để kiểm nghiệm.
. Qua hoạt động thử nghiệm thực tiễn (soạn giáo án cá nhân, tập dạy theo nhóm), sinh
viên nhận định lại những giải thuyết đã đề ra. Bước vào giai đoạn học tập này, bản thân
sinh viên có sự chuyển đổi thơng qua các hành động. Chính hoạt động thử nghiệm giúp
sinh viên nắm bắt khái niệm mới chắc chắn hơn và truyền tải nó thành kinh nghiệm mới
cho bản thân mình.
2. Thực trạng tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ mầm non của sinh viên
2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về hoạt động trải nghiệm đối với sinh viên

trong học phần “Tổ chức hoạt động âm nhạc”.
- Chúng tôi liên hệ phỏng vấn trực tiếp các giáo viên trong việc “Tầm quan trọng
của việc tăng cường hoạt động trải nghiệm cho sinh viên trong học phần “Tổ chức hoạt
động âm nhạc”. Kết quả 100% giáo viên đều cho rằng việc này là rất cần thiết.
- Điều này cho thấy tất cả các giáo viên đều đồng ý việc tăng cường hoạt động trải
nghiệm trong học phần này thực sự quan trọng đối với SV trong quá trình học tập và hành
nghề sau khi ra trường.
2.2. Thực trạng về việc giáo viên sử dụng HĐTN và mức độ hiệu quả trong quá
trình giảng dạy học phần “Tổ chức hoạt động âm nhạc”:
Qua quá trình quan sát, dự giờ, chúng tôi thấy:
- Với nội dung lý thuyết cơ bản, giáo viên đều giao nhiệm vụ cho SV nghiên cứu cá
nhân trước khi đến lớp. Trên lớp, giáo viên cung cấp kiến thức cơ bản để sinh viên nắm
bắt.
+ Hoạt động này giúp sinh viên phát huy tính tự học nhưng cũng có nhiều SV
khơng quan tâm và không thực hiện yêu cầu một cách nghiêm túc. Một số SV có thực hiện
nhưng lại khơng có sự định hướng chi tiết và khơng có mơi trường “trải nghiệm” nên khi
lĩnh hội kiến thức chỉ ở một chiều khiến nội dung này không đạt hiệu quả;
- Trong nội dung thực hành: Giáo viên cho SV tham dự, ghi chép, báo cáo thu
hoạch giờ dạy mẫu tại cơ sở thực hành và dự giờ dạy mẫu (trong kho tư liệu của GV).


177

+ Điều này cho thấy, giảng viên có quan tâm tới các biện pháp tổ chức HĐTN trong
học phần. Tuy nhiên, một số giờ dạy mẫu này chưa đạt hiệu quả nên SV cũng khó khăn
trong việc lĩnh hội các kinh nghiệm mới, phân vân đúng sai, có nên hay không. Khiến giáo
viên và sinh viên mất thêm thời gian để phân tích và đưa ra tri thức đúng để có thể áp dụng
vào thực tiễn.
- Nội dung ứng dụng: GV tạo môi trường, định hướng cho SV giảng dạy trên trẻ
giả định trước khi giảng dạy trên trẻ tại cơ sở thực hành. Tổ chức Hội thi nghiệp vụ sư

phạm, tổ chức các đợt kiến tập, thực tập sư phạm tại các trường mầm non trên địa bàn
thành phố.
+ Hoạt động này phát huy hiệu quả của hoạt động trải nghiệm trong học phần tổ
chức hoạt động âm nhạc. Sinh viên được tham gia thực hành trực tiếp dựa trên quá trình
trải nghiệm và lĩnh hội kinh nghiệm tri thức của bản thân. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những SV
chưa tự tin đứng lớp sau một hai lần dạy thử vì thụ động và khơng tự tin.
2.3. Biểu hiện sinh viên khi được học tập học phần “Tổ chức hoạt động âm nhạc”
theo hướng tăng cường HĐTN:
- Qua phát phiếu điều tra trên 100 sinh viên: Có 80 sinh viên (chiếm 80%) hứng thú,
tích cực và hăng hái khi được học tập theo hướng trải nghiệm, 20 sinh viên (chiếm 20%)
khơng hoặc ít quan tâm tới các hoạt động trải nghiệm này.
+ Chúng tôi nhận định việc tăng cường hoạt động trải nghiệm trong học phần này giúp
sinh viên được chủ động tham gia, lĩnh hội kiến thức, kĩ năng và hiểu bản chất của các
hoạt động thực tiễn khi tổ chức hoạt động âm nhạc. Thông qua các hoạt động dự giờ, tổ
chức lễ hội… trên cơ sở mầm non, trường mầm non thực tập sinh viên tăng thêm vốn kinh
nghiệm hành nghề và yêu trẻ, thấu hiểu nghề GVMN nhiều hơn. Tuy nhiên, vẫn cịn các
em khơng chủ động, lười biếng, ỉ lại cho các bạn khác, tham gia hời hợt, miễn cưỡng.
Qua quá trình điều tra, chúng tơi nhận thấy: Giáo viên cần có biện pháp để các
phương pháp học tập trải nghiệm đổi mới, sáng tạo giúp sinh viên phát huy hết hiệu quả
của hoạt động trải nghiệm. Kho tài liệu của giảng viên cần bổ sung, cập nhật theo kịp sự
tiến bộ, thay đổi của thời đại nhằm tăng hiệu quả và cảm xúc của sinh viên sau khi trải
nghiệm:
+ Giáo viên chưa khai thác hết nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên nên bị hạn chế
trong quá trình tổ chức các hoạt động trải nghiệm; thường các hoạt động trải nghiệm phải
thuận lợi nhất cho nhà trường hay giảng viên sẽ được thực hiện;


178

+ Chưa đầu tư thiết kế hoạt động trải nghiệm theo hướng mở rộng quy mơ nên q

trình tổ chức hoạt động trải nghiệm cịn rời rạc, khơng đồng bộ và phạm vi bó hẹp trong
trường, trong thành phố;
+ Những hoạt động trải nghiệm vượt ra khỏi môi trường lớp học, các trường mầm
non tại cơ sở thực hành trong nhà trường rất ít khi được tổ chức nên sinh viên ít khi lĩnh
hội, học hỏi, trải nghiệm được những tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm hiện đại;
+ Kinh phí tổ chức hoạt động trải nghiệm hạn chế cũng góp phần khiến hoạt động
này bị thu hẹp và không đạt yêu cầu.
3. Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm cho sinh viên trong quá trình
giảng dạy học phần “Tổ chức hoạt động âm nhạc”
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, thực trạng kết hợp trong q trình giảng dạy học
phần “Tổ chức hoạt động âm nhạc” cho trẻ mầm non, chúng tôi nhận thấy tăng cường hoạt
động trải nghiệm là một hoạt động cần thiết và bổ ích cho sinh viên. Hoạt động này giúp
sinh viên củng cố, hệ thống hóa, mở rộng, nâng cao kiến thức đã học, tạo điều kiện vận
dụng tri thức đã học vào thực hành nghề nghiệp, gắn lý luận với thực tiễn nhằm nâng cao
phẩm chất và năng lực sư phạm cần thiết của người giáo viên, tạo cho sinh viên thêm yêu
nghề mến trẻ, tạo động lực học tập, rèn luyện, kĩ năng sư phạm trở thành người giáo viên
có đủ năng lực trong tương lai. Ngoài ra, sinh viên có thêm hiểu biết về trường mầm non,
cơng việc của người giáo viên, chương trình mơn học…
Do đó, chúng tơi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp tổ chức tăng cường HĐTN trong
học phần “Tổ chức hoạt động âm nhạc” như sau:
Biện pháp 1: Cải tiến, điều chỉnh nội dung học tập học phần “Tổ chức hoạt động
âm nhạc” theo chương trình đào tạo và chương trình khung của Bộ Giáo dục và đào
tạo.
- Mục đích: Việc cải tiến, điều chỉnh nội dung học tập học phần “Tổ chức hoạt động
âm nhạc” nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành học và phù hợp với điều kiện
thực tiễn của nhà trường.
- Cách thực hiện: Dựa trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành năm 2007 và cập nhật tình hình thực tiễn, chúng tôi đã họp chuyên môn để trao đổi,
rà sốt, điều chỉnh chương trình cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.
+ Bổ sung nội dung: “Sinh hoạt sau chủ đề”, “Tổ chức hoạt động lễ hội” vào phần các

phương pháp tổ chức các hoạt động âm nhạc trong trường mầm non.
+ Bổ sung nguồn tài liệu tham khảo về các trò chơi âm nhạc: Tuyển tập những bài hát
hay mới nhất cho trẻ mầm non; Kịch bản lễ hội ở trường mầm non; Trò chơi âm nhạc cho
trẻ mầm non.


179

+ Tăng cường các hoạt động trải nghiệm thực tế tại các trung tâm văn hóa nghệ thuật
trong và ngồi tỉnh.
Biện pháp 2: Cung cấp cho sinh viên về mục tiêu, nội dung, hình thức học tập theo
hướng trải nghiệm giúp sinh viên nhận thức rõ nhiệm vụ học tập, nghiên cứu
- Mục đích:
+ Sinh viên xác định rõ ràng các mục tiêu cần đạt sau khi học tập học phần “Tổ chức
hoạt động âm nhạc”: Sinh viên cần nắm những kiến thức gì? Hình thành những kỹ năng
nghề nghiệp nào? Có được thái độ với nghề nghiệp ra sao?
+ Sinh viên nhận thức rõ các hoạt động giáo dục hay dạy học sẽ thực hiện trong toàn
bộ học phần.
+ Sinh viên hình thành kỹ năng độc lập, tự giác tìm kiếm, thu thập và nghiên cứu giáo
trình, các tài liệu tham khảo phục vụ cho việc thực hành đạt kết quả tốt.
- Cách thực hiện:
+ Trước khi tổ chức giảng dạy học tập học phần, giáo viên cung cấp cho sinh viên về
mục tiêu của học phần này;
+ Giáo viên giới thiệu khái quát toàn bộ nội dung và thời gia, kiểm tra, thi cử sinh viên
phải thực hiện trong quá trình học tập;
+ Giáo viên quan tâm, đặt câu hỏi về mong muốn của sinh viên trong môn học để nắm
rõ nguyện vọng và nhu cầu của người học;
+ Hướng dẫn sinh viên về việc học theo hướng trải nghiệm để sinh viên chủ động phát
huy vai trò của bản thân và có trách nhiệm trong học phần.
Biện pháp 3: Tổ chức cho sinh viên quan sát thực tế hoạt động giáo dục tại cơ sở,

các trường mầm non, phân tích va rút kinh nghiệm sau khi dự giờ
- Mục đích:
+ Sinh viên có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với thực tế chăm sóc – giáo dục trẻ ở
trường mầm non;
+ Sinh viên hình dung tồn bộ các công việc của một người giáo viên mầm non;
+ Sinh viên năng cường khả năng giao tiếp, ứng xử với trẻ, với các thành viên trong
trường mầm non;
+ Sinh viên nước đầu hình thành khả năng quan sát, đánh giá các công vệc của giáo
viên trong trường mầm non;
+ Sinh viên làm việc độc lập, tự giác, hợp tác, chia sẻ.
- Cách thực hiện: Bước này gồm 2 khâu: Dự hoạt động mẫu, ghi chép và báo cáo thu
hoạch. Để làm được hoạt động này sinh viên cần phải phân tích hoạt động mẫu, bao gồm:
+ Thứ nhất: Xác định hoạt động dự giờ và mục đích của hoạt động đó nhằm phân tích
hoạt động giáo dục hay dạy học đã thực hiện về mặt lí luận và phương pháp dạy trẻ, về các
nội dung thuộc các lĩnh vực kiến thức giáo dục và dạy học khác nhau.


180

+ Thứ hai: Ghi chép đầy đủ mọi diễn biến, hành động thực hiện hoạt động giáo dục
hay dạy học của cô và hoạt động trên lớp của trẻ theo tiến trình thời gian.
+ Thứ ba: Ghi lại những điểm được và chưa được của bài dạy, các nhận xét, đánh giá,
sơ bộ của từng thao tác, hành động, hoạt động của giáo viên mầm non khi tiến hành hoạt
động.
.Để thực hiện công việc ghi chép và đánh giá các hoạt động mẫu, sinh viên có thể sử
dụng phiếu dự giờ để có tính hướng đích cao hơn.
Biện pháp 4: Tổ chức Hội thi Nghiệp vụ sư phạm kết hợp với cơ sở thực hành mầm
non
- Mục đích:
+ Sinh viên tham gia tổ chức và thực hiện trực tiếp với trẻ tại trường mầm non.

+ Sinh viên có kĩ năng làm việc nhóm, tự giác, hợp tác, chia sẻ với bạn, với các giáo
viên mầm non và giáo viên giảng dạy học phần.
+ Sinh viên tăng cường khả năng giao tiếp, ứng xử với trẻ, với các thành viên trong
trường mầm non.
+ Sinh viên có hình thành khả năng quan sát, đánh giá các công vệc của giáo viên
trong trường mầm non.
- Cách thực hiện:
+ Tổ chức họp giáo viên cơ sở thực hành, giáo viên mầm non, sinh viên cốt cán triển
khai nhiệm vụ.
+ Dự tính thời gian, địa điểm.
+ Nội dung tổ chức Hội thi:
. Thi giảng học phần “Tổ chức hoạt động âm nhạc” trên trẻ;
. Thi dàn dựng và biểu diễn văn nghệ kết hợp với trẻ;
. Thi làm một hoạt động khéo tay hay làm bất kì phù hợp theo chủ đề của trường mầm
non tại thời điểm tổ chức;
+ Cơ cấu giải, quà tặng.
+ Duyệt chương trình
+ Tổ chức đánh giá sau Hội thi.
Biện pháp 5: Thực tập sư phạm các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ và rút kinh
nghiệm tại trường mầm non
- Mục đích:
+ Sinh viên hiểu một cách cụ thể, sinh động các kiến thức đã học, nhận dạng trên thực
tế, đồng thời làm phong phú thêm vốn hiểu biết của mình bằng những kinh nghiệm và sáng
tạo trong thực tế chăm sóc – giáo dục trẻ.


181

+ Sinh viên kiến thức, kĩ năng, phẩm chất và năng lực sư phạm ban đầu của người
giáo viên mầm non.

+ Sinh viên chuẩn bị những điều kiện cơ bản và cần thiết (về tâm lý và kĩ năng nghề
nghiệp) để nhanh chóng thích ứng với nghề nghiệp;
+ Sinh viên có cơ hội được vận dụng kiến thức vào thực tiễn chăm sóc – giáo dục trẻ.
- Cách thực hiện:
+ Giảng viên hướng dẫn lên kế hoạch phân công sinh viên thực tập tại các hóm lớp,
thống nhất với trường mầm non về chương trình thực tập một cách cụ thể, rõ ràng.
+ Tổ chức cho sinh viên xuống trường mầm non thực tập theo kế hoạch.
+ Tổ chức gặp mặt và rút kinh nghiệm trong và sau đợt thực tập.
Biện pháp 6: Đánh giá kết quả học tập của sinh viên
- Mục đích: Giáo viên và sinh viên nhận biết được mặt mạnh, mặt yếu về tri thức, về
kĩ năng thực hành của từng sinh viên, thấy được những tồn tại trong cơng tác giảng dạy
học phần của mình để có biện pháp và phương pháp khắc phục.
- Cách thực hiện:
+ Có những nội dung kiểm tra đánh giá để sinh viên rút kinh nghiệm, có những nội
dung kiểm tra đánh giá có chấm điểm, xếp loại đánh dấu mức độ tiến bộ của sinh viên và
lấy cơ sở để tính điểm học phần.
+ Việc đánh giá, xếp loại cho điểm được căn cứ vào:
+ Ý thức, tinh thần, thái độ luyện tập, rèn luyện của sinh viên;
+ Kết quả đạt được: Trình độ kĩ năng đã được hình thành, ứng dụng kiến thức vào
thực tế, kết quả cụ thể trong công việc thực hiện;
+ Cách cho điểm thực hành theo quy định.
IV. KẾT LUẬN
Để duy trì và phát triển tính chủ động, tích cực của sinh viên trong học tập học phần
“Tổ chức hoạt động âm nhạc”, giáo viên và nhà trường cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
sinh viên được trải nghiệm rèn luyện kĩ năng sư phạm qua học lý thuyết, thực hành và ứng
dụng tại lớp cũng trường mầm non. Mỗi giáo viên cũng không ngừng bồi dưỡng, nâng cao
kiến thức thực tế giảng dạy ở mầm non để q trình giảng dạy có thể trở thành “mẫu” cho
sinh viên học tập. “Học qua trải nghiệm” và việc vận dụng phương pháp này cũng đã cho
thấy hiệu quả hoạt động trải nghiệm đối với kết quả rèn luyện năng lực người học. Do đó,
nhận thức đúng đắn và vận dụng phù hợp “học qua trải nghiệm” sẽ mở ra hướng đi mới

cho giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục ở đại học, cao đẳng cho sinh viên trong giai
đoạn hiện nay.


182

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, tài liệu bồi dưỡng chuyên đề (2004), Đổi mới chương trình
chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non và đào tạo giáo viên mầm non, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Chương trình Giáo dục Mầm non, Nxb Giáo dục Việt
Nam.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Kỹ năng xây dựng và tổ chức các HĐTN sáng tạo
trong trường tiểu học, Nxb Đại học Sư phạm.
4. Bùi Ngọc Diệp (2015), Hình thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong
nhà trường phổ thông, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 113 – 02/2015.
5. Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
6. Nguyễn Thanh Bình (2017), Bồi dưỡng năng lực thiết kế và tổ chức các hoạt động trải
nghiệm cho giáo viên phổ thông, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia.
7. Nguyễn Thị Hòa (2007), Giáo dục học mầm non” Nxb Đại học Sư phạm.
8. Nguyễn Ánh Tuyết (2004), Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại
học Sư phạm Hà Nội.
9. Phạm Thị Hòa (2010), Giáo trình Tổ chức hoạt động âm nhạc, Nxb Giáo dục Việt
Nam
10. />


×