Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI KHMER Ở NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.32 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN NGHIÊN CỨU KẾT THÚC MÔN
HỌC

ĐỀ TÀI :

TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƯỜI KHMER Ở NAM
BỘ

NĂM 2020


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đối với mỗi tộc người, bên cạnh ngơn ngữ thì trang phục là một cách thức biểu
hiện sắc thái tộc người. Trong 54 dân tộc Việt Nam, mỗi tộc người đều có trang
phục riêng, nhìn vào trang phục ta có thể phân biệt được tộc người. Trang phục là
bản sắc văn hóa tộc người, mất đi bản sắc thì tộc người sẽ bị đồng hóa, hịa tan.
Theo thời gian, trang phục thường ngày dễ bị thay đổi, không như trang phục
truyền thống ít bị thay đổi, vì thế, tìm hiểu trang phục truyền thống tộc người là
phương pháp nghiên cứu hiệu quả để tìm hiểu bản sắc tộc người.
Trang phục truyền thống có vai trị và tầm quan trọng đặc biệt nhưng với sự
phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, những sản phẩm kinh tế thị
trường may mặc sẵn, vải vóc các loại, đang hàng ngày hàng giờ len lỏi vào từng
ngõ nghách xã hội và có nguy cơ cuốn trơi những giá trị văn hóa của từng tộc
người. Vì vậy, tìm hiểu trang phục truyền thống của người Khmer ở Nam Bộ
không chỉ giúp chúng ta thấy được những đặc sắc văn hóa trong q trình giao lưu
và tiếp biến văn hóa giữa các tộc người sống cận cư với nhau, mà cịn tạo cơ sở
cho chúng ta có hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về sắc thái văn hóa mang tính địa


phương, đồng thời việc tìm hiểu và gìn giữ, giới thiệu trang phục Khmer là việc
làm cần thiết để gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Khmer nói riêng và
dân tộc Việt Nam nói chung.
Qua q trình tìm hiểu sơ bộ, cá nhân tôi cảm nhận trang phục truyền thống
Khmer Nam Bộ vô cùng đặc sắc. Với màu sắc rực rỡ nổi bật, chất liệu đặc biệt, và
được lưu giữ khá phổ biến qua các lễ hội, nghi lễ, ngày trọng đại, thậm chí là đời
sống hàng ngày... giúp mọi người tiếp cận dễ hơn, khiến trang phục Khmer khơng
cịn xa lạ với người Việt Nam và bạn bè quốc tế.
Chính vì những lí do trên, tơi chọn đề tài: “Trang phục truyền thống của người
Khmer ở Nam Bộ” làm đề tài tiểu luận nghiên cứu của mình. Tơi hi vọng qua đề
tài này có thể giúp mọi người có thêm kiến thức về trang phục truyền thống người
Khmer Nam Bộ, hiểu hơn về đời sống vật chất, đời sống xã hội và đời sống tinh
thần của tộc người này; góp phần giữ gìn những bản sắc văn hóa dân tộc người,
thống nhất trong đa dạng văn hóa trước nhiều biến đổi của cuộc sống trong thời đại
ngày nay.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tôi nghiên cứu trang phục của người Khmer ở Nam Bộ với mục đích hệ thống
các nguồn tư liệu và cơng trình nghiên cứu của người Khmer, trên cơ sở đó chỉ ra
2


những đặc trưng văn hóa tiêu biểu qua trang phục truyền thống của dân tộc này.
Xuất phát từ thực tiễn cần giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của tộc người, tôi
đặt trang phục trong các mối quan hệ liên quan với các thành tố văn hóa khác, từ
đó xâu chuỗi chúng lại với nhau để tìm ra giá trị văn hóa – xã hội của trang phục,
từ đó đưa ra các định hướng bảo tồn trang phục truyền thống người Khmer Nam
Bộ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận này lấy trang phục truyền thống của người dân Khmer Nam Bộ
làm đối tượng nghiên cứu để tiếp cận và giải mã các thành tố y phục và trang sức

của dân tộc này. Tôi tập trung nghiên cứu các giá trị văn hóa trên trang phục để
nhìn nhận sự phát triển của trang phục trong đời sống của cộng đồng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ở bài tiểu luận này tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp hệ thống-cấu trúc: dùng để tiếp cận, phân tích các vấn đề liên
quan đến trang phục truyền thống như một hệ thống, xem xét văn hóa trang phục
thơng qua các hoạt động vật chất và tinh thần.
Phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu : dùng để xử lí các thơng tin nhằm tìm ra
các nét văn hóa tương đồng và khác biệt trên trang phục của người Khmer và các
dân tộc sống cận cư.
Tham khảo nguồn tài liệu từ các luận án Tiến Sĩ, luận văn Thạc Sĩ và các sách,
giáo trình chuyên ngành của trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành
Phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, trường
Đại học Văn hóa Hà Nội,…
Phương pháp liên ngành: tơi tiếp cận đề tài nghiên cứu của mình song song với
các ngành: văn hóa học, dân tộc học, lịch sử, địa lý, nhân học,… để tìm hiểu về
văn hóa, lịch sử cũng như trang phục của người Khmer.
Phương pháp điền dã: quan sát, tham dự, phỏng vấn lễ hội và người Khmer ở
quận 3 Thành Phố Hồ Chí Minh. Phương pháp này giúp tơi có cái nhìn sát với thực
tiễn và giúp tiếp cận thơng tin mang tính xác thực và khoa học hơn.
Ngồi ra, tơi cịn nghiên cứu thêm hiện vật và tư liệu hình ảnh liên quan đến
trang phục đang lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng dân tộc học.
5. Bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục,đề tài được chia thành
3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn

3



Trong chương này,tơi giới thiệu cơ sở lí luận là các khái niệm liên quan và khái
quát về tộc người Khmer ở Nam Bộ bao gồm: đặc điểm, văn hóa, vị trí địa lí, lịch
sử và một số thành tựu văn hóa tiêu biểu.
Chương 2: Trang phục truyền thống của người Khmer trong đời sống – xã hội
Trong chương này, tơi trình bày về quy trình tạo ra trang phục, các loại trang
phục của đàn ông và phụ nữ sử dụng trong các hoạt động đời sống như: hàng ngày,
lễ cưới, lễ hội, tang ma; trang phục của tầng lớp sư sãi; một số hoa văn trang trí
trên trang phục. Ngồi ra, có một vài so sánh giữa trang phục của người Khmer và
các tộc người nhóm ngơn ngữ Mơn-Khmer.
Chương 3: Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trên trang phục truyền thống
của người Khmer Nam Bộ
Nội dung chương 3 nêu lên những giá trị văn hóa-lịch sử trong trang phục
truyền thống, những xu hướng biến đổi trong quá trình phát triển xã hội và sự học
hỏi kinh nghiệm phát triền làng nghề dệt thổ cẩm ở xã Văn Giáo, Tịnh Biên, An
Giang. Từ đó, đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống trên trang phục Khmer trong quá trình phát triển và hội nhập.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Theo Werner Eninger, trang phục là tồn bộ những thứ được mặc trên cơ thể
con người. Nó là một hệ thống tín hiệu phản ánh văn hóa của tộc người, giai cấp
nhất định. Trang phục cần được hiểu dưới góc độ văn hóa trang phục. Ba dạng
thức gắn bó với nhau bao gồm nhà cửa, trang phục và ẩm thực là các điều kiện nhu
cầu cần thiết trước tiên của đời sống con người, vì con người cần phải ăn, mặc, ở
trước khi có các hoạt động chính trị, nghệ thuật, khoa học,…
Trang phục là từ ghép dùng để chỉ việc “ăn mặc” của con người, bao gồm hai
yếu tố: y phục và trang sức.
Y phục là 1 từ Hán-Việt có ý nghĩa quần áo hay đồ để mặc vào người. Theo cách
phân loại của các học giả Dân tộc học, Xô viết trước đây, y phục thuộc lĩnh vực

“văn hóa vật chất” ( theo cách phân loại truyền thống: vật chất, tinh thần, xã hội )
hay thuộc loại “văn hóa đảm bảo đời sống”. Y phục dù thể hiện trong loại hình nào
thì vẫn là một hiện tượng văn hóa bao gồm tính vật thể và tính phi vật thể. Chất
liệu y phục là vải sợi bông hoặc tơ tằm. Trang phục có các chức năng xã hội khác
nhau được sử dụng trong bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau nên mang các giá trị
văn hóa phi vật thể, bởi vậy y phục không những thuộc phạm trù văn hóa vật chất
mà cịn có giá trị văn hóa tinh thần. Y phục của người Khmer trong đề tài này bao
gồm các vật dụng với tên gọi: áo, quần, thắt lưng.
4


Đồ trang sức là những vật dụng được mang trên cơ thể con người, vừa có tính
thẩm mĩ, vừa có ý nghĩa khác theo quan niệm dân gian của tộc người. Trang sức
được chế tạo đa dạng chất liệu như gỗ, vàng bạc,… và mang tính thẩm mĩ nhiều
cấp bậc nhưng có điểm chung là đều có tính “mĩ nghệ”, phù hợp với từng thời đại,
từng khu vực văn hóa và từng tộc người. Dân tộc học xem đồ trang sức là yếu tố
văn hóa vật chất thường được nghiên cứu cùng với y phục theo đó, đồ trang sức
của người Khmer vừa có tính trang trí vừa mang tín ngưỡng dân gian. Trang sức
của họ gồm: vòng tay, nhẫn, vịng kiềng,…
Như vậy, trang phục chính là cách ăn mặc của con người. Mỗi một thành phần
dân tộc trên đất nước ta có một nếp sống văn hóa đặc thù của người, nên cách ăn
mặc cũng phản ánh những sắc thái phong phú, đa dạng đó. Trang phục truyền
thống của người Khmer Nam Bộ đáp ứng được nhu cầu mặc của con người cả về
giá trị sử dụng và giá trị thẩm mĩ.
2. Cơ sở thực tiễn
Người Khmer cịn có các tên gọi khác như Cur, Cul, Cu, Thổ, Khơ me K`rơm,
Việt góc Miên, Người Khmer ở Nam Bộ có khoảng 1,5 triệu người, phân bố rải
rác ở khắp Nam Bộ nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, An
Giang, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ… Người Khmer cư trú thành
các xóm, làng (phum, sroc) hoặc xen kẽ, hoặc riêng biệt với các ấp xã của người

Việt và người Hoa. Người Khmer cư trú theo từng dải dài trên các giồng (phno),
đó là các lớp phù sa cổ sinh, trên mặt là cát pha đất thịt, dưới sâu có sét và dễ thốt
nước; là các dải duyên hải, dải đất ven sông đã trở thành đất liền trong quá trình
đồng bằng tiến ra biển. Ngồi ra, cịn cư trú quanh các thị trấn, thị xã,… quanh
chân núi Ba Thê hay vùng Bảy Núi, An Giang.
Người Khmer ở Nam Bộ canh tác nơng nghiệp, có nhiều kinh nghiệm trồng lúa
nước, họ đã cải tạo ruộng đất thơng qua thủy lợi. Bên cạnh đó cịn chăn ni: trâu,
bị, lợn, gà; làm các nghề thủ cơng: đan lát, dệt vải, làm gốm…và khai thác nguồn
thủy sản trong các kênh rạch, đồng trũng; buôn bán ở thành thị. Nhà ở của người
dân Khmer đơn giản, không lộng lẫy giống như chùa. Gia đình là tiểu gia đình phụ
quyền, nhưng còn tàn dư của chế độ mẫu hệ, một gia đình ba-bốn thế hệ. Hơn nhân
người Khmer theo chế độ một vợ một chồng, cấm kị nội hôn, song hơn con cơ con
cậu, con dì con già được chấp nhận. Kinh tế tương đối phát triển, phân hóa sâu sắc.
Trong xã hội người Khmer, tầng lớp sư sãi đông đảo, đặc biệt được kính trọng,
chiếm số đơng trong đội ngũ trí thức.
Văn hóa người Khmer đặc sắc, phong phú, đa dạng. Họ tạo ra hệ thống lịch
riêng, chữ viết riêng, hệ thống chùa (dùng thờ Phật, quản lý nhân khẩu, bàn bạc
công việc, nơi tiếp khách, và làm trường học ở nơng thơn),tạo nên nền văn hóa
riêng rõ nét. Tiếng nói tộc Khmer thuộc ngơn ngữ Mơn – Khơ me. Trước thế kỉ
XII, người Khmer và văn hóa của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng đồng bằng sơng
Cửu Long. Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần
5


thoại, truyền thuyết, ngụ ngơn, cổ tích, truyện cười, có một nền sân khấu truyền
thống như Dù kê, Dì kê; một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Độ, vừa có nguồn
gốc Đơng Nam Á.
Trang phục truyền thống là nét văn hóa đặc sắc bên cạnh nghệ thuật và kiến trúc
chùa tháp của người Khmer. Trang phục của người Khmer phản ánh rõ nét đời
sống kinh tế xã hội tộc người, phản ánh phân công lao động theo giới tính, thể hiện

tư tưởng xã hội của họ trong các ngày lễ tết, hội hè, cưới xin, ma chay… Trang
phục Khmer mang sắc thái rõ rệt về thẩm mĩ, tín ngưỡng; phản ánh , ghi dấu trình
độ phát triển cao của thẩm mĩ dân gian.
CHƯƠNG 2: TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG NGƯỜI KHMER
NAM BỘ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
2.1. Quy trình tạo ra trang phục của người Khmer Nam Bộ
Người Khmer vừa trồng bông, kéo sợi, dệt vải; vừa trồng dâu, ươm tơ, dệt lụa.
Trước đây,hầu hết gia đình người Khmer nào cũng có khung dệt và cơ gái Khmer
nào cũng biết dệt. Vào nửa đầu thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở Nam Bộ xuất hiện
nhiều nhà tằm, khu vực Sài Gòn, Tân Châu (An Giang), Nhà Bàng (An Giang),…
Trang phục người Khmer Nam Bộ lấy nguyên liệu chính từ sợi bơng và tơ tằm.
2.1.1. Quy trình tạo ra trang phục từ sợi bơng
Q trình làm ra vải mặc từ sợi bông trải qua các công đoạn: trồng bông,cán
bông, kéo sợi, dệt và nhuộm mang theo nghi lễ, tập tục, trình độ kỹ thuật, mơ típ
dệt hoa văn và kĩ thuật xử lý màu.
Trồng bơng: để có ngun liệu dệt, người Khmer đưa cây bông vào sản xuất,
trồng riêng thành từng nương và trồng xen với lúa. Hai giống bông dài ngày và
ngắn ngày được trồng chủ yếu. Sau q trình chăm sóc, bơng được tiến hành thu
hoạch trong 3 đợt, đợt 1 thu hoạch những hạt bông to, đợt 2 thu hoạch những hạt
bông vừa, đợt 3 thu hoạch những hạt bơng cịn lại. Bơng thu hoạch trong cả 3 đợt
được trộn chung, đem phơi nắng cho khô hoặc phơi trên dàn bếp để chuẩn bị chế
biến bông.
Chế biến bông: là công việc của người phụ nữ Khmer,bao gồm các công đoạn
cán bông, bật bông, kéo sợi, cuốn sợi, dàn sợi. Khi cán bông, người ta dùng đế
quay tay, lô cán, máng đựng hạt bằng gỗ Công đoạn bật bông dùng để bật cho tơi
bông trước khi quấn cúi bơng, sau đó lọc bơng tơi ra, cịn hạt và bơng bị vón cục
tiếp tục được đánh tơi đều mới thôi. Cuốn cúi bông là công đoạn cuốn vặn bơng
thành các con bơng nhỏ, con bơng đó khơng q chặt, cũng không quá lỏng; con
bông sau khi cuốn được xếp trong gùi để sau này xe sợi cho dễ dàng. Kéo sợi là
công đoạn quan trọng, người kéo sợi phải có kĩ thuật thì sợi mới đều và dệt vải

mịn. Bước này đòi hỏi người phụ nữ phải quay xa đều tay nhịp nhàng giữa tay xe
sợi và tay quay xa. Khi cuộn sợi xe xong đã đầy, người ta sử dụng xa cuốn sợi để
tạo thành những con sợi to, chuẩn bị nhuộm sợi.
6


Nhuộm màu: là khâu kĩ thuật quan trọng thường do những phụ nữ cao tuổi đảm
nhận. Màu nhuộm thường bao gồm các màu: đỏ, trắng, vàng, đen,… được lấy từ lá
chàm, củ nghệ, rễ cây bằng giăng, củ rừng (củ găm), dây sắn rừng,… Các màu
nhuộm được tạo từ tự nhiên rất bền, ít phai.
2.1.2. Quy trình tạo ra trang phục từ tơ tằm
Người Khmer giỏi nuôi tằm, dệt vải; sản phẩm truyền thống là vải và lụa được
nhuộm các màu khác nhau.
Người Khmer thường dùng các loại màu thực vật từ quả, vỏ hoặc thân cây,…
để nhuộm vải lụa với các màu đen, đỏ, vàng, xanh,… làm màu nền cơ bản cho vải
mặc truyền thống. Kỹ thuật nhuộm tkat cổ truyền đặc biệt nổi tiếng. Đó là cách
nhuộm tơ, lụa, vải thành màu đen bằng quả mặc lưa. Vải nhuộm có màu đen tuyền,
bóng và lâu phai, được cả người Việt và người Chăm trong vùng ưa chuộng.
Điều làm nên sự khác biệt của trang phục Khmer là hoa văn trang trí trên vải
lụa. Người Khmer ở Nam Bộ thực hiện kĩ thuật nhuộm ikat (là kĩ thuật dệt theo
kiểu trang trí vừa có sợi dọc, vừa có sợi ngang được thắt và nhuộm trước khi dệt)
truyền thống và kĩ thuật nhuộm batik (ảnh hưởng từ người Mã Lai). Trang phục
nhuộm theo kĩ thuật ikat có nhiều màu sắc sặc sỡ và phức tạp, có hoa văn trang trí
hình người, hình thú, hình nhà cửa,… phỏng theo các mẫu hình trong truyền
thuyết, truyện kể.
Trang phục là sản phẩm của nghề dệt, là phương tiện vật chất được con người
sử dụng trong sinh hoạt, lao động sản xuất, chiến đấu và các hoạt động văn hóa xã
hội khác; thể hiện cách ứng xử văn hóa trong mối quan hệ của con người với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội, nằm thỏa mãn các chức năng: sinh học, xã
hội và thẩm mĩ của con người.

2.2. Trang phục truyền thống dân tộc Khmer
2.2.1. Trang phục thường ngày
Trong lao động sản xuất và trong sinh hoạt, nam giới Khmer thường mặc áo,
quần dài, đi chân đất hoặc đi dép cao su. Áo: màu chủ đạo là màu đen và xanh,
được cắt theo kiểu chui đầu, ngắn tay, cổ thấp tròn, xẻ ngực và cài cúc. Quần: được
cắt may bằng vải phin màu, theo kiểu chân què; cạp, đũng, ống quần may rộng
giống như ống quần của người Kinh. Trang phục truyền thống tôi như trên chỉ thấy
ở lớp người già vùng nơng thơn, cịn lớp trẻ hiện nay mặc trang phục hiện đại.
Ở nữ giới:
Váy (xà rông) là một mảnh vải thổ cẩm rộng 100cm-350cm, bao gồm thân váy,
gấu váy, cạp váy. Nền Điểm nổi bật trên trang phục truyền thống của người phụ nữ
Khmer là các hạt cườm hay hạt kim sa kết hợp với hoa văn tinh xảo.

7


Khăn ( khần seng) được làm từ vải sợi bông,dài trung bình 180cm, rộng 7080cm. Khăn có nhiều kiểu khác nhau nhưng phổ biến hai loại: loại khơng có hoa
văn thường có màu trắng (eo) và loại có hoa văn ( các đường kẻ dọc và ngang với
màu sắc khá đa dạng). Đầu khăn (đê day) dệt kẻ ô vuông. Khăn của người Khmer
thường được vắt xuôi hoặc vắt chéo vai.
Áo (ao) bao gồm áo ngắn và áo dài:
Áo ngắn được cắt may bằng vải phin, dạng cộc tay, cổ vng, rộng. Áo may chít
nách và hơi xịe rộng ở phía gấu áo.
Áo dài (ao quyện) là kiểu áo chui đầu, may bít tà, khơng xẻ nách, khơng cài cúc ở
thân áo. Từ cổ đến gấu áo dài trung bình khoảng 50cm. Áo thường may bằng vải
hoa màu đen, có hoa văn hình bơng sen, bắp ngơ, cành hoa,… Hiện nay loại áo
này thường ít người sử dụng.
Váy là vải màu in nhiều họa tiết hoa văn trong đó mơ típ hình thoi là chủ đạo.
Thân váy trang trí bốn dải hoa văn chạy theo lối băng ngang, cách đều nhau 16cm
với mơ típ hoa văn kiểu chân đèn và các vì sao cách điệu. Phần gấu váy trang trí

mơ típ hoa văn chạy theo hàng ngang với chín chữ thập đối xứng nhau, tượng
trưng cho các ngôi sao trên trời. Cạp váy trang trí ơ hình tam giác, hình tháp nhọn
màu đen. Hiện nay,để giản tiện trong sinh hoạt, hầu hết phụ nữ Khmer ngày
thường mặc giống như người Kinh Nam Bộ.
2.2.2. Trang phục cưới
Bộ y phục của chú rể người Khmer gồm có áo và xà rơng:
Áo (ao) được may theo kiểu bà ba, xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, tay áo được cắt nối
ở gần cầu vai, nút áo được làm từ các mảnh vải nhỏ đỏ bó lại, quàng khăn trắng vắt
qua vai trái và đeo thêm con dao cưới (kầm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Đây
là kiểu áo chú rể truyền thống của người Khmer.
Váy (xà rông): người Khmer quan niệm váy là thành tố quan trọng trong trang
phục nam giới người Khmer thể hiện đẳng cấp của người sử dụng. Xà rông được
làm từ vải lụa in hoa, dài khoảng 150cm, rộng 100cm. Đây là một tấm vải dệt khổ
rộng, được gập đơi và khâu lại. Váy khơng có sự phân biệt cạp và gấu. Hoa văn
trên thân váy có hai dạng cơ bản: hoa văn hình tháp và hoa văn hình cây. Trong
cưới xin và lễ hội, nam giới Khmer mặc váy như một hình thức nhớ về văn hóa
truyền thống của dân tộc.
Trang phục nữ trong lễ cưới,trang phục cô dâu: trong ngày cưới, cô dâu Khmer
mặc trang phục truyền thống bao gồm mũ, dây buộc tóc, dây buộc trán, dây đeo
cổ, khăn quàng vai, áo dài, váy, dây buộc cổ tay, yếm.
Mũ (co baloong kuôl) cô dâu được làm bằng vải đỏ, bên trên xếp nhiều lớp
giấy, xung quanh đính các hạt cườm và bơng hoa nhuộm nhiều màu.
8


Dây buộc tóc (pho nng sóc), dây buộc trán, dây đeo cổ, dây buộc cổ tay được
làm bằng dải vải đỏ, đính cánh hoa màu đỏ, các hàng cườm dẹt, chuỗi dây cườm
nhỏ đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng và dây hoa văn làm bằng cánh một loại côn
trùng màu đỏ thẫm.
Khăn quàng vai (so bay) dài khoảng 120cm, rộng 20cm được làm bằng vải lụa

hoa với kĩ thuật khâu tay đính các hàng kim sa màu vàng tạo thành những bông
hoa, hai bên mép khăn được gắn chuỗi kim sa tạo thành những dây hoa. Đây là
loại khăn kiểu cổ của cô dâu Khmer dùng để vắt, quàng từ vai trái sang nách phải
sau khi đã mặc áo, váy.
Áo (ao) được cắt may bằng vải màu đỏ dài khoảng 100cm, nách rộng 50cm,
được may theo kiểu áo dài, bít tà, bó sát thân trên và hơi xịe phía dưới. Áo được
đính các hàng kim sa chạy dọc, ở phần bụng các chuỗi hạt kim sa hình hoa, được
đính thành 1 dải hình chữ nhật.
Váy ( xà rơng) của cô dâu Khmer thuộc loại váy ống, dài 105-110cm. Váy may
bằng vải hoa nền đỏ hoặc xanh. Thân váy trang trí các cây hoa màu đỏ, màu vàng,
hoa văn hình thoi và hình con chim, phía trước váy đính kín các hạt kim sa tạo
thành các mơ típ hình hoa trong ơ hình chữ nhật.

9


Hình ảnh 1: Trang phục cưới truyền thống người Khmer Nam Bộ
(Theo báo vovworld.vn)
2.2.3. Trang sức của người Khmer
Trang sức là vật không thể thiếu trong đời sống dân tộc Khmer. Người dân quan
niệm trang sức ẩn chứa khát vọng lớn lao về niềm vui và sức khỏe. Những chiếc
vòng cổ, lắc tay của người Khmer có mơ típ đa dạng như hình thoi, hình trăng lưỡi
liềm, trái cây, hình chim, thú,… Phụ nữ Khmer đeo đồ trang sức mảnh mai thường
tốt lên vẻ thanh cao, kín đáo, hấp dẫn. Còn những phụ nữ đeo trang sức to như
những trái cây chín mọng tốt lên vẻ khỏe khoắn. Ngày thường phụ nữ Khmer đeo
một đơi hoa tai, chiếc vịng cườm nhưng ngày lễ tết, họ thường đeo nhiều hơn thế.
Bùa là vật trang sức đặc biệt của người Khmer, bao gồm ba loại bùa chính: dây
cột tay gọi là k’se day (thường là sợi chỉ hồng đỏ, thường đeo trong đám cưới), dây
đeo cổ gọi là k’se co và dây thắt lưng gọi là k’se chonkes. Người Khmer quan niệm
rằng những sợi dây bùa cùng với mảnh răng nanh hay nanh vuốt con vật có tác

dụng ngăn ngừa gió độc, tà ma.
2.2.4. Trang phục của tầng lớp sư sãi người Khmer
Trang phục chủ yếu của tầng lớp sư sãi là bộ cà sa. Đặc trưng y phục của các sư
sãi trong chùa Khmer là chất liệu vải bông thô, màu đỏ hoặc vàng, ít hoa văn, được
cắt may đơn giản. Y phục tầng lớp sư sãi thường có 6 món: túi đeo, áo trong, áo
ngoài, váy, thắt lưng, dây nịt.
Túi đeo (đem) được may bằng vải phin, màu trắng và vàng, được thêu 3 bông
hoa sen bằng chỉ màu (pha ka tru) để đựng đồ tư trang của sa di khi đi ra ngoài.
Áo trong (thoong sắc) là một tấm vải được gập đôi và mở một bên nách để chui
đầu và cánh tay khi mặc.
Áo ngồi (chi pơ o) là tấm vải rộng được viền lại bằng vải cùng màu ở 4 rìa
dùng để khốc từ vai phải sang vai trái và khơng có hoa văn trang trí.
Váy (so bông) là váy ống, được làm từ tấm vải phin màu vàng, khơng phân biệt
trên dưới.
Thắt lưng (goặc pl) có độ dài 170-175cn, rộng 20cm, làm bằng vải phin màu
vàng. Thắt lưng được may viền 4 cạnh dùng buộc ngang bụng cùng dây nịt.
Dây nịt (uất tà khuất) dài 160-170cm, rộng 10cm, làm bằng vải đỏ hoặc vải
phin màu vàng, được may viền 4 mép; có tác dụng giống thắt lưng, dùng để nịt áo
trong, áo ngoài và váy.
2.2.5. Trang phục lễ hội và văn nghệ dân gian của người
Khmer
Trang phục lễ hội và văn nghệ dân gian của người Khmer vô cùng đặc sắc.
Trang phục sân khấu Rô băm và trang phục sân khấu Dù kê là nổi bật nhất. Ở bài
tiểu luận này, tơi đi sâu tìm hiểu trang phục sân khấu Dù kê đại diện cho trang
10


phục lễ hội và văn nghệ dân gian của người Khmer. Dù kê là loại hình sân khấu
theo hình thức ca kịch, ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XX, là loại hình tổng hợp
gồm: ca, múa, nhạc, kịch. Trang phục trong nghệ thuật sân khấu Dù kê dựa trên cơ

sở ăn mặc truyền thống và dựa vào nhân thân, tính cách, giới tính của vai diễn để
mang tính thẩm mĩ sân khấu, hấp dẫn người xem.
Vai vua: thông thường mặc sampot màu vàng, cổ đứng, quấn xà rông, đeo săng
hoa ( miếng vải bắt chéo qua ngực và lưng, một bên thả dài đến cẳng chân), đi hài
cong mũi, đội mão.
Vai hoàng tử: đầu đội khăn lụa giáp hoặc đội mão, vành khăn trên đầu có gắn
lơng chim tượng trưng cho tài săn bắn, thiện nghệ kiếm cung. Áo mặc thuộc kiểu
dài tay, cổ có trang trí. Quần dài, thắt lưng bản lớn, chân quấn dây nịt có ba tua.
Vai hồng hậu, cơng chúa: vai chính diện thì mặc sampot màu đỏ, trắng, vàng;
mang khăn choàng từ vai xuống eo, đội vương miện, đeo vòng tay, vòng chân. Vai
phản diện thường dùng màu xanh đậm, đen kim tuyến, và mặc sampot hình cánh
quạt, nhiều mảnh vải xếp chồng lên ở một bên.
Vai tướng: mặc áo cổ đứng, áo có trang trí họa tiết óng ánh, tay áo dài, có giáp
bao cổ tay. Mặc quần dài, có giáp bao cổ chân.
Vai phú ông, vợ phú ông: mặc sampot bằng vải lụa, áo tay dài, thêm áo khốc
ngồi.
Vai con trai nhà nghèo: mặc quần thường, áo thường hơi dài, buộc thắt lưng,
khăn rằn buộc một bên.
Vai con gái nhà nghèo: mặc sampot bằng vải bình thường, ít hoa văn, khơng kết
cườm; áo tay ngắn, cổ trịn; tóc bới cao, có thể cài thêm bông hoa để trang sức.
Vai Chằng: Chằng là nhân vật múa phản diện, trang phục gồm có: yếm cổ (xo
đong cơ), khăn nịt ngực (phai quạt ké), yếm trước bụng ( phai kà bân), yếm sau
lưng (phai kà bần), bao buộc chân ( xà rơng chưn), tấm khốc rộng và tối để khốc
ngồi. Chất liệu vải và họa tiết trang trí áo quần của vai Chằng phải tạo vẻ uy nghi,
dữ tợn. Mồm ngậm 2 chiếc răng nanh dài như quỷ dữ là điểm đặc biệt trong tạo
hình nhân vật này.
Vai thú: tùy vào từng con vật như khỉ, ngựa, chim,… mà trang phục, tạo hình
giống với vẻ mặt và tính cách của con thú đó. Trang phục cho vai các con vật
thường mang tính tả thực, làm nổi bật tính cách con vật, giúp khán giả nhận biết
ngay thân phận của chúng trong vở diễn.

Mặt nạ múa (cà bar dắc) được làm bằng bìa các tơng, vải quét sơn, rơm và gỗ.
Có tới 36 mặt nạ khác nhau được sử dụng.

11


Hình ảnh 2: Trang phục biểu diễn sân khấu Dù kê
(Theo: Báo quehuongonline.vn)
Trang phục sân khấu Dù kê và trang phục lễ hội, văn nghệ dân gian của người
Khmer hiện nay đều có biến đổi để phù hợp với nhu cầu thưởng thức và tăng sự
thu hút cho khán giả.
2.2.6. Trang phục tang ma của người Khmer
Người Khmer Nam Bộ hầu hết theo đạo Phật, họ quan niệm rằng chết không
phải là hết mà là giai đoạn chuyển tiếp để đi sang một thế giới khác. Vì thế, họ
ln dành cho người chết những nghi lễ chu đáo để mong họ được tiếp đón ở thế
giới bên kia; trang phục người chết theo đó cũng được chuẩn bị kĩ càng.
Theo tục lệ của người Khmer, tử thi được lau bằng nước ướp nhang thơm và
mang quần mới, ngậm đồng tiền bằng bạc hay chì vào miệng. Hầu hết người chết
được quấn bằng vải trắng (rum snop), nếu xác chết để lâu ngày phải quấn thêm 1
lớp vải dầu. Ở cổ, đầu cánh, ngang cổ tay, ngang đầu gối, ngang cổ chân, lấy chỉ
buộc năm nút (chămnom pram broca) tượng trưng cho cha, mẹ, vợ hay chồng, con
và của cải.
Trang phục của người tham gia tang lễ không thể thiếu một mảnh vải trắng.
Riêng các thầy acha, mảnh vải trắng được vắt chéo trên vai; đối với các cô gái rải
hoa và người nhà, mảnh vải trắng được vắt vai hoặc quàng chéo một bên như các
thầy acha. Trang phục của người Khmer gần giống y phục ngày thường.
2.2.7. Một số hoa văn trang trí trên trang phục người
Khmer
12



Hình ảnh 3: Một số hoa văn trang trí đơn giản trên trang phục biểu diễn
(Theo tác giả)
Người Khmer thường sử dụng một số mơ típ trang trí như: cành lá uốn cong
vểnh lên ở đầu mút, lá có rãnh sâu; các hình thoi nối tiếp nhau được tạo thành bởi
đường chéo và các đóa hoa cách điệu; hoa văn hình bốn cánh hoa vng (ter cơm);
các đường thẳng song song (khịi); các đường vng nối nhau (khơm mơng); nửa
hình thoi (bạt pua); ơ hình tam giác (ca lac bak); hình tháp nhọn màu đen (kha
bach bầu nội),…Ngồi ra cịn có nhiều kiểu trang trí kim sa, kiến trúc, con vật
nhưng nổi bật hơn hết là họa tiết trang trí hình hoa lá. Bốn hình tượng hoa tiêu biểu
trong họa tiết trang trí hình hoa lá trên trang phục người Khmer là: hoa sen, hoa
cúc, hoa Chan, hoa dây leo. Thiên nhiên dưới ý thức thẩm mĩ trở thành vật trang trí
mềm mại, uốn lượn, uyển chuyển mang tính sáng tạo cao.
2.2.8. Trang phục truyền thống Khmer với một số trang
phục truyền thống các tộc người nhóm ngơn ngữ MơnKhmer
Nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer bao gồm 21 tộc người; cư trú vừa
rải rác vừa tập trung từ Tây Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long,
địa vực cư trú chủ yếu là vùng núi cao dọc biên giới, cao nguyên
và một phần đồng bằng. Trang phục truyền thống của các tộc
người nhóm ngơn ngữ Mơn-Khmer có sự phân biệt bởi các yếu tố
địa lí, mơi trường, tâm lí tộc người tác động; tuy nhiên vẫn giữ
được các yếu tố cổ truyền và mang nét văn hóa riêng độc đáo.
Các tộc người nhóm ngơn ngữ Mơn-Khmer được chia làm 3 nhóm
13


chính dựa theo vị trí địa lí: Vùng núi cao phía Bắc; Vùng miền
Trung, Trường Sơn và Tây Nguyên; Vùng đồng bằng Nam Bộ. Tộc
người Khmer thuộc nhóm thứ 3. Trang phục truyền thống các tộc
người nhóm ngơn ngữ Mơn-Khmer có nhiều đặc điểm tương đồng

và khác biệt với trang phục Khmer Nam Bộ.
Không chỉ người Khmer tạo ra trang phục bằng nguyên liệu từ
việc trồng bông kéo sợi, nuôi tằm lấy tơ mà các tộc người khác
cũng làm như thế. Nghề trồng bông dệt vải phát triển nhất ở các
tộc người nhóm ngơn ngữ Mơn-Khmer ở Trường Sơn Tây nguyên,
thực hiện các quy trình giống người Khmer Nam Bộ: trồng bông,
cán bông, kéo sợi, dệt và nhuộm. Tuy nhiên, tạo ra trang phục từ
tơ tằm ở các tộc người khác không phát triển như người Khmer.
Nghề dệt phát triển tạo ra sản phẩm, tạo công ăn việc làm và tạo
nên nguồn thu nhập cho các tộc người. Không chỉ có trang phục
của người Khmer mà trang phục của nhiều tộc người Môn-Khmer
khác ở Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên như: Giẻ-Triêng, Tà Ôi, Cơ
Tu, Khơ Mú… đều đem lại giá trị kinh tế-xã hội.
Trang phục truyền thống của người Khmer có nét tương đồng
với trang phục Chăm, trang phục cư dân các nước Thái Lan, Lào
và Campuchia chứng tỏ sự ảnh hưởng, giao thoa giữa các tộc
người. Trong khi đó các dân tộc Mơn-Khmer ở phía Bắc như Kháng,
Xinh, Mun, Khơ Mú chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố trang phục của
người Thái; các dân tộc Môn-Khmer ở khu vực Trường Sơn-Tây
Nguyên có sự giao thoa với các dân tộc nhóm Tam Đảo miền núi.
Trong cắt may và tạo dáng trang phục, người Khmer khác với
các tộc người Môn-Khmer khác. Trong khi người Khmer và tộc
Môn-Khmer vùng Tây Bắc tạo dáng trang phục nam giới dáng
chân què, cạp lá tọa; nữ giới tạo dáng váy ống, áo xẻ ngực cài
khuy còn vùng Tây Nguyên chủ yếu mặc khố. Từ kiểu dáng ban
đầu, mỗi tộc người có sự thay đổi đơi chút cho phù hợp với điều
kiện sống.
Tùy vào chất liệu mà con người trang trí: thêu, nhuộm, dệt, in
sáp ong, sơn, ghép vải, ikat, xăm trổ, vẽ… Hoa văn trang trí trên
trang phục truyền thống các tộc người Mơn-Khmer rất đa dạng

nhưng đều mô phỏng lại thiên nhiên, vũ trụ, thực vật, đồ vật,
động vật… phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, lịch sử phát
triển và mối quan hệ giữa các cá nhân, các tộc người trong xã hội.
Tóm lại, trang phục truyền thống của người Khmer Nam Bộ và
các tộc người khác nằm trong hệ ngôn ngữ Môn-Khmer có chung
14


nguồn gốc, cách tạo hình, tạo trang phục và giá trị nhưng qua
quá trình lịch sử, trang phục mỗi tộc người đã có sự biến đổi, giao
thoa để phù hợp với vị trí địa lí, mơi trường tự nhiên, xã hội.
CHƯƠNG 3. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRÊN TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI KHMER
NAM BỘ
3.1. Giá trị trang phục truyền thống người Khmer
Giá trị sử dụng: Trang phục là vật chất được con người sử dụng trong sinh hoạt,
lao động sản xuất, chiến đấu và các hoạt động văn hóa xã hội khác. Từ chức năng
ban đầu là vật che thân, trang phục dần dần xuất hiện thêm chức năng làm đẹp;
phương tiện phân biệt giới tính, giai cấp, nghề nghiệp, dân tộc,… Trang phục có
mối quan hệ mật thiết với con người khi có nhận thức.
Giá trị xã hội: Mỗi tộc người trên thế giới đều thể hiện văn hóa độc đáo của
mình qua trang phục. Trang phục là loại hình văn hóa vật thể thể hiện bản sắc văn
hóa tộc người, là dấu hiệu nhận biết các dân tộc. Trang phục thể hiện địa vị xã hội
và thân thế của các thành viên trong cộng đồng, thể hiện sự phân biệt giàu nghèo,
sự giao thoa và tiếp biến văn hóa giữa các vùng, các dân tộc.
Giá trị lịch sử: Trang phục phản ánh thời đại, quan niệm thẩm mĩ, điều kiện và
bối cảnh xã hội qua từng thời kì khác nhau.
Giá trị thẩm mĩ: Trang phục thể hiện rõ yếu tố thẩm mĩ thông qua việc sử dụng
màu sắc,đưa thiên nhiên cuộc sống vào các họa tiết trên tấm vải. Người Khmer ý
thức được chức năng làm đẹp của trang phục nên đã trau chuốt cho bộ trang phục

của mình cầu kì, hoa văn sặc sỡ, tạo dáng cho vừa với cơ thể.
3.2. Thực trạng và xu hướng biến đổi trang phục
Trang phục đóng vai trị rất lớn trong đời sống xã hội của người Khmer nhưng
nó khơng phải là cái bất biến. Làm một thành tố văn hóa vật chất trong cuộc sống
con người, trang phục cũng luôn biến đổi cùng với mơi trường mà nó tồn tại. Đầu
tiên là xu hướng xã hội hóa: mở rộng phạm vi từ khu vực vùng miền đến phạm vi
quốc gia, quốc tế. Thứ hai là xu hướng hiện đại hóa cả về chất liệu và chủng loại,
phương pháp và kĩ thuật chế tác. Trang phục Khmer thơng qua q trình biến đổi
từ riêng biệt đến đại đồng, từ cái riêng đến cái chung; phản ánh trình độ phát triển
của cộng đồng dân cư, tộc người, giao lưu và giao thoa nhiều mặt giữa cộng đồng
dân tộc Khmer và các dân tộc khác.
Trang phục phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên như thời tiết, khí hậu, mơi trường
sinh thái, thảm thực vật, hệ động vật,… và phụ thuộc vào các yếu tố xã hội như địa
vị, chức sắc tôn giáo, kinh tế, lao động, tập quán… Sự thay đổi của trang phục
chính là từ sự thay đổi của quan điểm thẩm mĩ và điều kiện sống, phù hợp với quy
luật phát triển. Nhưng sự biến đổi của trang phục lại đặt ra vấn đề bảo tồn các giá
15


trị truyền thống của tộc người. Sự biến đổi xã hội, phong tục tập quán, lối sống, thị
hiếu thẩm mĩ tộc người, giao thoa văn hóa tộc người là những nguyên nhân chính
làm biến đổi trang phục theo xu hướng ngày càng hiện đại. Nếu trang phục ngày
càng biến đổi mà khơng có định hướng đúng đắn, biện pháp kịp thời thì những đặc
trưng văn hóa tộc người đặc sắc sẽ dần bị mai mốt mà khơng dễ gì tìm lại được.
3.3. Bảo tồn phát huy giá trị văn hóa trong trang phục
Khmer Nam Bộ
Đối với cộng đồng, muốn bảo tồn các giá trị truyền thống trong tộc người phải
tác động từ nhận thức, sau đó là giữ gìn vùng nguyên liệu, duy trì nghề dệt theo
phương pháp hiện đại hóa, giải phóng sức lao động con người, tạo thị trường tiêu
thụ. Bảo tồn trang phục truyền thống là phải bảo tồn nghề dệt, duy trì trồng bơng

kéo sợi, ni tằm dệt vải, nhuộm màu. Khuyến khích các làng nghề sản xuất trang
phục truyền thống như làng dệt thổ cẩm Khmer ở xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên,
tỉnh An Giang. Xây dựng làng nghề dưới dạng bảo tàng của cộng đồng lưu giữ các
bộ trang phục khác nhau của cộng đồng; sử dụng các trang phục truyền thống
trong ngày lễ tết, hội hè với ý thức trân trọng giữ gìn để bảo tồn và phát huy khơng
gian văn hóa tộc người Khmer.
Đối với hình thức hoạt động bảo tàng: bảo tàng với chức năng nghiên cứu, sưu
tầm, bảo quản, trưng bày và giới thiệu di sản văn hóa đóng góp vai trò hết sức
quan trọng trong việc bảo tồn giá trị văn hóa trang phục truyền thống người
Khmer. Vì thế, Bảo tàng Văn hóa các tộc người Việt Nam cần sưu tầm bổ sung tài
liệu về nghề dệt và trang phục tộc người Khmer nói riêng và các tộc người khác.
Phục chế nguyên bản các bộ trang phục truyền thống tộc người khơng cịn nữa.
Tiến hành nghiên cứu sưu tầm, ghi chép lại tất cả những tư liệu về quá trình làm ra
bộ trang phục truyền thống người Khmer. Hệ thống hóa, bảo quản tốt và xuất bản,
giới thiệu với công chúng tham quan bảo tàng và các độc giả văn hóa dân tộc là
cơng việc cần để giữ gìn và phát huy vốn văn hóa dân tộc. Bảo tàng chính là nơi
bảo tồn, phát huy và phát triển bức tranh văn hóa của đất nước, văn hóa của dân
tộc sẽ không bao giờ phai nhạt mà ngày càng phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn.
Trang phục truyền thống là những tài sản vô giá mà mỗi chúng ta đều có quyền
hưởng thụ có trách nhiệm phát triển và bảo tồn nó. Bảo tồn trang phục truyền
thống là bảo tồn cốt cách, văn hóa riêng của các tộc người, của một dân tộc.

KẾT LUẬN
Trải qua quá trình di cư, sinh tụ lâu dài trong những điều kiện tự nhiên và xã hội
riêng, trang phục truyền thống dân tộc Khmer là thành tố quan trọng, là những sản
phẩm sáng tạo góp phần vào việc duy trì và phát triển đời sống tộc người. Những
giá trị văn hóa trên trang phục của người Khmer hàm chứa đầy đủ những sắc thái
16



cơ bản, phản ảnh mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội tộc người. Là nơi gửi gắm và
thể hiện niềm tin, tín ngưỡng và ước vọng của cộng đồng.
Thơng qua bàn tay khéo léo và óc thẩm mĩ của người phụ nữ Khmer, họ đã tạo
ra những bộ trang phục đẹp, độc đáo cho tộc người mình. Trang phục truyền thống
Khmer là sự kết hợp giữa cái đẹp của phong cảnh, màu sắc của thiên nhiên với sự
khéo léo của đôi tay và sự sáng tạo thông qua hoa văn tả thực, cách điệu. Vẻ đẹp
của trang phục còn là sự phối hợp hài hòa với đồ trang sức. Trang phục truyền
người Khmer được phản ánh rõ nét thông qua cuộc sống hàng ngày, các ngày lễ
hội lớn, trong các bản trường ca và những loại hình văn hóa dân gian. Trang phục
truyền thống người Khmer ở Nam Bộ vừa thể hiện vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp tâm
hồn, vừa ẩn chứa vẻ đẹp tâm linh tạo nét riêng biệt độc đáo.
Xã hội ngày càng phát triển và có nhiều biến đổi, trang phục truyền thống
Khmer cũng theo dòng chảy đó thể hiện mối giao thoa văn hóa trong tiến trình lịch
sử giữa các tộc người, sự phát triển của đời sống kinh tế, văn hóa-xã hội. Trang
phục truyền thống đang biến đổi không ngừng tạo ra thách thức trong việc nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống trong trang phục tộc người. Giữ
gìn và phát huy các giá trị truyền thống trong trang phục là việc làm cần thiết gắn
với hoạt động của bảo tàng và gắn với cộng đồng tại địa phương, cộng đồng dân
tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quốc Vượng (2006). Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục
2. Phan Huy Lê (2016). Vùng đất Nam Bộ, quá trình hình thành và phát triển,
NXB Chính trị quốc gia Sự thật
3. Hội văn nghệ Dân gian Việt Nam (2012). Trang phục truyền thống các tộc
người nhóm ngơn ngữ Mơn-Khmer, Tạng-Miến, NXB Văn hóa dân tộc
4. Nguyễn Thị Kiều Tiên và Tăng Văn Thịn, Thạch Thị Thanh Loan (2020). Giáo
trình văn học dân gian Khmer, NXB Khoa học Xã hội
5. Nguyễn Anh Động (2014). Vài nét về Văn hóa Dân gian của người Khmer,
NXB Văn hóa thơng tin

6. Nhiều tác giả (2019). Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB Tổng
hợp Hậu Giang
7. Nhiều tác giả (2017). Các dân tộc ở Việt Nam, tập 3, Nhóm ngơn ngữ MơnKhmer, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật
8. Duy Nhân (2017). Cùng ngắm những nét đẹp đặc sắc của văn hóa Khmer Nam
bộ,

17


/>9. Mạnh Hà (2016). Nét đẹp độc đáo trong trang phục truyền thống người Khmer,
/>10. Trần Thùy (2015). Nghệ thuật Dù kê của người Khmer Nam Bộ,
/>
18



×