Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Phân tích đặc trưng ngôn ngữ báo chí trong các tác phẩm báo chí bình luận của nhà báo hồ quang lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.66 KB, 38 trang )

BÀI TẬP LỚN
Đề bài: Phân tích đặc trưng ngơn ngữ báo chí trong các tác
phẩm báo chí bình luận của nhà báo Hồ Quang Lợi


Tiểu sử Hồ Quang Lợi
Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu từng viết:
“Hồ Quang Lợi nguyên quán làng Quỳnh, Quỳnh Đôi, Quỳnh
Lưu, Nghệ An… Anh nổi tiếng là một cây bút chính luận cao nghề và
tài năng. Anh là một nhà bình luận xuất sắc và nhạy bén trước thời sự
cuộc sống. Văn phong của anh vừa sáng sủa, khúc triết nhờ cấu trúc
chuẩn mực của Pháp văn, vừa chuyển động liên tục hình ảnh, thể hiện
bản lĩnh và cốt cách của riêng anh bằng lượng từ vựng Việt cuốn hút.”
Ông là một nhà báo cũng là một nhà văn có tài, thật vậy, bởi suốt
từ năm 1990 đến giờ, hàng ngàn bài viết của ông đã xuất hiện thường
xuyên trên Quân đội nhân dân, Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản,
Hànộimới, Sài Gịn Giải phóng và nhiều báo khác, gần đây là Thể thao
& Văn hố.
Có thể coi ơng là một nhà văn có tài, bởi những bài báo của ơng
khơng chỉ mang tính tân văn mà cịn mang tính thẩm mỹ. Nhiều bài báo
của Hồ Quang Lợi khơng chỉ giàu thơng tin, nhận định, ý tưởng, mà
cịn là những bài văn đầy mỹ cảm.
Hồ Quang Lợi từng làm nhiều chức vụ trong Hội nhà báo Hà Nội
cũng như Hội nhà báo Việt Nam, hiện tại ông đang làm Phó Chủ tịch
thường trực Hội Nhà báo Việt Nam khóa 10.
I.

Phân tích 5 tác phẩm báo chí bình luận của Hồ Quang

Lợi
1, Bài “ Vô cảm – cái chết từ trong tâm hồn” trên báo


Hanoimoi.com.vn số ra Thứ Hai ngày 01/09/2014.
(HNM) - Trong y học khơng có bệnh vơ cảm. Đó là căn bệnh của cách
hành xử, căn bệnh của lối sống.
Lời dạy của cha ông ta "Thương người như thể thương thân" từ lâu đã
trở thành đạo lý của người Việt Nam. Tính nhân văn, lịng nhân ái phải là
ngọn lửa sưởi ấm, là ánh sáng trong cuộc đời mỗi con người, mỗi gia đình
2


cũng như toàn xã hội. Thế nhưng ngày nay, bên cạnh nhiều nét đẹp vẫn luôn
hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống
hiến, đồng cảm, chia sẻ, cưu mang, giúp đỡ người khác, thì cũng có khơng ít
kẻ sống ích kỷ, vơ trách nhiệm, vơ cảm, vơ đạo đức.
Vơ cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, "máu lạnh" với
những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản
thân. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng
hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại...
Trước đây, vô cảm chỉ là những hiện tượng đơn lẻ, nhưng bây giờ đang
có chiều hướng lây lan, nếu khơng có những biện pháp ngăn chặn thì có thể
trở thành một căn bệnh có tính xã hội. Trong cơn lốc tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, cùng với việc tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại thì lối
sống hưởng thụ và mặt trái của nền kinh tế thị trường đang tác động mạnh đến
tâm lý xã hội, dần dần hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận người
Việt Nam.
Người ta có thể thản nhiên đứng nhìn cảnh một kẻ mạnh ăn hiếp kẻ
yếu; một vụ nữ sinh lột áo, giật tóc, đánh hội đồng; một vụ làm nhục người
khác… như xem một màn kịch, lấy điện thoại ra quay rồi tung lên mạng.
Người ta coi như khơng nhìn thấy kẻ gian móc túi trên xe buýt mặc dù việc đó
xảy ra sờ sờ trước mắt. Từ những chuyện tranh cãi hay xô xát lặt vặt nhưng
không ai lên tiếng can ngăn và thế là dẫn tới án mạng.

Tại sao người ta không can thiệp? Bởi người ta vô cảm trước nỗi đau
của đồng loại. Bởi người ta sợ liên lụy, mang vạ vào thân.
Một bệnh nhân, hay nạn nhân được đưa tới bệnh viện, cho dù đang
trong tình trạng thập tử nhất sinh, nhưng khơng được cứu chữa ngay vì cịn
chờ người nhà đến làm các thủ tục cần thiết, trong đó có cả thủ tục "đầu tiên",
đến khi xong mọi thủ tục thì đâu cịn người nữa để mà cứu chữa. Một vụ tai
nạn trên đường vắng, nạn nhân nằm trên vũng máu, xe gây ra tai nạn đã bỏ

3


chạy mất tăm, còn bao nhiêu xe khác vẫn vun vút lao qua vì "quá bận", "quá
vội"…
Hằng ngày, trên các mặt báo hoặc trên các phương tiện thông tin đại
chúng khác, người ta thấy tràn ngập các vụ việc thuộc loại " cướp, giết, hiếp"
hay "tiền, tình, tù tội", nhiều vụ kinh hồng, sởn gai ốc. Báo chí có tác dụng
cảnh báo, nhưng đọc mãi thành quen, rồi chai sạn, thờ ơ trước những chuyện
tày trời như thế. Khơng ít vụ việc phơi bày sự vô cảm đến tàn nhẫn của những
người chứng kiến.
Thái độ ứng xử trước nỗi đau, tai họa của người khác là phản ứng tự
nhiên mang tính người, là thước đo đạo đức, là sự sát hạch đạo đức xã hội
một cách nghiêm khắc nhất. Trước nỗi đau, tai họa và bất công mà người khác
phải chịu đựng, nhưng ai đó khơng phản ứng được tức là đã bị tê liệt về tinh
thần xã hội. Đó là sự suy đồi về lối sống, suy thoái về đạo đức.
Như vậy, trên bình diện xã hội, bệnh vơ cảm đã phản ánh sự suy giảm
nền tảng đạo đức và tinh thần của xã hội. Khi sự gắn kết giữa người với người
trong xã hội bị rạn nứt, thậm chí bị đứt gãy thì nó làm cho con người không
dám tin vào điều thiện, không dám đứng lên chiến đấu chống cái xấu và cái
ác. Vô cảm triệt tiêu tính tự phản ứng như một lẽ tự nhiên trước những tiêu
cực, bất công, ngang trái.

Khi căn bệnh này không được ngăn chặn thì xã hội sẽ khơng tránh khỏi
bị sụt lở nền tảng đạo đức và tinh thần, gây hoang mang, làm nảy nở cái xấu,
cái ác. Trong những hoàn cảnh nhất định, cái thiện và cái tốt sẽ bị cái xấu, cái
ác tấn công, xâm hại; lẽ phải bị triệt tiêu, công lý bị đẩy lùi.
Không chỉ người dân mà tầng lớp cán bộ - những "công bộc của dân"
cũng mắc phải bệnh này. Trong hệ thống công quyền, nó thể hiện ở sự thờ ơ,
ở các chiêu "đánh võng", gây khó khăn, gây cản trở, thấy việc cần phải làm
nhưng khơng làm hoặc đặt ra những địi hỏi trái khốy, cố tình kéo dài để vụ
lợi... khiến người dân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội khi đến hệ thống
cơng quyền đều khơng hài lịng, thậm chí bất bình. Khơng thiếu những "cơng
4


bộc" buộc dân phải đến trình bày lần này lượt khác, tìm cách vịi vĩnh rồi mới
giải quyết. Thậm chí, có những người đang tâm ăn chặn của thương binh, gia
đình chính sách, người tàn tật, hộ nghèo. Dư luận gần đây nóng lên sự vơ
cảm, tắc trách của nhân viên y tế dẫn đến những cái chết oan uổng của người
dân. Muốn chữa bệnh thì phải trả tiền trước, có chút lót tay thì tiêm đỡ đau
hơn, thay băng nhẹ nhàng hơn... Những vụ bảo mẫu ngược đãi, hành hạ trẻ
thơ tại một số cơ sở nuôi dạy trẻ và bao nhiêu chuyện đau lòng khác trong
ngành giáo dục, những tiêu cực trong ngành y tế, những vụ oan sai nghiêm
trọng trong ngành tư pháp cho thấy bệnh vô cảm đang diễn ra cả trong những
lĩnh vực cứu người, dạy người, bảo vệ công lý.
Như vậy, những hành vi vô cảm không chỉ đơn thuần làm hủy hoại
nhân cách con người mà cịn làm xói mịn nền tảng đạo đức, làm rối loạn trật
tự xã hội và xa hơn nữa là kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Khơng khó nhận ra bệnh vơ cảm, nhưng làm sao để chữa được bệnh thì
khơng hề đơn giản. Sự mất lịng tin trong xã hội, sự ích kỷ, tính thực dụng
trong lối sống của một bộ phận xã hội làm cho bệnh thêm nặng.
Để chữa trị căn bệnh "ung thư tâm hồn" này, cần phải kết hợp đồng bộ

nhiều giải pháp. Trước hết phải tạo cho xã hội một sức đề kháng. Đó chính là
việc xây dựng và khơng ngừng nhân lên những yếu tố tích cực trong xã hội.
Một mơi trường xã hội tốt, lành mạnh sẽ tạo được sức đề kháng cao với căn
bệnh này. Ngược lại, trong một môi trường xã hội xấu, nơi mà tiêu cực lấn át
tích cực thì bệnh vơ cảm sẽ lây lan. Phải bền bỉ xây dựng văn hóa ứng xử, tạo
đời sống tinh thần phong phú, mà ở đó các giá trị tinh thần, đạo đức của xã
hội được xác lập rõ ràng, thể hiện mạnh mẽ, để ai làm những điều xấu cũng
phải sợ, cũng phải ngại. Nếu cái tốt, cái thiện ở thế thượng phong, nếu ở đâu
người tốt cũng biết đồn kết, hợp lực tạo nên sức mạnh thì ở đó chắc chắn cái
xấu, cái ác sẽ từng bước bị đẩy lùi, sự vô cảm sẽ mất dần đi.
Tất cả chúng ta đều phải day dứt trước câu hỏi: Bây giờ đời sống của
người Việt Nam mình khấm khá hơn trước rất nhiều nhưng tại sao bệnh vô
5


cảm lại nặng hơn? Như thế càng thấy rõ, không phải cứ nghèo là vô cảm,
không phải cứ túng là làm liều. Thuốc chữa bệnh vô cảm nằm ở sự truyền phổ
sâu sắc những giá trị truyền thống của dân tộc, thẩm thấu vào trong đời sống
xã hội. Xã hội càng hiện đại thì những giá trị đó lại càng cần nhân rộng,
khơng được để cho những làn sóng lai tạp, xô bồ che lấp, lấn át những giá trị
truyền thống. Khi bệnh vô cảm trong xã hội càng lây lan thì sự gắn kết, tình
người càng bị mai một. Xã hội cần có ngọn lửa nhân ái lan tỏa, những người
hoạn nạn càng cần ngọn lửa nhân ái sưởi ấm họ. Đó chính là tiêu chí của một
xã hội văn minh, một xã hội có đạo đức. Cuộc chiến chống bệnh vô cảm cần
được triển khai trong từng gia đình, trước hết là giáo dục con cháu bằng các
hành vi ứng xử mẫu mực của ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi. Tôi đã từng
được chứng kiến một việc đáng buồn: Hơm đó, chúng tơi đang đi trên đường
phố thì thấy một cụ già gầy guộc, quần áo cáu bẩn, ngồi bên vỉa hè chìa tay
xin ăn. Một cháu bé chừng 8 tuổi đi cùng với bố mẹ liền đưa cho cụ già gói
bánh cháu đang cầm trên tay. Cụ già nói, giọng thều thào: Cảm ơn cháu. Lập

tức, người mẹ sẵng giọng nói với cháu bé: "Ăn mày giả vờ đấy con ạ". Cháu
bé ngơ ngác không hiểu mình đã làm sai điều gì.
Mặc dù xây dựng nền tảng đạo đức xã hội luôn là điều cốt yếu, nhưng
cũng cần có những quy định pháp lý để chống bệnh vô cảm. Nếu thấy bệnh
nhân nguy kịch mà nhân viên y tế từ chối việc cứu chữa thì dù với bất cứ lý
do gì cũng phải bị xử lý nghiêm minh; nếu gặp người bị nạn trên đường mà
không cứu giúp thì sẽ bị truy cứu với những chế tài riêng. Trách nhiệm công
vụ thể hiện đạo đức công vụ, đạo đức xã hội. Đối với hệ thống công quyền, để
trị bệnh vơ cảm, cần cải cách hành chính một cách mạnh mẽ hơn, đưa ra
những quy định khoa học, cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của từng người trong
guồng máy công vụ để nếu một người không làm đúng chức trách của mình
thì lập tức bị bật ra khỏi hệ thống. Nếu một nền hành chính được thực thi một
cách khoa học thì dần dần sẽ tạo ra một thói quen, buộc những ai ở trong
guồng máy cũng phải làm hết chức phận của mình.
6


Bên cạnh việc xây dựng một nền hành chính khoa học để quản trị tốt
thì cần tăng cường giáo dục để cho những "công bộc" - những người ăn lương
của Nhà nước bằng tiền đóng thuế của dân - phải cảm thấy mình có trách
nhiệm đạo đức trong việc phục vụ dân; trước những địi hỏi, những bức bách,
thậm chí những bất hạnh của người dân thì khơng thể quay mặt làm ngơ. Và
cần tăng cường thanh tra công vụ thường xuyên, bất chợt, đột xuất dưới nhiều
hình thức khác nhau để bắt bệnh thật chính xác, kịp thời, từ đó sẽ thưởng phạt
nghiêm minh.
Khơng gì có thể thay thế việc khơi dậy lịng nhân ái và dũng khí trong
mỗi con người, tinh thần trách nhiệm và dũng khí của các cơ quan chức năng
trước những ngang trái và bất công.
Cần xây dựng một xã hội đồng cảm và chia sẻ. Các hoạt động nhân
đạo, từ thiện được triển khai rộng khắp ở các cấp là đang hướng tới một xã

hội như vậy.
Một xã hội vô cảm sẽ là một "xã hội chết" - cái chết trước hết từ trong
tâm hồn.
Hồ Quang Lợi
Phân tích:
Nhìn chung đây là một bài báo hay về thể loại chính luận của Hồ
Quang Lợi. Ngay từ khi bắt đầu tác giả đã khẳng định và đưa ra khái niệm về
căn “bệnh vô cảm” một cách dễ hiểu và sâu sắc nhất để người đọc có thể hình
dung về “bệnh vơ cảm” nó đang tồn tại trong thực tế, nó đang dần ăn mịn con
người ta, làm cho người ta tha hố, biến chất, đơi khi sự vơ tâm vơ cảm đang
giết chết chính bản thân mình cũng như những người xung quanh.
Từ ngữ trong bài này ngay từ đầu đã chứng tỏ đây toàn là ngơn ngữ sự
kiện trong báo chí, nó phản ánh chân thật những gì đang xảy ra trong cuộc
sống. “Vơ cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, "máu lạnh" với
những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản
thân. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng
7


hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại...” Tác giả
phản ánh đúng bản chất của sự việc khi nói lên thực tế của “bệnh vô cảm”, vô
cảm nhay từ những việc nhỏ nhất cho đến những việc lớn nhất. Từ ngữ được
tác giả trau chuốt, dung những từ ngữ đắt như “trơ lì”, “dửng dưng”, “máu
lạnh”… làm cho người đọ thấy được bản thân mình ở trong đó.
Tác giả rất tinh tế sử dụng siêu ngôn ngữ một cách khéo léo mà thể
hiện được chính kiến của mình cũng như để người đọc dễ hình dung được vấn
đề ví dụ như: “Đó là căn bệnh của cách hành xử, căn bệnh của lối sống”, “Lời
dạy của cha ông ta "Thương người như thể thương thân" từ lâu đã trở thành
đạo lý của người Việt Nam”, “các chiêu đánh võng"… Các siêu ngơn ngữ có
tác dụng khơng nói thẳng vào sự việc mà qua đó gửi cho người đọc một thơng

điệp, đây có thể coi là một cách nói giảm nói tránh. Tác giả khơng chỉ thể hiện
được những đặc trưng cơ bản của thể loại báo chí chính luận mà cách viết của
tác giả còn đi vào long người đọc một cách sâu sắc nhẹ nhàng mà thấm đượm
như siêu ngôn ngữ vậy.
Cách viết của tác giả như trải lòng như đưa từng câu chữ ra mà khuyên
mà răn bảo người đọc rằng đừng nên vơ cảm nữa mà hãy làm gì đó khi có thể
đi. Cho nên khi viết bài này về phần ngôn ngữ tác giả cũng không tuân theo
một quy luật nào cả mà ngôn ngữ đều nằm ở độ không xác định nhưng lại rất
hàm súc cô đọng và rất hấp dẫn lơi cuốn người đọc.
Có thể nói bài báo này là một món quà mà tác giả muốn tặng nhưng
cũng là muốn gửi gắm, muốn báo động , muốn thức tỉnh mọi người trước một
thảm cảnh có thể ảnh hưởng đến tương lai của chính chúng ta một cách sâu
sắc. Với lối văn mới mẻ lập luận chặt chẽ và sử dụng từ ngữ hợp lý bài viết đã
đưa người đọc đi từ khái quát đến cụ thể vấn đề, qua đó có thể hiểu được chi
tiết những tác động của sự việc mà xem xét lại giúp cho sự cải thiện cách tích
cực hơn. Đó là một thành công lớn của tác giả.
2, Ba bài “Sự thật không thể xuyên tạc” trên báo nhandan.com.vn
Bài 1: Sứ mệnh - chân lý lịch sử” số ra Thứ Hai, 10/08/2015
8


Những năm qua, việc phủ nhận, địi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã trở thành “đột phá khẩu” để các thế lực thù địch, một
số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng,… phối hợp
chống phá sự nghiệp cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
của đất nước ta. Ba bài viết có chung nhan đề Sự thật không thể xuyên tạc của
tác giả Hồ Quang Lợi góp thêm phần bác bỏ luận điệu xun tạc nói trên.
Chúng tơi xin giới thiệu cùng bạn đọc trong các số báo ra vào ngày 11, 14 và
18-8-2015.
Đất nước ta đã trải qua 30 năm đổi mới đầy thử thách và sáng tạo.

Chưa bao giờ đất nước có một cơ đồ tươi sáng như hiện nay. Chúng ta tự tin
đến với thế giới với mức độ hội nhập ngày càng sâu rộng, và thế giới hào
hứng đến với chúng ta - một đất nước dồi dào tiềm năng, giàu sinh khí và khát
vọng vươn tới. Dù cịn phải đối mặt với nhiều gian khó, thử thách, nhưng cả
dân tộc vẫn đang tràn đầy niềm lạc quan hướng tới tương lai. Trong khi đó,
các thế lực thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về
tư tưởng lại liên tục đưa ra những luận điệu với tần suất cao, rằng: “Thể chế
chính trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, tồn trị”. Điều đó cho thấy họ đang
cố tình bơi ngược trên dịng sơng đất nước. Bất chấp thực tế đất nước đã vượt
qua muôn trùng thử thách và đang phát triển mạnh mẽ, được thế giới nể trọng,
họ vẫn đeo cặp kính đen đầy thiên kiến, lệch lạc để phán xét tình hình Việt
Nam, về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS Việt Nam).
“Thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, tồn trị”, vậy có gì
mới từ thứ luận điệu này?
Nhớ năm 2006, trong dịp diễn ra Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại
Hà Nội, một số kẻ tự xưng là “yêu nước”, là “nhà hoạt động dân chủ” được sự
trợ giúp của các thế lực từ bên ngoài, ra sức quảng cáo ồn ĩ cho điều mà họ
gọi là “cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do ở Việt Nam”. Trên một số trang
mạng, họ rêu rao “một liên minh dân chủ” đã được thành lập ở một quán càphê nào đó, tuy trước mắt chỉ có… ba người tham dự nhưng “triển vọng” sẽ
9


mời được một số “nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng” tham gia! Om sịm
hơn cả là nhóm người tụ tập trong tổ chức có tên gọi bằng bí số như kiểu điệp
viên, rồi tung lên in-tơ-nét “thư ngỏ” nói là gửi tới các nhà lãnh đạo APEC.
Trong các điều sai trái, xằng bậy mà họ bịa đặt tại “thư ngỏ”, bằng giọng điệu
khiếm nhã, họ trách cứ các nhà lãnh đạo của các nền kinh tế APEC rằng “quý
vị đang quan hệ và hợp tác với nhà cầm quyền có thể chế chính trị độc đảng
và độc tài”, rằng “sự độc đảng này được xác định trong Điều 4 Hiến pháp
hiện hành khiến nhà cầm quyền không hề có cạnh tranh và khơng sợ bị thay

thế”! Song thật tẽn tị cho những người chế tác ra nó, thư ngỏ chẳng hề mảy
may gây ấn tượng với các nguyên thủ nước ngoài; bởi như mọi người đã biết,
Hội nghị cấp cao APEC 14 đã thành công tốt đẹp, để lại dấu ấn sâu sắc trong
lòng bạn bè quốc tế, vai trị và uy tín của Việt Nam càng được khẳng định và
nâng cao.
Và giờ đây, năm 2015 - năm có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với dân tộc
Việt Nam - các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị đang lặp lại
giọng điệu cũ. Chỉ có điều, với sự phát triển như vũ bão của in-tơ-nét và sự
kết nối, tính tương tác của các mạng xã hội, tốc độ lan truyền của mấy luận
điệu này có vẻ nhanh hơn, dễ gây náo động hơn.
Tiến trình lịch sử và thực tiễn đất nước hơm nay cho thấy điều gì? 85
năm trước, ĐCS Việt Nam ra đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp. Những kẻ kiên trì bám lấy luận điệu “đảng tồn
trị” khơng hiểu hay cố tình khơng hiểu trong lịch sử Việt Nam, trước năm
1930 có nhiều phong trào và tổ chức yêu nước nhưng cuối cùng chỉ có tổ
chức của những người cộng sản là tồn tại và phát triển trước sự khủng bố điên
cuồng của chế độ thực dân. Khơng ai có thể dùng bất kỳ một xảo thuật nào để
phủ nhận thực tế chính ĐCS Việt Nam đã ln ln đứng mũi chịu sào, lãnh
đạo nhân dân giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu vĩ đại: tiến hành thành công
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam DCCH - nhà
10


nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông - Nam Á; tiến hành hai cuộc kháng
chiến vĩ đại, đánh bại các thế lực xâm lược hùng mạnh trong thế kỷ 20, góp
phần đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giải phóng hồn tồn miền nam,
non sơng thu về một mối năm 1975; và tiếp tục đưa đất nước vượt qua khủng
hoảng, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong cơng cuộc đổi
mới.

Trong 85 năm qua, không chỉ một lần, Đảng đã khéo léo, tự tin đưa dân
tộc thoát khỏi thế ngàn cân treo sợi tóc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lập kỳ
tích chấn động địa cầu, cùng viết nên những trang sử đẹp nhất của lịch sử Việt
Nam hiện đại. Đảng đã biết huy động cao nhất sức mạnh của cả dân tộc để
thắng kẻ thù xâm lược trong chiến tranh. Với trí tuệ, bản lĩnh và sự năng cảm,
Đảng lại biết khơi nguồn, nhân lên nội lực để thắng nghèo nàn lạc hậu trong
thời bình. Nếu khơng phải là một đảng chân chính, nếu khơng biết vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, nếu khơng trung
thành với lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc
thì ĐCS Việt Nam không thể lãnh đạo nhân dân đạt được những kỳ tích như
vậy. ĐCS Việt Nam xứng đáng là chính đảng cách mạng duy nhất được giai
cấp, dân tộc trao cho sứ mệnh lịch sử.
Điều 4 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã chế định rõ: “Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Hiến pháp Việt Nam thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân Việt Nam, đã được toàn dân thảo luận rộng rãi và được
Quốc hội thông qua. Sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam được ghi ở Điều 4 của
Hiến pháp chính là sự lựa chọn dứt khốt của tồn dân tộc Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam khơng chỉ được khẳng định trong
lịng nhân dân Việt Nam mà cịn được thế giới thừa nhận, tơn trọng, và đánh
11


giá cao. Không chỉ các nước anh em, bạn bè truyền thống, mà ngay một số
nước như Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ơ-xtrây-li-a, Thái-lan… đã mời Tổng
Bí thư ĐCS Việt Nam thăm chính thức và đón tiếp với nghi thức dành cho
nguyên thủ quốc gia. Mới đây nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kết thúc

tốt đẹp chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của chính quyền Tổng
thống B. Ơ-ba-ma. Nhìn từ mọi góc độ, trên mọi phương diện, đây thật sự là
một chuyến đi lịch sử! Thành công đối ngoại nổi bật này đã thể hiện tầm nhìn
chiến lược của Đảng ta, mở ra cục diện mới, góp phần tăng cường vị thế của
đất nước.
Cách đây 20 năm, khó có thể hình dung tại Phịng Bầu dục trong Nhà
Trắng ở Oa-sinh-tơn, Tổng Bí thư ĐCS Việt Nam đàm đạo cởi mở, thân mật
và thực chất như vậy với Tổng thống Mỹ. Nước Mỹ khơng có hệ thống thể
chế và vị trí lãnh đạo tương ứng như Việt Nam, nên việc lần đầu Tổng thống
B. Ơ-ba-ma đón tiếp với nghi lễ chính thức rất trang trọng dành cho người
đứng đầu một đảng chính trị, mà đó lại là ĐCS Việt Nam thì quả thật là một
sự kiện đặc biệt, vượt quá suy nghĩ thông thường của nhiều người. Qua
chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nước
Mỹ đã tái khẳng định việc tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam - điều
quan trọng này đã được xác định trong chuyến thăm Mỹ tháng 7-2014 của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác toàn
diện. Chuyến thăm nước Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đồng
thời cho thấy siêu cường số một thế giới thừa nhận tính chính danh và vai trị
lãnh đạo đất nước của ĐCS Việt Nam. Chuyến đi đầy dự cảm thời cuộc này là
sự tiếp nối những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử của Việt Nam trong
30 năm đổi mới, là kết quả của sự khẳng định vai trị, uy tín ngày càng tăng
cao của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Khơng chỉ mang tính biểu tượng, bằng các kết quả rất quan trọng được
thể hiện trong Tuyên bố về Tầm nhìn chung Việt Nam - Hoa Kỳ; bằng sự
nhận thức và hiểu biết lẫn nhau thông qua các cuộc gặp, hội kiến với các nhà
12


lãnh đạo, các chính khách Mỹ nổi tiếng; bằng các thỏa thuận trên nhiều lĩnh
vực được ký kết, chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã

tạo một dấu mốc lịch sử trong quan hệ hai nước. Với những đặc thù quan hệ
giữa hai quốc gia từng là cựu thù trong một cuộc chiến tranh vô cùng khốc
liệt, có thể chế chính trị khác nhau, điều vơ cùng quan trọng - như Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh là: “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt,
phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”. Nền tảng của mối quan hệ chính
là lịng tin. Mà lịng tin chỉ được tạo dựng trên cơ sở của sự hiểu biết lẫn nhau,
thật sự tôn trọng độc lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, tơn trọng thể chế chính
trị của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Lòng tin sẽ tiếp
tục được bồi đắp bằng việc đẩy mạnh tiếp xúc giao lưu trên tất cả kênh, các
cấp, trong các tầng lớp nhân dân.
Vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam không chỉ được nêu rõ trong Hiến
pháp, mà điều cốt lõi và quan trọng nhất là vai trị đó hiển hiện rất rõ qua thực
tiễn cách mạng Việt Nam, được chứng minh bằng các thành tựu to lớn, thể
hiện sự phát triển không ngừng của đất nước, bằng cuộc sống ngày càng ấm
no, hạnh phúc của người dân, bằng niềm tin mãnh liệt của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, bằng sự thừa nhận, tôn trọng của cộng đồng quốc tế. Trải
qua những biến động thăng trầm, vượt qua khơng ít thử thách, hiểm nguy,
càng thấy sáng ngời chân lý: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - chân lý
được viết bằng máu của biết bao thế hệ người Việt Nam. Chỉ có độc lập dân
tộc mới tạo được tiền đề, nền tảng vững chắc để xây dựng CNXH, và chỉ có
CNXH mới bảo đảm có độc lập dân tộc thật sự. Đó là cốt lõi của bản lĩnh, trí
tuệ Việt Nam kết tinh trong tài thao lược của ĐCS Việt Nam. Đó cũng là ý
nguyện của lòng dân đất Việt, là cội nguồn sức mạnh, là ánh sáng soi đường
để chúng ta đi tới! ĐCS Việt Nam vừa là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
trong suốt 85 năm qua của cách mạng Việt Nam, vừa là linh hồn của cuộc
kiến tạo tương lai. Sứ mệnh lịch sử, sự thật lịch sử đầy sức thuyết phục đó

13



hoàn toàn bác bỏ luận điệu sai trái “Thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là
độc đảng, tồn trị”.
(Cịn nữa)
HỒ
QUANG LỢI
Phân tích:
Bài “Sứ mệnh - chân lý lịch sử” trong loạt bài “Sự thật không thể xuyên
tạc” của Hồ Quang Lợi là một bài báo thuộc thể loại chính luận. Trong bài
này điều đầu tiên người đọc có thể nhận ra ngay là ngơn ngữ sự kiện, ví dụ
như: “Sứ mệnh - chân lý lịch sử” ngay tiêu đề của bài báo đã mang tính chất
sự kiện, “Đất nước ta đã trải qua 30 năm đổi mới đầy thử thách và sáng tạo.
Chưa bao giờ đất nước có một cơ đồ tươi sáng như hiện nay. Chúng ta tự tin
đến với thế giới với mức độ hội nhập ngày càng sâu rộng, và thế giới hào
hứng đến với chúng ta - một đất nước dồi dào tiềm năng, giàu sinh khí và khát
vọng vươn tới. Dù cịn phải đối mặt với nhiều gian khó, thử thách, nhưng cả
dân tộc vẫn đang tràn đầy niềm lạc quan hướng tới tương lai. Trong khi đó,
các thế lực thù địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về
tư tưởng lại liên tục đưa ra những luận điệu với tần suất cao, rằng: “Thể chế
chính trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, toàn trị”. Điều đó cho thấy họ đang
cố tình bơi ngược trên dịng sơng đất nước. Bất chấp thực tế đất nước đã vượt
qua muôn trùng thử thách và đang phát triển mạnh mẽ, được thế giới nể trọng,
họ vẫn đeo cặp kính đen đầy thiên kiến, lệch lạc để phán xét tình hình Việt
Nam, về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” đoạn mở đầu này đã
phản ánh được thực tế Việt Nam hiện nay cũng như những vấn đề mà đất
nước chúng ta đang phải đối mặt với những thế lực thù địch.
Tác giả đã khách quan khi nói rằng “Dù cịn phải đối mặt với nhiều
gian khó, thử thách, nhưng cả dân tộc vẫn đang tràn đầy niềm lạc quan hướng
tới tương lai”. Đó là thực tế của Việt Nam nhưng bên cạnh đó tác giả cũng nói
khái quát về các thế lực thù địch chống Đảng “Trong khi đó, các thế lực thù
14



địch, một số kẻ cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, suy thoái về tư tưởng lại
liên tục đưa ra những luận điệu với tần suất cao, rằng: “Thể chế chính trị ở
Việt Nam hiện nay là độc đảng, tồn trị”. Điều đó cho thấy họ đang cố tình
bơi ngược trên dịng sơng đất nước”. Tác giả đã thể hiện một lát cắt nhỏ
nhưng khái quát nhất về tình hình hiện nay của đất nước.
Xuyên suốt bài bình luận là ngơn ngữ sự kiện mang tính thiết thực
nhưng bên cạnh đó siêu ngơn ngữ cũng được tác giả sử dụng một cách hợp lý
làm cho bài viết sâu sắc hơn như: ““Thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là
độc đảng, tồn trị”, vậy có gì mới từ thứ luận điệu này?” đây là một câu hỏi
mà tác giả đặt ra với chính những ngơn từ mà các thế lực thù địch nói về
Đảng, tác giả đưa ra câu hỏi nhằm mục đích sẽ giải thích cho mọi người và
chính các thế lực thù địch này. Câu hỏi này xuất hiện sẽ làm cho người đọc
chú ý hơn về những luận cứ, bằng chứng mà tác giả sẽ đưa ra sau đó, điều này
làm tăng sức hấp dẫn của bài báo cũng như gợi lên sự tò mò trong lịng người
đọc để tìm hiểu sâu hơn. “một số kẻ tự xưng là yêu nước, là nhà hoạt động
dân chủ” tác giả muốn nói đến những thế lực thù địch tuy khơng nêu tên ra
nhưng khi nói thế này thì người đọc sẽ hiểu được đó là ai, đó là những thành
phần nào.
Một đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ trong bài báo này là độ không xác
định. Ngôn ngữ với độ khơng xác định thể hiện ở tính hấp dẫn, cô đọng, hàm
súc của từ ngữ của các luận cứ luận điểm, về những ví dụ cụ thể làm cho
người đọc cứ muốn đọc tiếp. Các ví dụ của tác giả đưa ra làm cho người đọc
không thể đoán trước được, với cấu trúc mở tác giả đã đưa người đọc đi từ
khái quát đến cụ thể từng vấn đề, những câu hỏi được tác giả giải thích hợp lý
bằng giọng điệu vừa mềm mỏng vừa đanh thép. Ví dụ: “Nhớ năm 2006, trong
dịp diễn ra Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội”, “Điều 4 Hiến pháp
Việt Nam năm 2013”, “việc lần đầu Tổng thống B. Ơ-ba-ma đón tiếp với nghi
lễ chính thức rất trang trọng dành cho người đứng đầu một đảng chính trị, mà


15


đó lại là ĐCS Việt Nam thì quả thật là một sự kiện đặc biệt, vượt quá suy nghĩ
thông thường của nhiều người”…
“Sứ mệnh - chân lý lịch sử” là bài bình luận sâu sắc, mang giá trị cũng
như tầm ý nghĩa lớn. Ngôn ngữ hàm súc cô đọng dễ đi vào lòng người cộng
thêm cách lập luận chặt chẽ, ví dụ sinh động đã làm nên một bài báo chính
luận mang tầm cỡ Hồ Quang Lợi.
3, Ba bài “Sự thật không thể xuyên tạc” trên báo nhandan.com.vn
Bài 2: Dân chủ, nhân quyền: Đâu phải giấc mơ xa
“Đảng Cộng sản Việt Nam kìm hãm tự do, dân chủ, vi phạm nhân
quyền, chia rẽ dân tộc” - đó là luận điệu mà các thế lực thù địch, một số kẻ cơ
hội chính trị cấu kết với nhau rêu rao từ nhiều năm nay; và tới năm 2015 này,
khi chúng ta tiến hành Đại hội Đảng các cấp, nhất là càng gần đến thời điểm
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII được tổ chức, thì họ càng ra sức cơng
kích. Vậy đâu là sự thật?
Các thế lực thù địch và mấy nhóm người cơ hội chính trị nói trên khơng
tiếc lời ca tụng, khuếch trương quan điểm dân chủ, nhân quyền của phương
Tây, đồng thời trắng trợn vu cáo, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở
Việt Nam. Trước hết, cần thấy rằng, cách thức một số giới phương Tây đã và
đang đẩy tới cuộc tiến công vào dân chủ, nhân quyền đã làm khơng ít người
lo ngại trận địa này sẽ trở thành một “điểm nóng xung đột” rất gay gắt về tư
tưởng, văn hóa. Thực tế cho thấy những người chủ mưu đã tung tiền bạc tổ
chức, đặc biệt là giúp các tổ chức lưu vong ở “hải ngoại”, tiến hành vô số hội
thảo, hội nghị, tọa đàm, gặp gỡ, trao đổi ý kiến... về dân chủ, nhân quyền. Họ
năng nổ cử các đoàn đại biểu đa dạng về thành phần,… tới các xứ sở mà họ
coi là “sa mạc về nhân quyền” để điều tra, thẩm vấn, xét hỏi,... “các vụ vi
phạm”. Cho dù đa số “đại biểu” là “diễn viên” vốn được xếp hạng trong

“gánh hát nhân quyền”, nhưng họ vẫn ngang nhiên tỏ rõ thái độ áp đặt, trịch
thượng, kẻ cả với các nước họ đến “dạy dỗ”, thậm chí ngay với lãnh đạo các
quốc gia này!
16


Cuối tháng 5-2015 vừa qua, khi tiếp Thượng nghị sĩ J. Mắc-kên cùng
đoàn Thượng nghị sĩ Mỹ thăm Việt Nam, đề cập các câu hỏi của các vị khách
Mỹ về xử lý các vấn đề về đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) và vấn đề nhân quyền, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy
Hà Nội Phạm Quang Nghị nêu rõ: “Quốc hội Việt Nam đang họp, nhấn mạnh
rất nhiều đến quyền của người lao động. Chúng tơi khơng có lý do gì để
khơng quan tâm đến người lao động. Tương tự, vấn đề nhân quyền cũng như
vậy. Chúng tôi luôn nỗ lực đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là
nhân quyền lớn nhất. Tăng cường quan hệ với Mỹ, tham gia Hiệp định TPP
cũng là để tăng thêm việc làm, tăng thêm thu nhập của người lao động, đó
cũng là nhân quyền. Việt Nam chúng tôi thực hiện nhân quyền trong điều kiện
thu nhập quốc dân tính theo đầu người chưa đạt 3.000 USD, nếu chúng tơi có
được 40.000 - 50.0000 USD như của các ngài thì bước tiến về nhân quyền ở
Việt Nam sẽ khác xa. Chính vì thế, mong các ngài có quan điểm chia sẻ, tiếp
cận vấn đề phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam. Hy vọng hai
bên sẽ đẩy nhanh đàm phán để giải quyết những tồn tại”.
Một nhầm lẫn đáng tiếc, nếu khơng muốn nói đó là sự áp đặt của một
số thế lực phương Tây: họ mặc nhiên coi những giá trị phương Tây là giá trị
chung của toàn nhân loại! Hễ ở đâu, có ai đó làm điều gì trái ý là họ lập tức
lên giọng phán xét đó là “chà đạp dân chủ, vi phạm nhân quyền”. Họ làm ngơ
hoặc vờ như khơng biết rằng, làm sao có thể tách nhân quyền ra khỏi các điều
kiện lịch sử, địa lý, văn hóa, trình độ phát triển của các quốc gia, dân tộc. Đó
là căn nguyên lý giải tại sao một tín đồ của Chúa Giê-su sẽ tơn thờ những giá
trị tinh thần khơng hồn tồn giống một tín đồ của Thánh A-la; một người dân

Xô-ma-li sinh sống trên sa mạc cháy bỏng sẽ khơng dám địi hỏi những điều
kiện vật chất giống như người dân Mỹ; và khi một công dân Mỹ tới Xin-ga-po
vẽ bậy lên tường, bị luật pháp nước này phạt 50 roi, lại bị phía Mỹ nhìn nhận
là “một sự vi phạm nhân quyền”, cịn phía Xin-ga-po lại khẳng định nếu
khơng xử phạt anh ta mới là vi phạm nhân quyền của người khác…
17


Dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển đất nước. Chúng ta đã và đang từng bước hoàn thiện nền dân chủ, bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Điều gì đã giúp cho Nhà nước ta vượt qua tất cả thử thách cam go, tình
thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc” trong các cuộc kháng chiến cứu nước
trước đây cũng như ở thời điểm “chuyển dời dâu bể” sau khi chế độ XHCN ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhiều cuộc giông bão do các cuộc khủng hoảng
kinh tế gây ra? Một trong những nhân tố quan trọng nhất là sự gắn bó máu thịt
của toàn dân ta với Đảng, với Nhà nước của mình. Đó là Nhà nước do chính
nhân dân gây dựng nên và Nhà nước đó lại phục vụ chính nhân dân. Căn
nguyên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam là do Đảng ta đã kế thừa và
phát huy cao độ bài học lấy dân làm gốc đã được cha ông đúc kết từ nghìn
xưa. Thế kỷ 15, Nguyễn Trãi từng viết: “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”. Và giữa thế kỷ 20, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong bầu trời
khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”. Chúng ta xác lập cơ chế đúng đắn Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước đều
nhằm mục đích cao nhất là vì quyền lợi và hạnh phúc của nhân dân. Đặt con
người vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược phát triển là sự xác định dứt
khốt của Đảng và Nhà nước ta. Mọi cơng việc của Đảng đều có sự tham gia
của tồn dân.
Dân chủ ở nước ta được thể hiện, tăng cường và có cơ chế để bảo đảm

thực hiện trên nhiều lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, hệ thống pháp luật, tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước. Về chính trị, dân chủ thể hiện ở việc
Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và dân
tộc, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều vì dân;
cơng việc của Đảng được coi là cơng việc của tồn dân. Dân chủ thể hiện rõ
nét qua các quy định được nêu nhất quán trong các bản Hiến pháp: “Nhà nước
CHXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Quyền lực nhà
18


nước thuộc về tồn dân, chứ khơng hề nằm trong tay một tổ chức, một nhóm
hay một cá nhân nào. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình qua hai
hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Nhân dân có quyền tố cáo, khiếu nại các cá
nhân có hành vi vi phạm pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Rõ ràng, gần gũi và sống động nhất về dân chủ trong chính trị ở thời điểm
hiện nay là việc góp ý kiến vào Văn kiện đại hội Đảng các cấp đang diễn ra
sôi nổi khắp mọi nơi, từ trung ương đến địa phương với sự tham gia của mọi
tầng lớp nhân dân. Đảng tôn trọng tối đa mọi ý kiến đóng góp của nhân dân,
kể cả các ý kiến phản biện mang tính xây dựng. Quyền của người dân còn
được thể hiện qua các cơ quan đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể... Mọi vấn đề thiết yếu đều được đưa ra
bàn thảo trước khi quyết định. Trên diễn đàn Quốc hội kỳ họp vừa qua đã diễn
ra rất sôi nổi cuộc thảo luận về Luật Trưng cầu ý dân. Đặc biệt từ nhiều năm
nay, các phiên chất vấn của Quốc hội đều được truyền hình trực tiếp để tồn
dân theo dõi, giám sát. Rất ít quốc gia trên thế giới, ngay cả một số nước
phương Tây làm được việc này. Nếu không tôn trọng quyền dân chủ của nhân
dân thì khơng thể có những sinh hoạt dân chủ như vậy.
Dân chủ về kinh tế thể hiện qua cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tạo điều kiện cho mọi công dân phát huy quyền tự chủ của mình
trong sản xuất, kinh doanh. Ở Việt Nam, ngồi kinh tế Nhà nước, cịn có các

thành phần kinh tế khác được tạo điều kiện phát triển, cạnh tranh bình đẳng.
Kinh tế ngồi quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế Việt Nam, góp
phần quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước, tạo nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.
Hiến pháp Việt Nam 2013 có hẳn một chương về nhân quyền với
những điều luật cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn đời sống chính trị - xã
hội Việt Nam. Về hiến định là như vậy, còn trên thực tế, dân chủ, nhân quyền
ở Việt Nam đang hiển hiện trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên,
phấn đấu cho dân chủ, nhân quyền là quá trình liên tục. Trình độ phát triển
19


kinh tế - xã hội chính là nền tảng cơ bản tạo ra điều kiện và khả năng khách
quan cho việc thực hiện ngày một tốt hơn dân chủ và nhân quyền. Nhận thức
được rằng đất nước cịn nhiều khó khăn, người dân ở nhiều nơi cịn nghèo
khổ; khơng ít nơi vẫn cịn có tình trạng bất cơng, vi phạm dân chủ, Đảng và
Nhà nước ta đang rất nỗ lực để tăng cường, phát huy dân chủ, cố gắng làm
mọi điều có thể để nhân dân được hưởng những giá trị vật chất và tinh thần
ngày càng tiến bộ hơn.
Trong lĩnh vực tơn giáo, cơng dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào. Tuy nhiên, pháp luật Nhà nước cũng
nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tơn giáo để xúi giục, kích
động và lơi kéo người dân làm việc trái pháp luật. Nhiều năm nay, trong các
báo cáo về nhân quyền, tôn giáo trên thế giới, một số giới ở phương Tây được
sự tiếp tay của một số kẻ cơ hội chính trị thường thiếu thiện chí khi nói về
Việt Nam. Trong khi họ la lối Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, thì rất
nhiều chính khách ở phương Tây, sau khi thăm Việt Nam trở về, đã tuyên bố
rằng, trước đây do thiếu thông tin, hoặc tiếp xúc với những thơng tin sai lệch
nên đã có nhận thức không đúng về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.
Họ khẳng định, Chính phủ Việt Nam đang cố gắng cải thiện đời sống vật chất,

tinh thần của nhân dân. Việc Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 68 bỏ phiếu
bầu 14 nước thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016,
trong đó Việt Nam trúng cử với số phiếu cao nhất (184/192 phiếu) là sự kiện
có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trong nỗ lực triển khai chính
sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế; là minh
chứng sống động và thuyết phục về sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối
với các thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các
quyền của người dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn
hóa, giáo dục, tơn giáo, tín ngưỡng…
Trong bối cảnh quan hệ Việt - Mỹ đang phát triển ngày càng tốt đẹp,
cuộc đối thoại giữa hai nước về nhân quyền lần thứ 19, tháng 5-2015 vừa qua
20


đã diễn ra trong bầu khơng khí cởi mở, thực chất, xây dựng. Với tinh thần đối
thoại như vậy, sẽ có cách nhìn khách quan và thực tiễn, khơng để những vấn
đề còn khác biệt, tồn đọng ảnh hưởng đến việc xây dựng lòng tin, cản trở đà
tiến triển của mối quan hệ hai nước. Trong cuộc thảo luận tại Nhà trắng với
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống B. Ô-ba-ma tin tưởng sẽ giải
quyết được một số vấn đề cịn khác biệt thơng qua các nỗ lực ngoại giao,
không chỉ trong khuôn khổ song phương mà cả đa phương, qua hợp tác
ASEAN. Trên tinh thần đó, thật đáng khích lệ, đến cuối tháng 7-2015, cuộc
đàm phán Việt - Mỹ về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương đã đạt được
kết quả tích cực.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã xây dựng một nền
văn hóa lấy tinh thần độc lập, tự do làm nền tảng. Vì quyền được sống trong
phẩm giá chân chính của con người, dân tộc độc lập, nhân dân tự do, ấm no
hạnh phúc - khát vọng về nhân quyền lớn nhất mà nhân dân Việt Nam đã anh
dũng chiến đấu, hàng triệu người con của đất nước đã hy sinh trong các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỷ 20. Sau nhiều cuộc chiến tranh khốc

liệt, chúng ta đang cố gắng làm hết sức mình để 54 dân tộc trong đại gia đình
các dân tộc Việt Nam được hưởng những giá trị vật chất và tinh thần ngày
càng tiến bộ hơn. Một dân tộc như thế ắt biết thẩm định, tôn trọng, phấn đấu
cho dân chủ, nhân quyền, cho quyền lợi thiết thực, hạnh phúc đích thực của
nhân

dân,

cho

những

giá

trị

cao

quý

nhất

của

nhân

loại.

Hồ Quang Lợi
Phân tích:

Bài “Dân chủ, nhân quyền: Đâu phải giấc mơ xa” là bài chính luận tiếp
nối bài “Sứ mệnh – chân lý lịch sử”, vẫn mang một giọng điệu mềm mại mà
đanh thép đầy chất chính luận của Hồ Quang Lợi. Trong bài này tác giả tiếp
tục đưa ra những luận điểm những ví dụ cụ thể để chứng minh cho người đọc
cũng như cho chính những thế lực thù địch thấy rằng không phải ngẫu nhiên
hay vô cớ mà Đảng tồn tại phát triển được đến ngày hôm nay.
21


Ngôn ngữ trong bài là ngôn ngữ sự kiện được chọn lọc, phản ánh đúng
thực tế đang diễn ra “Đảng Cộng sản Việt Nam kìm hãm tự do, dân chủ, vi
phạm nhân quyền, chia rẽ dân tộc” - đó là luận điệu mà các thế lực thù địch,
một số kẻ cơ hội chính trị cấu kết với nhau rêu rao từ nhiều năm nay; và tới
năm 2015 này, khi chúng ta tiến hành Đại hội Đảng các cấp, nhất là càng gần
đến thời điểm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII được tổ chức, thì họ càng
ra sức cơng kích”. “Cuối tháng 5-2015 vừa qua, khi tiếp Thượng nghị sĩ J.
Mắc-kên cùng đoàn Thượng nghị sĩ Mỹ thăm Việt Nam, đề cập các câu hỏi
của các vị khách Mỹ về xử lý các vấn đề về đàm phán Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và vấn đề nhân quyền, Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nêu rõ: “Quốc hội Việt Nam đang
họp, nhấn mạnh rất nhiều đến quyền của người lao động. Chúng tơi khơng có
lý do gì để khơng quan tâm đến người lao động. Tương tự, vấn đề nhân quyền
cũng như vậy. Chúng tôi luôn nỗ lực đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đó là nhân quyền lớn nhất. Tăng cường quan hệ với Mỹ, tham gia Hiệp định
TPP cũng là để tăng thêm việc làm, tăng thêm thu nhập của người lao động,
đó cũng là nhân quyền. Việt Nam chúng tôi thực hiện nhân quyền trong điều
kiện thu nhập quốc dân tính theo đầu người chưa đạt 3.000 USD, nếu chúng
tơi có được 40.000 - 50.0000 USD như của các ngài thì bước tiến về nhân
quyền ở Việt Nam sẽ khác xa”…
Tác giả cũng khẳng định bản chất của Đảng Cộng Sản là dân chủ, vì

dân mà phục vụ: “Dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển đất nước. Chúng ta đã và đang từng bước hoàn thiện nền
dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Tác giả đã
dùng lý lẽ chặt chẽ để khẳng định và phân tích nền dân chủ ở nước ta hiện nay
“Dân chủ ở nước ta được thể hiện, tăng cường và có cơ chế để bảo đảm thực
hiện trên nhiều lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, hệ thống pháp luật, tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Về chính trị, dân chủ thể hiện ở việc Đảng
Cộng sản Việt Nam là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và dân tộc,
22


mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều vì dân;
cơng việc của Đảng được coi là cơng việc của tồn dân. Dân chủ thể hiện rõ
nét qua các quy định được nêu nhất quán trong các bản Hiến pháp: “Nhà nước
CHXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Quyền lực nhà
nước thuộc về tồn dân, chứ khơng hề nằm trong tay một tổ chức, một nhóm
hay một cá nhân nào. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình qua hai
hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Nhân dân có quyền tố cáo, khiếu nại các cá
nhân có hành vi vi phạm pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Rõ ràng, gần gũi và sống động nhất về dân chủ trong chính trị ở thời điểm
hiện nay là việc góp ý kiến vào Văn kiện đại hội Đảng các cấp đang diễn ra
sôi nổi khắp mọi nơi, từ trung ương đến địa phương với sự tham gia của mọi
tầng lớp nhân dân. Đảng tôn trọng tối đa mọi ý kiến đóng góp của nhân dân,
kể cả các ý kiến phản biện mang tính xây dựng. Quyền của người dân còn
được thể hiện qua các cơ quan đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể... Mọi vấn đề thiết yếu đều được đưa ra
bàn thảo trước khi quyết định. Trên diễn đàn Quốc hội kỳ họp vừa qua đã diễn
ra rất sôi nổi cuộc thảo luận về Luật Trưng cầu ý dân. Đặc biệt từ nhiều năm
nay, các phiên chất vấn của Quốc hội đều được truyền hình trực tiếp để tồn
dân theo dõi, giám sát. Rất ít quốc gia trên thế giới, ngay cả một số nước

phương Tây làm được việc này. Nếu không tôn trọng quyền dân chủ của nhân
dân thì khơng thể có những sinh hoạt dân chủ như vậy”. “Hiến pháp Việt Nam
2013 có hẳn một chương về nhân quyền với những điều luật cụ thể, rõ ràng,
phù hợp với thực tiễn đời sống chính trị - xã hội Việt Nam. Về hiến định là
như vậy, còn trên thực tế, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đang hiển hiện
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội”…
Trong bài này siêu ngôn ngữ được sử dụng không nhiều nhưng lại rất
hợp lý, không phản ánh thẳng vào sự kiện vấn đề mà bằng cách gián tiếp tác
giả đã vẫn nói được điều mình cần nói. Bài viết sâu sắc đi thẳng vào vấn đề,
những lý lẽ kèm theo ví dụ và lối viết hấp dẫn đã làm cho người đọc thêm
23


hứng thú tìm hiểu sâu hơn các tác phẩm khác của tác giả. Đây là một thành
công của tác giả.
Ngôn ngữ trong tác phẩm mang tính hấp dẫn cao, được chọn lọc kỹ
càng, cô đọng và hàm súc gợi lên sự lien tưởng nhưng lại khơng làm cho
người đọc đốn trước được. Với cấu trúc dễ hiểu nhưng không kém phần
thuyết phục người đọc như bị cuốn vào từng câu chữ trong tác phẩm.
Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong quá khứ là quan hệ đối nghịch, là
kẻ thù của nhau nhưng khi viết bài này tác giả đã khôn khéo đưa ra dẫn chứng
để khẳng định nước Mỹ đang tích cực ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam rất nhiều.
Điều đó phản ánh chân thực khách quan về sự kiện có thật, cũng là cụ thể hố
ngơn ngữ sự kiện trong ngơn ngữ báo chí: “Trong bối cảnh quan hệ Việt - Mỹ
đang phát triển ngày càng tốt đẹp, cuộc đối thoại giữa hai nước về nhân quyền
lần thứ 19, tháng 5-2015 vừa qua đã diễn ra trong bầu khơng khí cởi mở, thực
chất, xây dựng. Với tinh thần đối thoại như vậy, sẽ có cách nhìn khách quan
và thực tiễn, khơng để những vấn đề cịn khác biệt, tồn đọng ảnh hưởng đến
việc xây dựng lòng tin, cản trở đà tiến triển của mối quan hệ hai nước. Trong
cuộc thảo luận tại Nhà trắng với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống

B. Ô-ba-ma tin tưởng sẽ giải quyết được một số vấn đề còn khác biệt thông
qua các nỗ lực ngoại giao, không chỉ trong khuôn khổ song phương mà cả đa
phương, qua hợp tác ASEAN. Trên tinh thần đó, thật đáng khích lệ, đến cuối
tháng 7-2015, cuộc đàm phán Việt - Mỹ về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương đã đạt được kết quả tích cực”.
Tác giả đã kết hợp hợp lý các yếu tố về ngôn ngữ, lập luận, bố cục… để
làm nên một tác phẩm báo chí bình luận xt sắc và mở ra một vấn đề nữa để
người đọc có thể thoả mãn nhu cầu tìm hiểu sâu hơn nữa những thực tế về
Đảng và cuộc đấu tranh với các thế lực thù địch.
4, Ba bài “Sự thật không thể xuyên tạc” trên báo nhandan.com.vn
Bài 3: Đổi mới: Cây đời xanh tươi

24


“Đảng Cộng sản Việt Nam đẩy đất nước lâm vào khủng hoảng tồn
diện, đang cản trở tiến trình phát triển của đất nước, khiến Việt Nam ngày
càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh”. Đó là luận điệu các thế lực thù
địch, được sự tiếp tay của một số kẻ cơ hội chính trị, suy thối về tư tưởng ra
sức gieo rắc, gây phân tâm xã hội, kích động nhằm từng bước xóa bỏ vai trị
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Nhớ lại, một phần tư thế kỷ trước, khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xơ và Đơng Âu sụp đổ, có khơng ít kẻ đã hăm hở mơ về một ngày “đắm
thuyền” không xa ở Việt Nam. Họ cho rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam sẽ
không tồn tại được lâu sau khi “bầu sữa” từ bên ngồi bị cắt đứt. Đó thật sự là
thời kỳ nguy nan, “lửa thử vàng” của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam. Từ một đất
nước bị tàn phá nặng nề vì chiến tranh xâm lược, bị các thế lực thù địch điên
cuồng chống phá, bao vây, cấm vận, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai
khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã đứng vững và đi lên. Trong một thế giới đang

tồn cầu hóa mạnh mẽ, cuồn cuộn bão giông thế sự, đan chéo cực kỳ phức tạp
các mối quan hệ để đuổi bắt lợi ích quốc gia - dân tộc, con tàu Việt Nam vẫn
kiên gan vượt qua bao thác ghềnh, hướng tới chân trời tươi sáng.
Nắm bắt được xu thế thời đại, Đảng ta đã sớm đề ra đường lối đổi mới
phù hợp với lợi ích tối cao của đất nước, của dân tộc. Chế độ XHCN ở Việt
Nam đã biết tự bảo vệ khi đổi mới không phải là một khẩu hiệu chính trị khơ
khan mà đã trở thành cây đời xanh tươi ăn sâu bén rễ trong lòng người.
Sau 10 năm đổi mới (1986 - 1996), đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội; sau 25 năm đổi mới (1986 - 2010), đất nước đã ra khỏi tình
trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung
bình. Và trong giai đoạn 2001 - 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ
bình quân là 7,26%/năm. Trong 5 năm 2011 - 2015, do tác động của khủng
hoảng tài chính thế giới và suy thối kinh tế tồn cầu, nền kinh tế Việt Nam
gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Năm 2014, trong điều kiện
25


×