ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
……………..
BÀI TẬP DÂN SỐ & PHÁT TRIỂN
Đê bài:
Mối quan hệ dân số với vấn đề nghèo đói. Thực trạng mối
quan hệ này ở nước ta trong thời gian qua
Giảng viên: Huỳnh Viết Thiên Ân
Nhóm 11
1.
2.
3.
4.
5.
Đồn Lê Hải Yến
Phan Nguyễn Ái Tiên
Văn Hồng Mỹ Yên
Đoàn Thị Sơn Ka
Nguyễn Đạt Thanh Vi
Đà Nẵng, ngày 07 tháng 11 năm 2020
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục đích nghiên cứu
Phạm vi nguyên cứu
Phương pháp nguyên cứu
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1 Dân số
1.2 Đói nghèo
1.3 Tăng trưởng kinh tế
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ NGHÈO ĐÓI
2.1 Thực trạng tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
2.2 Thực trạng nghèo đói tại Việt Nam
2.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và dân số
2.4 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, nghèo đói và bất bình đẳng trong thu
nhập
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐÓI
NGHÈO TẠI VIỆT NAM
3.1 Kiến nghị giải quyết đói nghèo tại Việt Nam
3.2 Giải pháp nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo ở Việt Nam
3.2.1 Vấn đề đói nghèo
3.2.2 Vấn đề tăng trưởng kinh tế
Lời kết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI MỞ ĐẦU
Quỹ Tiền tệ quốc tế trong báo cáo thường niên năm 2003 đã nêu: "Quản lý
kinh tế vĩ mơ thơng minh đã tạo ra một mơi trường tích cực cho việc tăng trưởng,
đồng thời việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu là một yếu tố then chốt cho quá trình xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam". Thật vậy, quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong
những năm qua đã gắn liền sự phát triển xã hội, thể hiện rõ ở các chương trình
mục tiêu của quốc gia, như Chiến lược dân số Việt Nam 2001 - 2010, Chiến lược
gia đình Việt Nam, Chiến lược tồn diện về tăng trưởng và giảm nghèo, Chương
trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005, Công
cuộc đổi mới của Việt Nam trong 20 năm qua đã khẳng định đường lối đúng đắn
của Ðảng, đem lại những thành tựu lớn trong tăng trưởng kinh tế, ổn định chính
trị, an ninh xã hội. Tuy nhiên, để có thể tiếp tục phát huy những thành tựu đó,
Việt Nam cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ trong các lĩnh vực kinh tế và xã
hội. Trong đó, vấn đề dân số là một nhân tố quan trọng và là cơ bản đối với vấn
đề xóa đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, mà nhóm quyết định
chọn đề tài: “Mối quan hệ dân số và vấn đề nghèo đói.Thực trạng mối quan hệ
này ở nước ta thời gian qua”.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong cải cách
và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
cũng còn có các mặt hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội không
đồng đều giữa các vùng, các nhóm dân cư. Vì vậy một bộ phận dân cư do các
nguyên nhân khác nhau chưa bắt nhịp với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong
đời sống sản xuất và trở thành “người nghèo”
Mục đích nghiên cứu
●
Biết được tình hình cũng như thực trạng tăng trưởng kinh tế và nghèo
đói ở Việt Nam
●
Hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa nghèo đói và tăng trưởng kinh tế
●
Những kiến nghị và giải pháp của Nhà nước để xử lý tác động về mặt
kinh tế, xã hội
Phạm vi nguyên cứu
●
Về không gian: trên phạm vi Việt Nam
●
Về thời gian: Tăng trưởng kinh tế với nghèo đói ở Việt Nam trong
khoảng năm 2010-2020
Phương pháp nguyên cứu
●
Phương pháp thống kê
●
Thu thập số liệu thứ cấp từ các nguồn, phân tích xử lý số liệu
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1.
Dân số
Dân số là tập hợp của những con người đang sống ở một vùng địa lý hoặc một
không gian nhất định, là nguồn lao động quý báu cho sự phát triển kinh tế – xã hội,
thường được đo bằng cuộc điều tra dân số và biểu hiện bằng tháp dân số.
Trong các nền kinh tế cổ truyền, dân số ổn định mặc dù tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử
cũng cao và không có các luồng di cư lớn. Khi các nước bước vào giai đoạn phát
triển mạnh, mức sống tăng nhanh, điều kiện sinh hoạt, y tế tốt hơn, dẫn tới tỷ suất
chết giảm và dân số tăng nhanh. Hiện tượng này được gọi là bùng nổ dân số.
Sự bùng nổ dân số có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng và mức sống. Tuy nhiên,
chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn có thể làm giảm, thậm chí loại trừ tác động
tiêu cực này. Khi chiến lược phát triển phù hợp giúp cho đất nước hoàn thành q
trình cơng nghiệp hóa, cả tỷ suất sinh và tỷ suất chết đều giảm, do đó dân số ổn định
trở lại. Thực tế ở các nước tiên tiến như Mỹ, Đức, Nhật đã minh chứng cho nhận
định này
1.2
Đói nghèo
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần
những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu
và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là các
hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn cộng
đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà ở dốt
nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương đương
45.000VND).
Như vậy, nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân không được hưởng và thỏa
mãn những nhu cầu con người
1.3
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình qn trên
đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế có thể được tính bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng)
hoặc bằng số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng)
⇒ Mối quan hệ giữa dân số va ̀ tăng trưởng kinh tế:
Tỷ lệ gia tăng GNP bình quân đầu người = Tỷ lệ gia tăng GNP - Tỷ lệ gia tăng
dân số
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ NGHÈO ĐÓI
2.1
Thực trạng tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Việt Nam trong đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát
triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất
trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Đại bộ phận người nghèo
cịn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng trưởng
GDP ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng
trưởng kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại những tác động dài hạn đối với các
hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45% hộ gia đình được khảo sát giảm trong tháng 1
năm 2021 so với tháng 1 năm 2020.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân
số Việt Nam đã lên đến 96,5 triệu vào năm 2019 (từ khoảng 60 triệu năm 1986) và
dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050.
Y tế cũng đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Từ năm
1993 đến 2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên
1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong thời gian từ năm
1990 đến 2016. Tuy nhiên tỉ lệ chênh lệch giới tính khi sinh vẫn ở mức cao và ngày
một tăng (115 trong năm 2018) cho thấy tình trạng phân biệt giới tính vẫn cịn tồn
tại.
Đơ thị hóa, tăng trưởng kinh tế và dân số tăng nhanh đang đặt ra những thách
thức ngày càng lớn về quản lý chất thải và xử lý ô nhiễm. Lượng rác thải của Việt
Nam dự báo tăng gấp đơi trong vịng chưa đầy 15 năm tới. Bên cạnh đó là vấn đề
rác thải nhựa đại dương. Việt Nam cũng là một trong mười quốc gia trên thế giới bị
ảnh hưởng nặng nề nhất bởi ô nhiễm không khí.
2.2
Thực trạng nghèo đói tại Việt Nam
Tổng cộng cả nước có 2.149.110 hộ nghèo (9,60%) và 1.469.727 hộ cận
nghèo (6,57%) trong tổng số hơn 22,37 triệu hộ. Các tỉnh có số hộ nghèo cao nhất là
Thanh Hóa 151.010 hộ, Nghệ An 116.851 hộ, Sơn La 70.724 hộ, Quảng Nam
70.099 hộ, Sóc Trăng 62.682 hộ, Gia Lai 60.048 hộ, thấp nhất là Bình Dương 4 hộ,
thành phố Hồ Chí Minh 6 hộ, Đà Nẵng 2.239 hộ.
Thu nhập bình quân (TNBQ) 1 người 1 tháng chung cả nước năm 2020 theo
giá hiện hành đạt khoảng 4,2 triệu đồng, giảm khoảng 1% so với năm 2019. Năm
2020 chi tiêu bình quân hộ gia đình cả nước là 2,89 triệu đồng/người/tháng, tăng
13% so với 2018. Năm 2020 là một năm người dân bị ảnh hưởng nặng nề do dịch
bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19, có thể thấy rằng chi tiêu năm này tăng
chậm hơn so với thời kỳ trước (chi tiêu bình quân năm 2018 tăng 18% so với 2016).
Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều chung cả nước năm 2020 là 4,8%, giảm 0,9
điểm phần trăm so với năm 2019. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều ở nông thôn là
7,1%, cao hơn nhiều ở khu vực thành thị là 1,1%. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều
có sự khác biệt giữa các vùng. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ hộ
nghèo tiếp cận đa chiều cao nhất (14,4%), tiếp đến là các vùng Tây Nguyên, Bắc
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (11% và 6,5%). Vùng có tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận
đa chiều thấp nhất là Đơng Nam Bộ (0,3%).
Kết luận: Năm 2020 tình hình kinh tế – xã hội nước ta diễn ra trong bối cảnh dịch
bệnh Covid-19 gặp khơng ít khó khăn, thách thức do vừa phải chống dịch vừa phải
đảm bảo phát triển kinh tế xã hội. Mặc dù thu nhập của dân cư có giảm so với năm
2019 nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn giảm do Chính phủ thực hiện tốt các chính sách an
sinh xã hội. Tuy nhiên, mức sống vẫn có sự cách biệt giữa thành thị và nơng thơn,
giữa nhóm dân cư giàu và nghèo, giữa các vùng.
2.3
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và dân số
Trên thế giới có thể thấy là: ở các nước chậm phát triển, trong khi mức bình
quân tổng sản phẩm quốc dân GNP đầu người rất thấp thì tỷ lệ gia tăng dân số lại
cao; ngược lại, ở các nước phát triển có mức GNP đầu người rất cao thì lại có tỷ lệ
gia tăng dân số rất thấp.
Nguyên nhân của tình trạng này là do: Dân số tăng nhanh sẽ hạn chế việc tích
luỹ tư bản, hạn chế tăng năng suất lao động do phải đầu tư cho nhu cầu sống và sinh
hoạt tăng lên nhanh hơn số sản phẩm làm ra được. Khi lực lượng lao động tăng
thêm thì máy móc thiết bị cũng phải được đầu tư, chia sẻ cho lực lượng lao động
mới. Vì vậy, năng suất lao động chung không thể tăng lên được. Sự gia tăng nhanh
dân số làm giảm tỷ lệ tiết kiệm do tỷ lệ trẻ em ăn theo cao. Tỷ lệ tiết kiệm trong
GNP giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng sản phẩm.
Trình độ phát triển kinh tế ảnh hưởng đến tốc độ gia tăng dân số. Ở các nước
phát triển, tỷ lệ gia tăng dân số thấp hơn nhiều so với các nước chậm phát triển. Đó
là kết quả đồng thời của việc hạ thấp mức sinh và mức chết. Bởi vì, khi nền kinh tế
phát triển, sẽ tạo điều kiện vật chất để đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế. Do đó sẽ
nâng cao nhận thức của người dân cũng như hiểu biết về “kỹ thuật” hạn chế sinh đẻ,
nhờ vậy mà mức sinh được giảm đi. Nền kinh tế phát triển, việc áp dụng khoa học kỹ
thuật hiện đại vào sản xuất, buộc người lao động phải có trình độ. Khi đó, cha mẹ sẽ
phải chú ý đến việc nâng cao trình độ, chất lượng của con cái hơn là mặt số lượng.
Đồng thời, khi nền kinh tế phát triển thì chế độ bảo hiểm và phúc lợi xã hội sẽ tốt
hơn, nên cha mẹ không phải lo dựa nhiều vào các con lúc tuổi già, do vậy các cặp vợ
chồng cũng không muốn sinh nhiều con. Trong khi đó, ở các nước chậm phát triển
thì một trong số những nguyên nhân dẫn đến mức sinh cao là do chưa có một chế độ
bảo hiểm xã hội tin cậy cho người già.
Qua phân tích trên cho thấy, để giảm mức sinh thì cần phải có điều kiện vật
chất kỹ thuật, phải phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, y tế và đẩy mạnh chương
trình kế hoạch hóa gia đình, song để có thể phát triển kinh tế thì lại cần hạn chế tốc
độ tăng dân số. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số luôn phải biến đổi
cùng nhịp và phải biết phát triển cân đối hài hòa với nhau
2.4
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, nghèo đói và bất bình đẳng trong
thu nhập
Bất bình đẳng thu nhập có tính hai mặt, vừa liên quan chặt chẽ tới tăng
trưởng kinh tế, vừa phản ánh thực trạng phát triển của xã hội; vừa thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; vừa kìm hãm, gây cản trở đối với tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh
tế học đề cập nhiều chiều hướng tác động ngược lại của bất bình đẳng thu nhập đến
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cần lưu ý tùy từng giai đoạn phát triển khác nhau
của nền kinh tế để đưa ra các nhận định và giải pháp chính xác, hiệu quả khi giải
quyết tác động ngược lại này. Như vậy khi xem xét tác động ngược lại của BBĐTN
đến TTKT cần xem xét ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, bất bình đẳng thu nhập thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khi người lao
động có năng lực trình độ, vốn...đầu tư phát triển sản xuất, tạo tiền đề thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Thứ hai, bất bình đẳng thu nhập kìm hãm tăng trưởng kinh tế: khi có sự chênh
lệch về sở hữu tài sản (đất đai, vốn...), khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội (y tế,
giáo dục,...), dẫn đến chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư, từ đó tạo gánh nặng
cho xã hội. Thực hiện các chính sách phân phối lại thu nhập kìm hãm động lực phấn
đấu lao động của cá nhân từ đó làm giảm quá trình tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, nghèo đói phụ thuộc vào xu hướng
bất bình đẳng: càng bất bình đẳng, tăng trưởng càng ít tác động lên giảm nghèo.
Tác động tiêu cực của tình trạng nghèo đến tăng trưởng kinh tế. Người nghèo
ít có điều kiện chăm sóc sức khỏe và tiếp cận hệ thống giáo dục tiên tiến nên ít cơ
hội việc làm ổn định, đóng góp tích cực sự phát triển chung. Tỷ lệ nghèo cao trong
điều kiện các chính sách an sinh xã hội cịn nhiều bất cập như hiện nay sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng cả trong ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, tác động
của các yếu tố này không lớn.
Giảm nghèo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng có thể cản trở tăng
trưởng kinh tế:
(1) Giảm nghèo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các chính sách cho người nghèo
vay vốn với lãi suất ưu đãi, đào tạo nghề cho người nghèo,... làm tăng năng lực sản
xuất, cơ hội việc làm cho người nghèo. Giảm nghèo còn giúp ổn định xã hội, tạo
điều kiện cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
(2) Nếu thực hiện giảm nghèo không đúng cách có thể cản trở tăng trưởng
kinh tế. Chính phủ quá chú trọng vào biện pháp hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo mà
không đi cùng với nâng cao năng lực sản xuất cho người nghèo, vùng nghèo; lịng
tự trọng, tự lực, ý chí thốt nghèo... thì có thể làm tăng sự ỷ lại của người nghèo vào
Chính phủ, làm mất động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần, song không phải là điều kiện đủ để
giảm nghèo. Ngược lại, giảm nghèo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng có thể
cản trở tăng trưởng kinh tế. Trong thời gian qua, các thành tựu tăng trưởng kinh tế đã
góp phần giảm nghèo, tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn cịn nhiều hạn chế địi hỏi Chính
phủ Việt Nam phải có những biện pháp cụ thể, thích hợp để bảo đảm vừa thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa giảm nghèo bền vững.
❖
Đường Lorenz: Conrad Lorenz là nhà thống kê người Mỹ đã xây
dựng biểu đồ biểu thị mối quan hệ giữa các nhóm dân số và tỷ lệ thu nhập tương
ứng của họ
Đường Lorenz phản ánh tỷ lệ phần
trăm của tổng thu nhập quốc dân
cộng dồn được phân phối tương
ứng với tỷ lệ phần trăm cộng dồn
của các nhóm dân số đã biết
Đường Lorenz thường nằm ở khoảng giữa
đường chéo và đường bất bình đẳng tuyệt đối.
Đường Lorenz càng nằm gần đường chéo thì
mức độ bất cơng bằng càng thấp và càng xa
đường chéo thì mức độ bất cơng bằng càng cao.
Hạn chế của đường Lorenz là không
lượng hóa được mức độ bất bình đẳng
Để khắc phục hạn chế của đường Lorenz người ta dùng hệ số GINI
❖
Hệ số GINI: là hệ số dựa trên đường cong Lorenz (Lorenz) chỉ ra
mức bất bình đẳng của phân phối thu nhập giữa cá nhân và hệ kinh tế trong một nền
kinh tế.
Để thể hiện hệ số GINI bằng đồ thị người ta dùng mơ hình chữ U ngược. Khi
thu nhập tăng lên tỷ lệ bất bình đẳng cũng tăng theo nhưng đến mức nào đó có sự
phân phối lại thu nhập thì bất bình đẳng sẽ giảm xuống
Năm 2020 tình hình kinh tế – xã hội cả nước gặp khơng ít khó khăn, thách
thức do vừa phải chống dịch bệnh Covid-19 vừa phải đảm bảo phát triển kinh tế xã
hội. Mặc dù thu nhập của dân cư có giảm so với năm 2019 nhưng tỷ lệ hộ nghèo
vẫn giảm do Chính phủ thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên, mức
sống vẫn có sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm dân cư giàu và
nghèo, giữa các vùng.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê thì Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng
chung cả nước năm 2020 đạt khoảng 4,2 triệu đồng, giảm khoảng 1% so với năm
2019. Bình quân mỗi năm trong thời kỳ 2016 - 2020, thu nhập bình quân đầu người
1 tháng chung cả nước tăng 8,2%. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2020 ở
khu vực thành thị đạt 5,6 triệu đồng, cao gấp gần 1,6 lần khu vực nông thôn (3,5
triệu đồng). Chênh lệch thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2020 giữa nhóm
thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất là 8,07 lần. Hệ số bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập (hệ số GINI) năm 2020 là 0,375 (giảm so với năm 2019 ở mức
0,423) nhưng vẫn ở mức bất bình đẳng trung bình. Mức độ bất bình đẳng ở nơng
thơn cao hơn thành thị.
Vùng Đơng Nam bộ là vùng có mức thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm
2020 cao nhất đạt khoảng 6 triệu đồng, giảm khoảng 4% so với năm 2019. Chênh
lệch thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2020 giữa nhóm thu nhập cao nhất và
nhóm thu nhập thấp nhất là 4,4 lần; thấp nhất so với các vùng trong cả nước.
Năm 2020 chi tiêu bình quân hộ gia đình cả nước là 2,89 triệu
đồng/người/tháng, tăng 13% so với 2018. Các hộ gia đình thành thị có mức chi tiêu
bình quân đầu người/tháng xấp xỉ 3,8 triệu đồng trong khi các hộ nông thôn chỉ ở
mức 2,4 triệu đồng, chênh lệch giữa hai khu vực là 1,6 lần. Chi đời sống chiếm tỷ lệ
cao trong tổng chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình; năm 2020 là 2,7 triệu
đồng (chiếm tới 93% trong tổng chi tiêu hộ gia đình), trong đó chi cho ăn uống bình
quân đầu người một tháng xấp xỉ 1,35 triệu đồng. Sự bất bình đẳng trong chi tiêu
bình quân đầu người một tháng giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất lên tới 3,5
lần năm 2020.
Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều chung cả nước năm 2020 là 4,8%, giảm 0,9
điểm phần trăm so với năm 2019. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều ở nông thôn là
7,1%, cao hơn nhiều ở khu vực thành thị là 1,1%. Vùng Trung du và miền núi phía
Bắc có tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều cao nhất (14,4%), tiếp đến là các vùng Tây
Nguyên, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (11% và 6,5%), Vùng Đông Nam
Bộ có tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều thấp nhất là (0,3%).
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐÓI
NGHÈO TẠI VIỆT NAM
3.1
Kiến nghị giải quyết đói nghèo tại Việt Nam
Cần đổi mới trong quan điểm xây dựng chính sách giảm nghèo theo hướng
đầu tư cho con người.
Thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo khơng thể chỉ dựa vào chính sách
đầu tư cơ sở hạ tầng mà điều quan trọng hơn, điều cốt lõi hơn chính là phải thiết kế
được những chính sách mềm, phải dựa trên nhu cầu của người dân và phải tập trung
thay đổi chủ thể là người dân.
Phải đầu tư cho sức khỏe, đầu tư cho giáo dục đầu tư cho các vấn đề đào tạo
nghề và sinh kế cho người dân. Cụ thể, trong những giai đoạn tới cần tập trung
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, cần phải đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề,
quan tâm phát triển các hoạt động sinh kế tại chỗ nhằm phát huy lợi thế của địa
phương vùng nghèo.
Xác định các tiêu chí hộ nghèo trong giai đoạn mới phải thực chất hơn. Các
tiêu chí về thu nhập, các tiêu chí đánh giá đo lường đa chiều cần rõ ràng, thiên về
định lượng. Việc xây dựng thiết chế, chính sách cần quan tâm đồng đều đến các đối
tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo và cả hộ mới thoát nghèo bởi vì khoảng cách giữa
các nhóm đối tượng này là không lớn, chỉ cần một tác động nhỏ từ xã hội cũng có
thể làm cho họ bị tái nghèo.
3.2
Giải pháp nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo ở Việt Nam
3.2.1 Vấn đề đói nghèo
Đầu tư cải cách giáo dục, đào tạo nghề
Tri thức đóng vai trị then chốt trong cơng cuộc đổi mới, phát triển kinh tế – xã
hội một cách tồn diện. Khơng một nước nào có nền kinh tế vững mạnh mà dân trí
thấp, nhất là sống trong nền kinh tế tri thức như hiện nay. Bởi thế, đầu tư mạnh cho
giáo dục, đào tạo nghề là mục tiêu then chốt để xóa đói giảm nghèo.
Đầu tư mạnh tay để phát triển giáo dục, dạy nghề giúp nâng cao tri thức của
người dân, đặc biệt là dân nghèo là giải pháp xóa đói giảm nghèo từ gốc rễ. Điều này
được xem là chìa khóa để người dân tự mở khóa, khai thác thế mạnh của bản thân.
Khi có được nền tảng tri thức, họ sẽ ứng dụng tốt để “cày xới” tốt trên mảnh đất
của họ. Cải cách, nâng cao chất lượng giáo dục chính là đem lại sự công bằng cho
mọi người dân với cơ hội được phát triển năng lực lao động.
Đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng nông thôn
Để giúp vùng quê nghèo, vùng núi, biển đảo xa xôi thay đổi diện mạo thì việc
đầu tư cho cơ sở hạ tầng là trọng tâm. Nhất là hệ thống giao thông được xem là
bước đột phá để tiến tới xây dựng nông thôn mới vững mạnh.
Giao thơng được ví như mạch máu của nền kinh tế. Không có giao thông, kinh
tế không thể thông thương. Hạ tầng giao thông nghèo nàn ở đâu, “máu” kinh tế chậm
chảy ở đó. Những người dân nghèo gặp khơng ít khó khăn trong chăn ni, trồng trọt
và lệ thuộc lớn vào thiên nhiên. Họ càng khó khăn hơn khi khơng tìm được đầu ra
cho sản phẩm vì giao thông không cho phép tiếp cận thị trường lớn.
Do đó, đầu tư giao thông, hạ tầng vật chất là giải pháp “thay máu” cho nền kinh
tế nghèo, nhỏ lẻ, manh mún. Chưa dừng lại ở đó, các chương trình phát triển hạ
tầng mạng lưới điện, xây dựng trường học, trạm y tế… cũng được quan tâm và ưu
tiên hàng đầu.
Chính sách vay vốn, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nền kinh tế
Chỉ khi áp dụng những tiến bộ khoa học vào trong sản xuất, cơ cấu kinh tế mới
được chuyển đối theo hướng tích cực. Đồng thời, năng suất lao động được tăng cao,
khai thác nguồn lực hiệu quả hơn. Đây cũng là hướng đi làm thay đổi diện mạo kinh
tế, xóa đói giảm nghèo bền vững.
Thế nhưng, một vấn đề nan giải đặt ra là các công nghệ tiên tiến đều có giá trị
lớn mà người dân khó lòng sở hữu được. Trong trường hợp này, những chính sách
vay vốn mà nhà nước phát động sẽ cứu cánh người dân, đưa họ đến gần với công
nghệ hiện đại. Với một lãi suất ưu đãi, họ sẽ có vốn để làm ăn, mở rộng sản xuất và
giải quyết bài toán đói nghèo.
Các gói hỗ trợ phát triển này đa phần phát huy hiệu quả khi đến tay những nông
dân biết phấn đấu, có mục tiêu phát triển bền vững. Hiện tại có rất nhiều ngân hàng
đang áp dụng chính sách ưu đãi tín dụng góp phần xóa đói giảm nghèo như
Agribank,
Xóa đói giảm nghèo bằng cách xuất khẩu lao động
Với việc đầu tư một khoản tiền để đi xuất khẩu lao động sang các nước khác
đang được nhiều gia đình quan tâm. Con em hộ nghèo thường chọn cách đi xuất
khẩu lao động tới các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản,... đây được xem là các miền
đất hứa giúp họ tạo ra nguồn thu nhập có thể nhanh chóng giải quyết tình trạng đói
nghèo cho gia đình cũng như cho đất nước.
3.2.2
Vấn đề tăng trưởng kinh tế
Để thúc đẩy giảm nghèo, ngồi điều cần là tăng trưởng kinh tế, phải có
điều kiện đủ là vai trò của Nhà nước, được thể hiện trong các khía cạnh sau:
Thứ nhất, lựa chọn mơ hình tăng trưởng kinh tế. Nếu Chính phủ lựa chọn mơ
hình tăng trưởng kinh tế nhanh, diễn ra ở những ngành, lĩnh vực địi hỏi trình độ
cơng nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, sẽ không thu hút được người nghèo
tham gia, do đó họ không được hưởng lợi trực tiếp từ kết quả của tăng trưởng. Hoặc
Chính phủ đẩy nhanh CNH, HĐH, đơ thị hóa, dẫn đến tình trạng thu hồi đất sản
xuất của nông dân, trong khi không bảo đảm chuyển đổi nghề cho họ, đẩy họ vào
tình trạng thất nghiệp, làm gia tăng nghèo đói.
Thứ hai, phân phối kết quả của tăng trưởng (GDP). Nếu Chính phủ tập trung
quá nhiều nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thì sẽ giảm nguồn lực cho
mục tiêu giảm nghèo và có thể làm tăng tình trạng nghèo; hoặc nếu Chính phủ chỉ
tập trung nguồn lực đầu tư vào các vùng trọng điểm, những ngành mũi nhọn để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, mà không quan tâm đầy đủ đến vùng khó khăn, vùng
nghèo, thì sẽ dẫn đến sự phát triển mất cân đối, vùng giàu càng giàu, vùng nghèo
càng nghèo, tình trạng phân hóa giàu nghèo sẽ nặng nề thêm.
Thứ ba, giảm nghèo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các chính sách cho người
nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi, đào tạo nghề cho người nghèo, phát triển kết cấu
hạ tầng cho vùng nghèo, tạo cơ hội cho người nghèo tham gia vào các hoạt động
kinh tế... góp phần làm tăng năng lực sản xuất (tăng vốn đầu tư, tăng trình độ nhân
lực, tăng kết cấu hạ tầng cho phát triển sản xuất...), tăng cơ hội việc làm cho người
nghèo, vùng nghèo, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giảm nghèo còn giúp ổn
định xã hội, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Lời kết
Như vậy, dân số và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau, ảnh hưởng đến nhau trong nhiều vấn đề, dù là tích cực hay tiêu cực thì mối
quan hệ đó vẫn không thể tách rời.
Ở nước ta hiện nay, tình hình gia tăng dân số, đang ảnh hưởng vơ cùng
nghiêm trọng đến tình hình phát triển kinh tế. Việc tìm kiếm giải pháp cho vấn đề đói
nghèo là bài toán tổng hợp của rất nhiều giải pháp từ các ngành, lĩnh vực, các cấp
chính quyền. Để cơng tác này thực sự hiệu quả và mang lại lợi ích thiết thực cho
người nghèo, các xã nghèo, các vùng đặc biệt khó khăn thì cần sự hợp tác và nỗ lực
của toàn Đảng, toàn dân và của từng người dân. Đó là giải pháp mang tính định
hướng cho thành cơng của Chiến lược tồn diện về Tăng trưởng và xố đói giảm
nghèo,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] TS. Nguyễn Quốc Anh, ‘Mối quan hệ giữa dân số và nghèo đói’ Báo Nhân
Dân (26/5/2005) < > truy cập ngày 29/10/2021
[2] Thái Sơn, ‘Tác động tương hỗ của các yếu tố dân số và phát triển’ Báo Cộng
sản (03/01/2013) < > truy cập ngày 04/11/2021
[3] Vũ Ngọc Lam, ‘Đói nghèo ở Việt Nam’ Scribd (28/03/22011) <
> truy cập ngày 29/10/2020
[4] Thơng cáo báo chí về kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2020’ Tổng cục
thống kê < > truy cập ngày 29/10/2021
[5] Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh, ‘Thực trạng và nguyên nhân đói nghèo tại Việt
Nam’ (29/05/2011) < > truy cập ngày 28/10/2021
[6] UNDP,’Giới và đói nghèo’ Liên hợp quốc Việt Nam (08/05/2015) <
> truy cập ngày
28/10/2021
[7]
ThS Nguyễn Tiến Phước, ‘Một số tác động của dân số đến vấn đề xã
hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay’ (15/07/2020) <
> truy cập ngày 3/11/2021
[8] ‘Chương trình hành động Quốc gia 'Khơng cịn nạn đói' ở Việt Nam’ Phụ nữ
Việt Nam (14/06/2018) < > truy cập ngày
04/11/2021
[9] PGS, TS Nguyễn Thị Thơm - Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh (18/06/2020) “Giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững” <
> truy cập 6/11/2021
[10]
Lê Hồ Phong Linh và Nguyễn Ngọc Anh Trúc, ‘tác động của bất bình
đẳng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam’ Tạp chí khoa học Đại học Mở
Tp.HCM (18/4/2016) truy cập ngày 5/11/2020
[11]
‘Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập: Lý
thuyết và thực tiễn ở Việt Nam’, VUSTA ( 8/9/2010) < shorturl.at/dln35 >
truy cập ngày 5/11/2020
[12]
Lê Quốc Hội, ‘Tác động của tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu
nhập đến xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số
145, tháng 8-200, (2009) truy cập 5/11/2020