Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

LỄ HỘI DINH CÔ Ở BÀ RỊA VŨNG TÀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 17 trang )

----------

BÀI TIỂU LUẬN
LỄ HỘI DINH CÔ Ở BÀ RỊA- VŨNG TÀU.

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC

2


PHẦN TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Là 1 quốc gia có đường bờ biển dài 2360km. Tự cổ chí kim, biển
trong tâm thức của người dân Việt Nam là một phần khơng thể thiếu.
Biển khơng những giữ vai trị quan trọng đối với kinh tế của các cư dân
người Việt qua các thời kỳ, biển cịn đóng vai trị lớn trong q trình
sản sinh những đặc trưng văn hóa vùng và tiểu vùng ven biển. Đồng
thời biển còn là con đường tiếp biến và giao thoa giữa nền văn hóa bản
địa Việt và các dịng văn hóa khác trên thế giới như văn hóa Ấn Độ,
văn hóa Nhật Bản, văn hóa phương Tây... qua các giai đoạn lịch sử của
đất nước. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian cư dân
ven biển mang ý nghĩa cấp thiết.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa cư dân ven biển đối với
công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, và với mục đích hiểu biết rõ hơn diện mạo văn hóa
và bản sắc văn hóa người Việt vùng ven biển, việc nghiên cứu văn hóa
tín ngưỡng dân gian cư dân ven biển là một tất yếu khách quan, đáp
ứng thực tiễn của thời đại.


Trong dòng chảy văn hóa tín ngưỡng, hầu hết các vị thần được cư
dân ven biển nước ta tôn thờ vốn đều mang yếu tố biển cả, sơng nước,
bến bãi…có lai lịch công trạng và là niềm tin về quyền năng cứu giúp,
là vị thần hộ mệnh cho cư dân của cả một vùng ven biển. Tín ngưỡng
thờ Cơ nhằm đem đến nhiều may mắn cho ngư dân làm nghề đánh cá,
ra khơi vào lộng. Đây là một dạng thức thờ nhân thần, vị thần độ mạng
cho những người đi biển. Vì vậy tín ngưỡng thờ Cơ gắn liền với lễ hội
Dinh Cơ là một tín ngưỡng hết sức đặc sắc và có từ lâu đời của cư dân
ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Lễ hội Dinh
Cô ở Bà Rịa - Vũng Tàu” để trang bị hành trang cho bản thân những
kiến thức hay và bổ ích để sống và làm việc trong thời đại phát triển
nhanh chóng như ngày nay. Đồng thời giới thiệu cho những ai chưa biết
sẽ được tiếp cận.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Đề tài nghiên cứu này chỉ ra được nét đặc trưng cơ bản về tín
ngưỡng thờ Cơ, gắn liền với đó là lễ hội Dinh Cơ. Đồng thời trình bày
vai trị và chức năng cũng như làm rõ những giá trị của tín ngưỡng thờ
Cơ đối với đời sống tinh thần của ngư dân. Từ đó giúp người đọc hiểu
biết một cách sâu sắc hơn về bản sắc cư dân ven biển Bà Rịa - Vũng
Tàu.
3


3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là lễ hội Dinh Cơ - nét đẹp văn hóa của ngư
dân Bà Rịa – Vũng Tàu.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu gắn liền với định tính, đưa

ra các nhận định tri thức chủ yếu dựa vào các quan điểm. Bên cạnh đó
tơi cịn sử dụng các thao tác phân tích và tổng hợp dữ liệu từ nhiều
nguồn tìm được. Sàng lọc nguồn tư liệu thứ cấp. Từ đó hệ thống hóa
đối tượng và tiến hành phân tích vấn đề. Vận dụng lý thuyết Chức
Năng Luận để lý giải vai trị của tín ngưỡng thờ Cơ gắn liền với lễ hội
Dinh Cơ là điều gì đó thiêng liêng, quan trọng trong cuộc sống của cư
dân ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu.
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu.
Sau bài nghiên cứu, bản thân tôi đã có thêm những hiểu biết sâu
hơn về lễ hội Dinh Cơ ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngồi ra, bài nghiên cứu này
có thể cung cấp được phần nào kiến thức về một lễ hội cũng như nét
tín ngưỡng đặc sắc cho bạn đọc. Qua đó, có thể làm nổi bật cũng như
lan tỏa nét tín ngưỡng đặc trưng của cư dân ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu
nói chung. Góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc.

4


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Giáo sư Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam” cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá
nhân: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ
chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức
theo những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong
tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và
ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng).
Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan

trọng”.
Lễ hội đã tạo nên “tấm thảm mn màu. Mọi sự ở đó đều đan
quyện vào nhau, thiêng liêng và trần tục, nghi lễ và hồn hậu, truyền
thống và phóng khống, của cải và khốn khổ, cơ đơn và đồn kết, trí
tuệ và bản năng” ( Tạp chí Người đưa tin UNESCO tháng 12-1989).
Lễ hội Dinh Cơ là một lễ hội được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 âm
lịch tại thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây
là một lễ hội nước (lễ rước bằng tàu thuyền trên biển) có đơng người
tham dự. Ngày vía cơ trở thành lễ hội lớn thu hút rất đông khách từ
nhiều tỉnh thành khác đến. Các đội múa lân, dàn nhạc ngũ âm từ nhiều
tỉnh Nam bộ đến góp vui. Các nghi lễ trong ngày hội: lễ cầu an tại
chính điện vào đêm hơm trước. Bên ngoài diễn ra đêm hội hoa. Lễ rước
vào sáng 12 trên hàng chục chiếc ghe thuyền trang hoàng lộng lẫy để
cầu mong trời yên biển lặng, tôm cá đầy khoang.
2. Cơ sở thực tiễn
Tín ngưỡng thờ Cơ là mơt tín ngưỡng quan trọng và có từ rất lâu
đời trong hoạt động tín ngưỡng của cư dân ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu.
Là sản phẩm của nghề làm biển, làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của
5


ngư dân với ước nguyện bình an, tai qua nạn khỏi trước biển cả hung
hãn. Đồng thời, mong ước mùa màng bội thu, làm cho cuộc sống họ đủ
đầy, ấm no.
Hiện nay, tín ngưỡng thờ Cơ ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã và đang nhận
được nhiều sự quan tâm của chính quyền địa phương. Cơng tác bảo tồn
và phát huy giá trị lễ hội truyền thống được chú trọng. Lễ hội Dinh Cô
được tổ chức thường niên, ngày càng phát triển hơn, thu hút nhiều
khách du lịch, góp phần quảng bá nét văn hóa đặc sắc ở Bà Rịa - Vũng
Tàu, phát triển ngành du lịch tỉnh nhà.

II. ĐÔI NÉT VỀ CÔ VÀ DINH CÔ
1. Nguồn gốc, truyền thuyết về Cô
Truyền thuyết kể rằng, Cô tên thật là Nguyễn Thị Hồng Thủy, vốn
là người Bình Thuận, thường theo cha vào vùng Bà Rịa, Gị Cơng bn
bán. Một hơm, lúc thuyền đang đi qua mũi Thùy Vân thì Cơ bị dây kéo
buồm gạt xuống biển. Tuy những người đi cùng trên thuyền đã ra sức
tìm kiếm cứu giúp nhưng vẫn khơng tìm được. Thế rồi ba ngày sau đó,
người ta nhìn thấy xác Cơ nổi lên nơi vũng Mù U, được ngư dân thôn
Phước Hải mang về và chôn cất tử tế. Về sau, Cô trở nên hiển linh,
nhập vào xác đồng kể lại cái chết oan uổng của mình. Từ đó, dân làng
lập miếu thờ Cơ và tơn Cơ làm “Long Hải Thần Nữ”, lấy ngày Cô chết
(12/2) để cúng bái cũng như tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của
cô cũng như là dịp để bà con ngư dân vui chơi giải trí.
Nhân dân nơi đây rất tin tưởng vào sự linh thiêng của Cô. Họ tôn
sùng, cúng bái và tổ chức giỗ Cô rất trang trọng, tỉ mĩ. Sở dĩ có điều
này là vì ngư dân nơi đây cho rằng Cô đã nhiều lần phù hộ, chở che cho
dân chài, cứu giúp họ những lúc sóng to gió lớn, tính mạng đang lâm
nguy. Những lúc gặp may mắn, tôm cá đầy khoang, mùa màn bội thu
thì ngư dân thường tổ chức tạ cúng Cơ rất lớn, ăn mừng, tổ chức hát
bội… Ngồi ra, Cơ cịn hiển linh mộng báo điềm lành, diệt trừ dịch
bệnh. Lâu dần, những lời đồn đại về sự linh thiêng của Cô cứ thế lan
rộng ra, hằng năm thu hút rất đông khách thập phương đến viếng
thăm.
2. Kiến trúc Dinh Cô
Dinh Cô thuộc thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Là một khu đền có kiến trúc hoành tráng với những nét kiến
trúc truyền thống in đậm màu sắc văn hóa dân gian.
Lúc đầu Dinh Cơ chỉ là một ngôi miếu nhỏ đơn sơ làm bằng cây
lá. Năm 1930, để đền đáp công ơn to lớn của Cô ngư dân Long Hải đã
6



dời miếu thờ Cô lên đồi Thùy Vân ( vị trí cao ráo, phong cảnh đẹp).
Năm 1987 Dinh Cơ được xây dựng và sửa chữa lớn sau khi bị hỏa hoạn
và đến năm 2006 - 2007, Dinh Cô lại được trùng tu lại theo lối kiến trúc
cổ pha lẫn hiện đại.

Dinh Cơ ngày nay (Ảnh internet).
Hiện nay, Dinh Cơ có quy mơ đồ sộ với diện tích khoảng 1000m2,
dinh có 3 tầng được dựng theo hình tứ trụ, mái lợp ngói, lưng dựa vào
sườn núi Thùy Vân, mặt hướng ra biển, trông rất uy nghi. Cổng Tam
quan vào dinh nằm dưới chân mũi Thùy Vân, đắp nổi “Long Hổ hội”,
phía trên có “lưỡng Long chầu nguyệt” và “song Phụng chầu”. Lối lên
điện Cô là 37 bậc tam cấp. Tàu thuyền của ngư dân khi đi qua Dinh Cơ
thường có tập quán dừng lại ngoài khơi, thắp hương cúng vái rồi mới đi
tiếp.
3. Thờ cúng
Dinh cơ có một hệ thống hương án phức tạp thờ nhiều vị thánh
thần. Ngay trung tâm chánh điện là bàn thờ Cô, nổi bật với bức tượng
Cơ cao hơn 0,5m, mặc áo chồng đỏ (hoặc vàng), viền kim tuyến lấp
lánh, đội mũ gắn ngọc. Phía sau cạnh bàn thờ Cơ là bàn thờ Diêu Trì
Phật Mẫu, Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương (Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lơi, Pháp Điện), Ơng Địa, Thần Tài… Ở tường bên hữu
thờ ông bà thân sinh của Cô, tức ông Lê Văn Khương và bà Thạch Thị
Hà. Tường bên tả là bàn thờ Chúa Cậu (Nhị vị Công tử, tức cậu Tài, Cậu
Q, con của Bà Chúa Ngọc).
Ngồi chính điện, ngư dân còn lập bàn thờ Cửu Thiên Huyền Nữ,
Chúa Ngọc Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Chư vị, Bà Mẹ
7



Sanh, Tiền hiền, Hậu hiền,... và các miếu thờ: Hỏa Tinh Thánh Mẫu,
Quan Thánh Đế Quân, Quan Thế Âm Bồ Tát… các bàn thờ đều được
trang trí bằng hoa và có hương nến nghi ngút, tạo nên khơng khí linh
thiêng của 1 nơi thờ tự.

Gian thờ chính trong Dinh Cơ (Ảnh internet).
Người ta phối hợp thờ cúng Cô với một hệ thống thần thánh đơng
đảo có thể đại diện cho rất nhiều dịng văn hóa tín ngưỡng, tơn giáo
của nhiều dân tộc khác nhau (Việt, Chăm, Hoa… và Phật, Khổng,
Lão…). Trong đó, có thể thấy tín ngưỡng thờ “Mẫu” là nổi bật nhất.
Cùng với Dinh Cơ cịn có mộ Cơ nằm trên đồi Cô Sơn, cách Dinh
Cô chừng 1km. Mộ Cô cũng là một nơi thu hút nhiều người đến thăm
viếng, chiêm bái, đặc biệt là trong dịp diễn ra lễ Dinh Cô.

8


Mộ Cơ (Ảnh internet).
Với giá trị của một di tích in đậm bản sắc văn hóa dân tộc mà chủ
thể trực tiếp là ngư dân, những người sống bằng nghề biển ở tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, Dinh Cô đã được Bộ Văn hóa Thơng tin xếp hạng di tích
lịch sử văn hóa quốc gia theo quyết định số 65QĐ/BT ngày 16-01-1995.

III. DIỄN TRÌNH LỄ HỘI DINH CƠ
Hàng năm, cứ đến ngày mồng 10 tháng 02 âm lịch hàng chục
ngàn người ở khắp các miền quê tề tựu về Dinh Cô tham dự lễ hội. Đây
là lễ hội không thuộc loại lâu đời nhưng lại được coi là một trong những
lễ hội nước lớn nhất của ngư dân ven biển Nam Bộ.
Điều đặc biệt là, lễ hội Dinh Cô nằm trong hệ thống lễ hội thờ
Mẫu - Nữ thần tiêu biểu của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhưng đây

không đơn thuần chỉ thờ Mẫu - Nữ thần mà là sự kết hợp của lễ hội Cầu
Ngư với tục thờ cúng Thần biển (Bà Thủy Long, cá Voi của người Chăm)
và tín ngưỡng thờ Mẫu - Nữ thần của cư dân địa phương.
Hằng năm, lễ hội Dinh Cô thường mở trong 3 ngày (ngày 10, 11,
12 tháng 2 âm lịch), trong đó ngày chính là ngày cuối cùng. Từ sáng
ngày 10, khách trẩy hội từ các nơi xa đã ồ ạt đổ về đây. Đến ngày 11
thì khách đã đông nghẹt, các khách sạn, nhà trọ và nhà dân trong thị
trấn đều đầy ắp người. Các đội lân từ Sông Bé, dàn nhạc ngũ âm từ Trà
Vinh và những đội hát múa của một số nơi kết nghĩa với Dinh Cô cũng
đã tập hợp đông đủ. Tại nơi Dinh thờ, khách lên xuống cũng bái chen
9


chân không lọt. Do vậy ngay từ sáng mùng 10, ban quý tế đã tổ chức
lễ cúng, thường vật dâng cúng chủ yếu là hương hoa và trái cây.
Trong ngày lễ, Dinh Cơ được trang hồng hết sức rực rỡ, trang
nghiêm, có chăng đèn kết hoa. Các gia đình trong vạn ghe đều đặt bàn
hương, trên có nhang đèn, bánh trái, mâm xơi... ban đêm có treo đèn
lồng. Các tàu thuyền của ngư phủ đều đậu ở bến, mỗi chiếc đều treo
đèn giấy nhiều màu, kết hoa từ mũi đến lái, kể cả cột buồm. Những
chiếc thuyền ghe từ các làng cá như Long Hải, Phước Hải, Phước Tỉnh,
Vũng Tàu và một số thuyền ghe từ miền Trung vào đều trở nên rộng
lẫy. Vì thế, ban đêm ở đây hiện ra cảnh nhộn nhịp, huy hoàng của hội
hoa đăng. Thuyền ghe nào ở đây cũng hướng mũi vào trước Dinh Cô
thực hiện nghi thức trong lễ hội.
1. Lễ cầu an
Lễ này được diễn ra tại chính điện Dinh Cơ vào ngày 11 và thường
kéo dài đến nửa đêm. Buổi lễ có sự tham gia của các nhà sư của các
chùa lân cận trong vùng. Các nhà sư sẽ gõ mõ, tụng kinh cầu cho quốc
thái dân an, người người, nhà nhà làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn

trong cuộc sống.
Cùng lúc trong chính điện đang làm lễ thì bên ngồi Dinh Cơ cũng
đang diễn ra đêm hội hoa đăng tưng bừng, náo nhiệt. Từ trên bờ, bãi
biển đến tận ngoài khơi, đèn điện sáng trưng cả một vùng trời. Hàng
ngàn người đủ mọi lứa tuổi thi nhau vui chơi, an uống tạo thành một
khung cảnh hết sức nhộn nhịp.
2. Lễ Nghinh Cô
Lễ nghinh Cô bắt đầu từ rạng sáng ngày 12, đây là nghi lễ chính
trong lễ hội này. Xuất phát từ Dinh Cơ, Chánh tế dẫn đầu đồn rước
tiến về phía mé biển, nơi có các tàu thuyền được trang hồng cờ hịa
lộng lẫy đang chờ. Tiếp đó, đội học trò lễ trong lễ phục truyền thống
đầu đội mão, chân đi hia, khiêng kiệu sơn son thếp vàng trên để bài vị,
có lọng che và có quân cờ đi kèm hai bên. Theo sau kiệu là dàn nhạc
ngũ âm và đoàn chèo bả trạo mặc trang phục sặc sỡ. Đến mép nước,
cả đoàn lễ sẽ lên các chiếc thuyền lễ. Chiếc thuyền lễ được trang
hoàng lộng lẫy nhất, trước mặt có đặt bàn hương án sơn đỏ trên có lư
hương và mâm trái cây sẽ dành cho những người là thành phần chính
của buổi lễ. Những chiếc ghe khác thì sẽ chở những người dân, du
khách đi xem hội.
Ngay sau đó, Chánh tế - người điều khiển buổi lễ ra lệnh xuất
phát. Đi đầu là chiếc thuyền lễ, tiếp theo là hàng chục chiếc ghe nghề
nối đuôi nhau. Tiếng máy nổ, tiếng trống chiêng, thanh la, não bạt,
10


tiếng nhạc của dàn nhạc ngũ âm hòa với tiếng hát chúc nhịp nhàng
của đội bả trạo cùng với những chiếc bóng bay được thả lên khơng
trung tạo nên một bầu khơng khí lễ hội tưng bừng, náo nhiệt.
Điều đặc biệt là trong lễ hội Dinh Cơ vẫn cịn duy trì được hình
thức diễn xướng hát bả trạo - một loại hình diễn xướng độc đáo của cư

dân ven biển nước ta. Hát bả trạo có nghĩa là hát có nắm mái chèo,
một thể loại dân ca nghi lễ phổ biến của cư dân ven biển Bình Trị Thiên
(cũ) đến Bình Thuận. Theo đó ngư dân thường tổ chức hát bả trạo trong
nghi lễ đám tang cá Ông. Song ở Long Hải, hát bả trạo lại gắn với nghi
lễ nghinh Cơ. Hình thức diễn xướng khơng khác gì với hát bả trạo của
cư dân ven biển Nam Trung Bộ, cũng có tổng khoang (hoặc tổng
thương), tổng mũi, tổng lái và đám bạn chèo từ 12 đến 16 người. Tất
cả đều trong trang phục lễ cổ truyền. Chỉ khác ở nội dung bài hát
ngưỡng vọng Cơ (thay vì ca ngợi, thương tiếc cá Ơng). Ngồi ra, làn
điệu và bài hát cho thấy hát bả trạo nghinh Cơ ở Long hải phóng
khống và trữ tình hơn lối hát “nặng nỗi âu lo” của vùng biển Nam
Trung Bộ. Câu lối của một tổng mũi ở Quảng Nam:
Mây giăng mù mịt
Giơng chớp sáng lịa
Từ Hải Vân cho đến Sơn Trà
Cũng kiểu câu lối ấy, nhưng hát bả trạo ở Long Hải lại nhẹ nhàng, sảng
khối hơn:
Mây giăng đằng mũi
Gió đuổi đằng sau
Mái chèo khua nước lao xao
Nhanh nhanh lên nào, khoang thuyền đầy

Khi đoàn thuyền đã đến điểm tế lễ quy định, các con thuyền sẽ
tạo thành một vòng tròn rộng giữa biển khơi. Vị Chánh tế cùng đội học
trị lễ bước về phía mũi thuyền làm lễ Nghinh Cô và khấn mời “ Ông
Nam Hải” ( tức cá Voi, vị thần biển gắn liền với lễ hội Cầu Ngư của cư
dân ven biển nước ta) về Dinh để chứng kiến lòng thành với bá tánh.
Tiếp đó, đội chèo bả trạo cất lên tiếng ca nhịp nhàng, ca ngợi cơng đức
của Cơ và Ơng Nam Hải, cầu mong thời gian tới sẽ được mùa màn bội
thu, trời yên biển lặng, ghe thuyền vào khơi ra lộng được thuận buồm

xi gió. Hàng chục dây pháo dài từ các thuyền thi nhau nổ hòa cùng
11


tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng nhạc cụ làm vang động cả một vùng
biển bao la.
Kết thúc phần lễ trên biển, khi đồn thuyền vừa quay về trước
bến Dinh Cơ thì các đồn lân, rồng từ từ tiến ra nghênh đón. Người ta
thi nhau phất cờ, đánh trống và hò reo. Có người cịn ùa ra trong nước
biển nghênh tiếp đồn một cách nhiệt thành. Ngồi ra, họ cịn thả
bóng bay đầy màu sắc lên không trung, khách hành hương theo đó
phóng sanh hàng trăm con chim sẻ, chim áo già, chim ri…

Múa rồng trong lễ hội Dinh Cô ( Ảnh internet).
Kiệu rước được đưa thẳng về Dinh Cô để tiến hành phần nghi lễ
chính thức ngay sau đó. Lễ vật dâng cúng gồm có một con heo quay,
một con heo sống (làm thịt, để nguyên con), bánh trái và hương đăng
hoa quả. Người ta sẽ tiến hành trình tự các lễ dân hương, dâng rượu và
dâng trà. Kết hợp với đó là múa Tam hiển và múa Mâm vàng. Trong Khi
đó, tại ngơi mộ Cơ theo tục lệ chỉ cúng hoa quả.
3. Lễ Xây chầu – Đại bội
Lễ này, theo nhà văn Sơn Nam, là để nhắc nhở cội nguồn, đề cao
tư thế con người trong vũ trụ, cầu mong sự hài hòa giữa Thiên, Địa,
Nhơn (Nhân): tròn đạo Trời, vng đạo Đất, sáng đạo Người. Con người
ln
gắn

với mặt
trời, mặt
trăng, tinh

tú, cây
cỏ, núi sơng, mưa, nắng, gió. Theo sách “Văn hóa tâm linh Nam
Bộ” thì Xây chầu cịn gọi là khai tràng (chầu hát, trường hát), khai
thiên lập địa, khai thông thái cực. Lễ này vốn bắt nguồn từ lễ Đại Bội,
diễn ra trong cung đình nhà Nguyễn.
Lễ này gồm 2 phần: Phần khai trống chầu và phần Đại bội.
12




Khai trống chầu

Trống chầu được đặt ở hướng Đông (Đại lợi), và thường thì Chánh
tế đánh ba lần trống khởi đầu:
Đánh lần thứ nhất gọi là nhất kích cổ: đánh nhẹ ở điểm (những
điểm quy định trên mặt trống mang ý nghĩa tâm linh) số 1 ba tiếng
trống đọc lời nguyện: Sơn hà xã tắc thiên hạ thái bình. Hoặc Quốc thới
dân an.
Đánh lần thứ hai gọi là nhị kích cổ: đánh nhẹ ở điểm số 2, đọc lời
nguyện:
Phong hòa võ thuận
Bá tánh lạc nghiệp
Đánh lần thứ ba gọi là gọi là tam kích cổ, đánh nhẹ ở điểm số 3 và đọc
lời nguyện: Lê thứ thái bình.
Ba lần trống kế tiếp gọi là điểm cổ, đánh nhẹ cái hình Thái cực vẽ trên
mặt trống.
Nhất điểm cổ: đánh nhẹ ba tiếng, xướng Trừ Càn Khảm (trừ sự
bại, sự hư).
Nhị điểm cổ: đánh nhẹ ba tiếng, xướng: Lập Trung Cấn Chấn (cơ

lập sự khóc lóc, sự chết, quỷ ma).

Lễ Xây chầu (Ảnh internet).
Sau đó là ba hồi trống đánh mạnh, trước ít sau nhiều, mang ý
nghĩa tiền bần hậu phú. Theo cổ lệ, phần này phải đánh cả thảy ba hồi
13


là 300 (80-100-120) roi chầu, sau giảm bớt chỉ còn 216 (36-72-108) và
chỉ nay cịn 120 (20-40-60) roi, vì phần nhiều người biết đánh trống
chầu giờ đây đều đã già, không đủ sức.
Hồi thứ nhất đánh 20 roi, khi dứt, đánh thêm hai dùi nhỏ tiếng
hơn, như là dư âm. Hồi này, khi thực hiện, người đánh phải xướng thật
to: Trừ hung thần ác sát, ngụ ý đuổi ma quái ra khỏi làng.
Hồi thứ nhì đánh 40 roi, dứt rồi điểm hai dùi nhỏ tiếng, không
xướng khẩu lệnh.
Hồi thứ ba đánh 60 roi, dứt thì điểm hai tiếng nhỏ, rồi người chấp
sự hô to: Khôn trung hội viên nam nữ đòng thọ phước (Ở mặt đất, nam
nữ hội viên của đình đều được hưởng phước).
Các thành viên của Ban tế lễ và thân hào đồng "dạ" lớn. Vừa dứt,
đánh ba hồi ba dùi, mỗi hồi...Sau đó nhạc trỗi lên, quan viên cầm chầu
và các đào kép bắt đầu sang phần Đại Bội.



Đại bội

Kế tiếp là lễ Đại bội nhằm trình diễn một số hoạt cảnh, giải thích
nguồn gốc của con người trên trần thế, nhằm đề cao Trời Đất. Con
người may mắn được ở giữa Trời Đất, cùng với hoa trái, chịu ảnh hưởng

của gió, mưa, sấm, sét, cầu mong gió thuận mưa hịa. Các hoạt cảnh
này do các diễn viên chuyên nghiệp ở các đoàn hát bội thực hiện. Gồm
một số cảnh: “Khai thiên tịch địa”, “Xang nhật nguyệt”, “Tam tài”, “Tứ
Thiên vương”, “Đứng Cái”, “Bát tiên chúc thọ”, “Gia quan tấn tước”.

14


Một phân cảnh trong “Đứng Cái” ( Ảnh internet).

PHẦN KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tồn cầu hóa như hiện nay, ngồi những thuận lời
mang lại thì Việt Nam đã và đang đứng trước những nguy cơ, thách
thức lớn. Trong đó có sự mai một dần những nét đẹp văn hóa truyền
thống được cha ông ta bao đời xây dựng nên. Với khẩu hiệu “hịa nhập
chứ khơng hịa tan” của Đảng và Nhà nước, đề tài tiểu luận này đã giới
thiệu thêm một phần nào đó trong hệ thống tín ngưỡng dân gian, lễ hội
ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu. Bài tiểu luận là các hoạt động nghi lễ cũng
như vui chơi giải trí của người dân trong dịp lễ hội Dinh Cơ. Qua đó, có
15


thể đóng góp một phần nào đó và cơng cuộc giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Thạch Phương-Lê Trung Vũ (2015) “ 60 lễ hội truyền thống Việt

Nam”
Nhiều tác giả (2000) “ Kho tang lễ hội cổ truyền Việt Nam”
Huỳnh Quốc Thắng (2003): “ Lễ hội dân gian ở Nam Bộ”
Đào Duy Anh (1996): “ Từ điển Hán-Việt”
Trần Ngọc Thêm (2001): “ Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”
Nguồn từ một số trang trên internet
/>%99i_Dinh_C%C3%B4
/> />
17



×