Thé ché la gi?
Theo cách hiểu thứ nhất, thể chế là tập hợp những quy tắc chính thức, các quy định
khơng chính thức hay những nhận thức chung có tác động kìm hãm, định hướng hoặc
chi phối sự tương tác của các chủ thể chính trị với nhau trong những lĩnh vực nhất
định. Các thể chế được tạo ra và đảm bảo thực hiện bởi cả nhà nước và các tác nhân
phi nhà nước (như các tổ chức nghề nghiệp hoặc các cơ quan kiểm định).
Các quy tắc chi phối sự tương tác giữa các cá nhân hay tổ chức có thể mang tính
chính thức hoặc khơng chính thức. Các quy tặc chính thức bao gồm hiến pháp, các bộ
luật, điều luật, hiến chương, văn bản dưới luật... Trong khi đó các quy tắc khơng
chính thức có vai trị mở rộng, chi tiết hóa hoặc chỉnh sửa các quy tăc chính thức và
điều chỉnh hành vi của các chủ thể thông qua các chuẩn tắc xã hội (truyền thống, tập
quán, những điều cắm ky...) hay các quy tắc ửng xử nội bộ. Vai trò của các thể chế
thể hiện ở chỗ chúng tạo nên một khn khổ mà ở đó hành động của các chủ thê trở
nên dễ đoán trước hơn, cho phép các chủ thể thiết lập các kỳ vọng và giảm thiểu các
rủi ro trong quá trình tương tác với nhau.
Có nhiều cách khác nhau giải thích lý do tại sao các chủ thể chính trị lại tuân thủ các
thể chế. Một mặt, theo logic của thuyết lựa chọn duy lý, con người tuân thủ các quy
định, chuẩn tắc nhằm tránh bị trừng phạt và tơi đa hóa lợi ích thu được. Mặt khác, trên
phương diện quy phạm hay đạo đức, các chủ thể tuân thủ các chuẩn tắc theo nhận
thức của họ về những hành động được coi là phù hợp hay không phù hợp đối với vai
trị của họ. Ví dụ, một vị bộ trưởng có thể từ chức vì một bê bối liên quan đến một bộ
phận nào đó trong bộ mình phụ trách theo một quy tắc bất thành văn về hành vi được
co1 là phù hợp trong những trường hợp tương tự như vậy, cho dù việc từ chức này có
thể tác động tiêu cực tới tương lai chính tri cua vị bộ trưởng. Ngoài ra, các nhà thê chế
xã hội học lại cho răng các chủ thê tuân thủ các chuẩn tắc bởi trong nhiều trường hợp
họ khơng có một phương thức hành động thay thế nào khác. Ví dụ, một vị thủ tướng
có thê phản ứng trước một cuộc khủng hoảng chính trị băng cách chỉ định một ủy ban
điều tra độc lập do thâm phán tòa án tối cao đứng đầu. Trong trường hợp này quyết
định của vị thủ tướng bắt nguồn
từ thực tế rằng lựa chọn như vậy đã trở thành một
phản ứng chuẩn mực đối với các cuộc khủng hoảng chính trị.
Theo cách hiểu thứ hai, thể chế là một cơ quan, tô chức công với các cơ câu và chức
năng được định sẵn một cách chính thức nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động nhất
định áp dụng chung cho toàn bộ dân cư. Đối với mơt quốc gia, các thể chế chính trị
bao gồm chính phủ, quốc hội và các cơ quan tư pháp. Mối quan hệ giữa các thể chế
này được quy định bởi Hiễn pháp.
Cũng theo cách hiểu này, trong quan hệ quốc tế, các thể chế quốc tế chính là các tổ
chức quốc tế liên chính phủ được thiết lập nhăm quản lý và điều phối sự tương tác qua
lại giữa các quốc gia trong những lĩnh vực vấn đề nhất định. Kê từ sau Chiến tranh thế
giới lần thứ hai, số lượng các thể chế quốc tế đã gia tăng mạnh mẽ. Một số thể chế
quốc tế tiêu biêu có thê kế đến bao gồm Liên Hiệp Quốc (UN). Tổ chức Thương mại
Thê giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Liên minh
Châu Âu (EU)...
Sự phát triển và lớn mạnh của các thể chế quốc tế từ sau Chiến tranh thê giới lần thứ
hai được nhiều nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế ghi nhận và lý giải, trong đó đáng chú
ý là các học giả theo trường phái chủ nghĩa tân tự do, hay còn gọi là chủ nghĩa tự do
thể chế. Mặc dù thừa nhận hệ thống quốc tế mang tính chất vơ chính phủ, chủ nghĩa
tân tự do lại cho rằng bối cảnh đó của hệ thống quốc té khơng tạo ra sự đói đầu, cạnh
tranh giữa các quốc gia mà khuyến khích họ hợp tác với nhau thơng qua các thê chế
quốc tế. Theo đó, các học giả của các trường phái này cho răng các thể chế quốc tế
giúp mang lại một số lợi ích quan trọng cho các quốc gia và sự hợp tác giữa họ với
nhau. Thứ nhát, các thể chế quốc tế giúp cung cấp thông tin cho các bên tham gia, qua
đó giúp họ đưa ra được những quyết định chính sách đúng đăn nhất có lợi cho tất cả
các bên. Thứ hai, các thể chế quốc tế làm giảm các chi phí giao dịch trong quá trình
giải quyết các vân đề chung nhờ chia sẻ các nguồn lực và phối hợp hành động giữa
các quốc gia. Thứ ba, các thê chế tạo ra khuôn khô pháp lý đề điều chỉnh hành vi của
các tác nhân tham gia hệ thống chính trị quốc tế. Điều này có vai trị quan trọng trong
việc đảm bảo tính ổn định của hệ thống và giúp giữ gìn an ninh, hịa bình cũng như có
lợi cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia.
Chính vì vậy các thể chế quốc tế đã đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đầy hợp
tác giữa các quốc gia. Từ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các thể chế quốc tế càng
được kỳ vọng sẽ đóng vai trị lớn hơn trong việc quản lý hệ thống quốc tế và thúc đầy
sự ra đời một cơ chế quản trị toàn câu trong tương lai. Việc tham gia vào các thể chế,
tô chức quốc tế trở thành một nhu câu thiết yếu đối với tât cả các quốc gia, đặc biệt là
các quốc gia nhỏ, yêu đang phát triển.
Đối với Việt Nam, kể từ khi tiễn hành chính sách Đổi mới, ngoại giao đa phương
ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước
trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của 63 tổ chức quốc tế
và có quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phú trên thế giới. Việc tham gia vào các
thể chế, tổ chức quốc tế đã góp phần củng có và nâng cao vị thê quốc tế của đất nước,
tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ độc lập tự
chủ và an ninh cũng như công cuộc phát triên kinh tê của nước ta.
Xem thêm các văn bản pháp luật tai: />