Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tóm tắt truyện kể địa danh của người thái ở việt nam dưới góc nhìn văn hóa tộc người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.75 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN

TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM
DƯỚI GĨC NHÌN VĂN HĨA TỘC NGƯỜI

Chun ngành: Văn học dân gian
Mã số:9.22.01.25

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội - 2021


Cơng trình được hồn thành tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS Vũ Anh Tuấn
PGS.TS Nguyễn Thị Huế

Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Chí Bền
Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Phản biện 2: GS.TS Trần Nho Thìn
Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn
Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hà
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp
tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm…

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ

I.Báo - tạp chí
1. Các mối quan hệ xã hội tộc người nhìn từ truyện kể địa danh của
người Thái ở Việt Nam, Tạp chí Văn học, tháng 1.2016
2. Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, Tạp chí Nhân lực
KHXH, tháng 4.2016
3. Vai trị của nước và sự hình thành khơng gian xã hội Thái tộc
(nhìn từ truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam), Hội thảo khoa
học Sau đại học ngành Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, tháng 8.2017
4. "Núi" trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, Tạp
chí Văn học, tháng 8.2017
5. Biểu tượng nỏ trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt
Nam, in trong Phân tích, nghiên cứu và dịch thuật văn hố, văn học và
ngơn ngữ nước ngoài, Nxb Đại học Vân Nam, tháng 12.2018
II.Sách
Nguyễn Thị Mai Quyên, Huổi pú nặm mương (Truyện kể địa danh
của người Thái ở Việt Nam), Nxb Văn học, H,2018


1

PHẦN 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. Lý do chọn đề tài
Với tư cách là một đơn vị từ vựng, một danh từ riêng, không xuất hiện một
cách ngẫu nhiên mà hàm chứa trong nó những vỉa tầng văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ,
những quan niệm của con người và đặc điểm vùng đất, địa danh đi vào truyện kể
dân gian với tư cách là những sáng tạo của người dân được truyền từ đời này sang
đời khác. Ý nghĩa của địa danh trong truyện kể vì thế khơng chỉ là dấu chỉ cho một
vùng đất, một bản làng hay con sông ngọn suối, địa danh còn lại cùng năm tháng
quan trọng bởi cái duyên cớ mà nó được sinh ra, những trải nghiệm gắn bó với
cộng đồng văn hóa, ngơn ngữ đã cùng nó tồn tại. Truyện kể địa danh vì thế cần
phải được nghiên cứu dưới góc độ liên ngành để giải mã được các vỉa tầng ẩn
chứa đằng sau mỗi câu chuyện, từ đó có những kiến giải mới về lịch sử, văn hóa,
truyền thống và đặc điểm của vùng đất cũng như con người đã sản sinh ra truyện
kể.
Người Thái là một trong những tộc người thiểu có dân số đơng vào bậc nhất
nước ta. Vai trị của văn hóa Thái trong bức khảm văn hóa đa màu sắc của dân tộc
Việt Nam đến nay có lẽ khơng còn là điều phải bàn cãi. Tuy thế, xét từ những góc
độ, mỗi thành tố trong nền văn hóa ấy lại tỏa sáng ở một góc độ, có những đóng
góp khác nhau vào q trình tộc người nói riêng và q trình hịa nhập văn hóa các
tộc người nói chung. Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam với những
câu chuyện gắn bó trực tiếp với đời sống nhân dân Thái từ miền Bắc đến miền
Trung là nơi chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tộc người quý giá cần được khám
phá.
Xuất phát từ nhận thức về vai trị của văn hóa – văn học dân Thái trong việc
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người, năm 2010 chúng tơi đã hồn thành
một cơng trình nghiên cứu mang tên Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt
Nam. Cơng trình đã hồn thành được mục tiêu đề ra là xây dựng khái niệm truyện kể
địa danh Thái, bước đầu thống kê được một số lượng truyện kể địa danh (56 truyện)
và chỉ ra những giá trị nội dung, thi pháp cùng dâu ấn văn hóa tộc người (gồm dấu ấn
văn hóa vật chất và dấu ấn văn hóa tinh thần) trong tập hợp truyện kể. Việc làm đó dù
đã đạt được một số kết quả nhất định song cũng cho thấy xung quanh truyện kể địa

danh Thái tộc còn rất nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết, đơn cử như việc thống kê và
hoàn thiện hơn nữa tập hợp truyện kể vô cùng phong phú và nhìn tập hợp ấy trong
bối cảnh văn hóa tộc người để thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa địa danh với mơi
trường văn hóa đã sản sinh ra chúng, tìm ra những mắt xích văn hóa, đặc biệt là cách
thức chúng được trao truyền, hướng tới mục tiêu bảo tồn và ni dưỡng văn hóa tộc
người.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Truyện kể địa
danh của người Thái ở Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa tộc người người làm đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu


2

Góp phần vào việc sưu tầm, cơng cố kho tàng văn học dân gian Thái. Tìm ra
những giá trị lịch sử, văn hóa ẩn chứa trong kho tàng truyện kể địa danh của người
Thái ở Việt Nam, từ đó chỉ ra những hằng số, những cách thức tư duy mang tính
biểu trưng của tộc người thơng qua thế giới biểu tượng được hình thành trong
truyện kể.
Đưa ra được những hình dung khái lược về không gian xã hội Thái thông
qua những mối quan hệ xã hội cơ bản, từ đó hình dung cách thức mà người Thái
gây dựng, củng cố nền văn hóa của mình, giúp chúng khơng bị “hịa tan” trước
những thách thức, biến đổi của không gian và thời gian.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở tiếp xúc với kho tàng truyện cổ Thái đã được sưu tầm, xuất bản
kết hợp với thăm hỏi trên thực địa, nhiệm vụ trước hết đặt ra trong luận án này là
tập hợp một số lượng nhất định các văn bản truyện kể (trong điều kiện thời gian
được cho phép) trên tiêu chí đảm bảo tất cả các vùng Thái lớn đều có truyện kể;
tiến hành thơng kê, phân loại và sắp xếp chúng theo khu vực địa lý tồn tại địa

danh.
- Nhiệm vụ tiếp theo là làm sáng tỏ những vấn đề về khái niệm, phân loại,
và các đặc trưng về phương diện nội dung của truyện kể địa danh Thái tộc.
- Nhiệm vụ thứ ba tương ứng với chương tiếp theo của luận án là chỉ ra
nguồn gốc, các biểu hiện và ý nghĩa của một số biểu tượng tiêu biểu trong kho
tàng truyện kể địa danh Thái tộc.
- Cuối cùng, luận án cần đưa ra hình dung khái lược về một số mối quan hệ
xã hội tộc người từ phương diện truyện kể và lý giải chúng trong mối quan hệ với
những yếu tố văn hóa xung quanh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện kể địa danh của người Thái ở
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: phạm vi tư liệu phục vụ nghiên cứu được tập hợp từ
hai nguồn: 1/Những tư liệu được thu nhận trên thực địa; 2/ Nguồn truyện kể địa
danh nằm rải rác trong các văn bản thành văn có sưu tầm truyện kể dân gian Thái
như: truyện kể dân gian Thái, truyện kể dân gian các dân tộc ít người; kỷ yếu hội
thảo Thái học; địa chí các vùng đất có cư dân Thái sinh sống và một số cơng trình
nghiên cứu về địa danh.
Trên cơ sở hai nguồn tư liệu nói trên, đến thời điểm hiện tại đã sưu tầm/ sưu
tập được 116 truyện /mẩu truyện kể địa danh Thái. Đây là cơ sở tư liệu để chúng
tôi để tiến hành những nghiên cứu đề tài Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt
Nam dưới góc nhìn văn hóa tộc người
5.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích ngữ văn dân gian
- Phương pháp phân tích cấu trúc
-Phương pháp điền dã
-Phương pháp so sánh đối chiếu:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành:



3

6. Đóng góp mới của luận án
Luận án khi hồn thành dự kiến sẽ có những đóng góp sau:
6.1. Lần đầu tiên truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam được tập
hợp chung trong một cơng trình được xuất bản.
6.2. Xác định được giá trị về phương diện ngữ văn dân gian của tập hợp truyện
kể địa danh Thái. Chỉ ra cấu trúc thể loại, giá trị nội dung xét theo phương diện thể
loại của tập hợp truyện kể. Đóng góp này có sự kế thừa từ cơng trình luận văn Thạc sĩ
Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, tuy nhiên có mở rộng ở phạm vi tư
liệu khảo sát để xem xét một cách đầy đủ và kỹ lưỡng hơn mọi phương diện của vấn
đề.
6.3. Đây cũng là lần đầu tiên một số biểu tượng tiêu biểu của văn hóa Thái
được phân tích, nhìn nhận từ góc độ truyện kể địa danh.
6.4. Luận án đóng góp những hình dung sơ lược về khơng gian xã hội Thái
tộc tập trung vào một số mối quan hệ xã hội cơ bản từ góc độ truyện kể địa danh.
Việc nghiên cứu không gian xã hội tộc người từ phương diện ngữ văn dân gian tuy
đã được thực hiện bởi một số nghiên cứu đi trước, song đối với ngành Thái học,
đây vẫn là thử nghiệm đầu tiên, cung cấp cách nhìn mới cho văn học dân gian tộc
người, nằm trong nỗ lực chung trả văn học dân gian về với bối cảnh của nó.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Chương 2. Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam: khái niệm, phân
loại và nội dung
Chương 3. Cốt truyện và biểu tượng trong truyện kể địa danh của người
Thái ở Việt nam
Chương 4. Không gian xã hội trong truyện kể địa danh của người Thái ở
Việt Nam
CHƯƠNG 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện kể địa danh của người
Thái ở Việt Nam
- Tổng hợp tất cả những nghiên cứu liên quan có thể thấy xung quanh vấn
đề truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam còn nhiều khoảng trống:
+ Trên phương diện văn bản: chưa có cơng trình nào thống kê một cách hệ
thống tư liệu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam. Dù không thể trong
một sớm một chiều thu thập được toàn bộ nguồn tư liệu truyện kể, song trong hoàn
cảnh văn học – văn hóa dân gian nhiều tộc người đang có nguy cơ mai một, việc
làm này là cần thiết và cấp bách.
+Trên phương diện khảo cứu: chưa có cơng trình nào tiến hành khảo cứu
một cách toàn diện truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam. Địa danh là
đơn vị mang khơng gian mà đằng sau nó là những mối liên hệ xã hội, những nhân
tố góp phần hình thành không gian. Mặc dầu vậy những nghiên cứu về địa danh


4

cho đến nay chưa có nghiên cứu nào quan tâm đến vấn đề này. Nói cách khác chưa
có nghiên cứu nào mang tính chuyên sâu đặt truyện kể địa danh trong bối cảnh văn
hóa của một tộc người cụ thể để tìm ra mối liên hệ bản chất giữa tên đất với mơi
trường văn hóa sản sinh ra nó.
Khắc phục khoảng trống đó chính là u cầu mà chúng tơi đặt ra trong luận
án.
1.2. Tổng quan các vấn đề lý thuyết sử dụng trong luận án
1.2.1. Về việc nghiên cứu truyện kể dân gian trong bối cảnh văn hóa tộc
người
Trong nghiên cứu này, khái niệm “bối cảnh văn hóa tộc người” được chúng
tơi hiểu là sự tổng hợp của tồn bộ những yếu tố văn hóa, lịch sử, kinh tế, xã hội...

rộng lớn có sức tác động đến đời sống vật chất, kinh tế lẫn đời sống tinh thần của
một tộc người. Mỗi sáng tác ngôn từ dân gian trong bối cảnh ấy phải chịu sự chi
phối của các yếu tố tri thức, hiểu biết, những tiền giả định, quy ước mà tộc người
dùng để giao tiếp và hiểu nhau. Những phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, … mang tính
văn hóa cũng có sức ảnh hưởng to lớn đến việc hình thành, chuyển giao và tiếp
nhận các tác phẩm văn học dân gian trong cộng đồng ấy.
Nghiên cứu truyện kể dân gian trong bối cảnh văn hóa tộc người vì thế là
một nỗ lực xem xét truyện kể từ hai giác độ. Một mặt coi truyện kể như một thành
tố của văn hóa tộc người, được nhận thức chủ quan (cả ý thức và vô thức) và thuộc
về một hệ thống bao gồm toàn thể đời sống. Từ giác độ này, sự khảo sát, phân tích
truyện kể xuất phát từ bên ngồi, dưới góc độ của một người làm dân tộc chí quan
sát về một nền văn hóa khác. Mặt khác, trên cơ sở những yếu tố của sự kiện quan
sát được từ truyện kể, trong điều kiện có thể, người nghiên cứu cố gắng trải
nghiệm những sự kiện ấy cùng người dân bản địa, từ đó lần ra những mối dây liên
hệ ngầm ẩn giữa các sự kiện được khảo sát với những nhân tố bên trong thuộc về
tâm tư, tình cảm, thế giới tâm linh... của cộng đồng.
1.2.2. Lý thuyết biểu tượng trong nghiên cứu truyện kể dân gian
Nghiên cứu đặt ra vấn đề phân tích ba biểu tượng tiêu biểu xuất hiện trong
kho tàng truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam là biểu tượng nước, biểu
tượng núi và biểu tượng nỏ. Quá trình nghiên cứu có sự tiếp thu các thao tác làm
việc của nhiều nghiên cứu đi trước kết hợp với các thao tác nghiên cứu cụ thể
nhằm tìm ra những lợp nghĩa mới của các biểu tượng từ góc độ truyệ kể địa danh
1.2.3. Lý thuyết không gian xã hội trong nghiên cứu truyện kể dân gian
Khái niệm không gian xã hội mà chúng tôi sử dụng được đề xuất bởi G.
Condominas trong cơng trình “Khơng gian xã hội vùng Đơng Nam Á”. Theo
Condominas: “không gian xã hội là cái không gian được xác định bởi tập hợp hệ
thống quan hệ đặc trưng cho một nhóm người nào đó”. Sử dụng khái niệm không
gian xã hội trong việc nghiên cứu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam,
chúng tôi ý thức được rằng (1) truyện kể địa danh Thái chỉ là một bộ phận trong
folklore tộc người, bởi vậy bản thân nó chỉ chứa đựng phần nào những khúc xạ

của không gian xã hội Thái tộc, đặc biệt trong điều kiện quá trình sưu tầm, sưu tập
tư liệu truyện kể cịn nhiều hạn chế; Bởi vậy trong q trình phân tích, ngồi sự


5

tinh tế của người quan sát còn cần đến sự tỉnh táo để tránh lối tư duy ép buộc, gán
cho văn bản những nghĩa mà nó khơng có để minh họa cho lý thuyết. (2) việc tìm
hiểu những biểu hiện của không gian xã hội thể hiện trong truyện kể địa danh của
người Thái ở Việt Nam là quy trình khai thác gián tiếp, trong đó truyện kể địa
danh là đối tượng trung gian bởi vậy có thể khơng đảm bảo được tính hệ thống của
những quan hệ đó. Kết quả của việc nghiên cứu do đó khơng thể khẳng định là
hình dung được một mơ hình khơng gian xã hội tộc người nguyên vẹn như nó vốn
có mà thực chất chỉ có thể là những quan sát xã hội từ góc độ ngữ văn dân gian.
Những quan sát này trong sự tương tác và gắn bó sẽ đưa ra gợi ý cho vấn đề mà
chúng tơi đang tìm kiếm.
1.3. Sơ lược về bối cảnh văn hóa Thái
Là một trong những dân tộc ít người có dân số đơng, người Thái bảo lưu
được một nền văn hóa vật chất và tinh thần tương đối phong phú. Về văn hóa vật
chất, là cư dân nông nghiệp, người Thái rất giỏi trong việc sử dụng nguồn nước để
cung cấp cho cho đồng ruộng và sinh hoạt bằng hệ thống mương, phai, lái, lin và
các loại guồng, cọn ... Ngoài ra, trong đời sống của họ, việc săn bắn thú rừng, đánh
bắt các lồi thủy sản ở sơng suối và chăn ni gia súc, gia cầm cũng đóng vai trị
hết sức quan trọng.
Do đặc trưng canh tác là trồng lúa nếp trên các thửa ruộng bậc thang và trên
nương rẫy nên trước đây trong bữa ăn hàng ngày, người Thái chủ yếu ăn cơm nếp.
Điều đó giải thích tại sao họ cịn tự gọi mình là “người cơm nếp đồ” (Tăy khảu nửng)
để phân biệt với những dân tộc ăn cơm tẻ. Thức ăn chính trong các bữa ăn của người
Thái thường là cá được chế biến theo nhiều cách, ngồi ra có các loại thức ăn thực vật
như gạo, rau, đậu và các loại thực phẩm thủy sản khác như ếch, nhái, nịng nọc… thịt

khơng phải là món chính và thường xun. Hiện nay, người Thái ở nhiều nơi đã
chuyển sang ăn gạo tẻ là chính.
Người Thái phân biệt trang phục theo giới, trang phục thường ngày với lễ
phục, khi chết và để tang, lúc đi làm ngoài đồng, ngoài nương rừng với khi ở nhà;
mùa nóng bức với những tháng đơng giá trong năm và hai độ tuổi vị thành niên
với khi nhắm mắt xuôi tay”. Riêng phụ nữ Thái Đen có khăn đội đầu (khăn piêu)
thêu hoa văn nhiều màu; chưa có chồng thì búi tóc sau gáy, có chồng thì búi tóc
ngược trên đỉnh đầu, góa chồng thí búi tóc ngược trước và trên trán.
Người Thái ở nhà sàn do điều kiện cư trú thuộc vùng rừng núi, lắm côn trùng,
thú dữ. Nhà sàn của người Thái là một thành tố văn hố tiêu biểu, nhìn vào cấu trúc
mái nhà người ta có thể phân biệt được nhà ở của các nhóm địa phương. Nhà của
người Thái đen có kết cấu dạng mai rùa và thường trang trí ở hai đầu hồi của nóc nhà
đơi khau cút (sừng cụt), nhà của người Thái trắng lại là nhà kiểu bốn mái. Những
ngôi nhà sàn thường được làm bằng các nguyên liệu sẵn có như gỗ, tre nứa lá lợp …
tựa lưng vào núi và quay mặt ra cánh đồng. Ngôi nhà sàn là không gian cho một
“cộng đồng nhà” với hai đến ba thế hệ cùng sinh sống. Nhiều nóc nhà tập trung thành
bản, nhiều bản chung thành mường phân bố dọc theo các con suối và các thung lũng
núi.


6

Về văn hóa tinh thần, trong tín ngưỡng tâm linh, “tại các tổ chức xã hội
mang tên Mường (…), người Thái theo một trong những tục thờ có nghi thức thờ
nước (nặm) và đất (đin) gọi là cạn (bốc). Nước có biểu tượng thần chủ là con rồng
(tơ lng) mang tên chủ nước (chảu nặm); đất có biểu tượng thần chủ là loài chim,
ở núi, mang tên chủ đất (chảu đin). Hai biểu tượng thần chủ là rồng – chim cũng là
mẹ - cha của mường. Tục thờ này nằm trong toàn bộ nghi lễ chung gọi là cúng
mường. Ngoài ra họ còn thờ thần núi Thần Núi và linh hồn người làm cột trụ”.
Người Thái nhiều vùng ở nước ta còn thờ vật tổ là rắn như vùng Điện Biên, n

Bái… vì ơng tổ của họ được chính sử ghi là Lò Lẹt, hiệu là Ngưu Hống (phiên âm
của từ ngu hău trong tiếng Thái có nghĩa là con rắn hổ mang). Cho đến ngày nay
vẫn còn những dòng họ kiêng ăn thịt rắn, thậm chí thịt lươn (như họ Vì ở n
Bái..) vì họ coi đó là vật tổ của mình.
Trong quan niệm về thế giới, người Thái cho rằng có sự tồn tại của 3
mường: Mường Phạ (Mường Then) là mường của các vị then; Mường Lùm hay
(Mường Lum) là Mường Người; Mường Boọc Đai (bọoc đai nghĩa là trong lòng
đất) là mường Âm Phủ, mỗi mường trên đều có một chủ mường. Then Lng là
then đứng làm chủ cõi trời, dưới Mường Người có chẩu mường là cao nhất, trong
khi đó Chẩu Nặm (thần thuồng luồng) làm chủ Mường Nước. Quan niệm này chi
phối toàn bộ thế giới tâm linh và có thể coi là cội nguồn của các nghi thức, tín
ngưỡng của tộc người.
Bên cạnh văn hóa tâm linh, Người Thái cịn có nhiều sản phẩm văn hóa tinh
thần phong phú. Là một dân tộc có ngơn ngữ và văn tự từ rất lâu đời, tổ tiên họ đã
ghi chép lại được rất nhiều những sự kiện lịch sử, văn hóa, xã hội trong các tập
sách như Kể chuyện bản mường (Quám tố mướng), sách ghi lại Những bước
đường chinh chiến của ông cha (Táy pú xớc), Những lời răn dạy con người (Quám
xon cốn), gia phả của các dòng họ hay những quy định mang tính chất luật tục
của các mường (Tục lệ người Thái đen ở Thuận Châu…)
Khơng những thế, người Thái có một kho tàng văn học dân gian vô cùng
phong phú. Họ có rất nhiều các truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, đặc biệt là
tập hợp truyện thơ rất đồ sộ bao gồm những truyện thơ do các tác giả hữu danh, vô
danh sáng tác. Tồn tại cùng kho tàng văn học dân gian là các bộ môn nghệ thuật
dân gian khác như múa (các điệu xòe), hát (các điệu khắp), các điệu sáo… Đặc
biệt, người Thái trước kia có một hình thức sinh hoạt cộng đồng – sinh hoạt văn
nghệ dân gian vô cùng đặc sắc là hạn khuống.
Tiểu kết
Đặt ra vấn đề nghiên cứu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam từ
góc nhìn văn hóa tộc người, chúng tôi xác định mục tiêu cốt yếu là đưa ra các kiến
giải mới về lịch sử, văn hóa của người Thái từ góc độ truyện kể địa danh. Bởi vậy

nội dung của chương này chủ yếu khái quát những vấn đề cơ bản về lịch sử và văn
hóa tộc người làm cơ sở cho những bước khảo sát tiếp theo. Bên cạnh đó, những
vấn đề lý thuyết được tổng thuật cũng chính là những cơng cụ mà chúng tơi sử
dụng trong q trình tiếp cận vấn đề xuyên suốt toàn bộ luận án.


7

Với sự ý thức sâu sắc rằng, văn hóa là một q trình động, ln ln biến đổi,
nhưng một tộc người vẫn cịn là chính nó nếu khơng làm mất đi những giá trị căn
cốt làm nên nền văn hóa của mình, trong chương này chúng tơi đi từ việc thống
nhất các khái niệm tộc người/ văn hóa tộc người đến việc xác định định hướng:
nghiên cứu truyện kể dân gian từ góc nhìn văn hóa tộc người. Đây là một nỗ lực
xem xét truyện kể từ nhiều giác độ. Một mặt coi truyện kể như một thành tố của
văn hóa, được nhận thức chủ quan (cả ý thức và vơ thức) và thuộc về một hệ thống
bao gồm tồn thể đời sống. Từ giác độ này, sự khảo sát, phân tích truyện kể xuất
phát từ bên ngồi, dưới góc độ của một người làm dân tộc chí quan sát về một nền
văn hóa khác. Mặt khác, trên cơ sở những yếu tố của sự kiện quan sát được từ
truyện kể, trong điều kiện có thể, người nghiên cứu cố gắng trải nghiệm những sự
kiện ấy cùng người dân bản địa, từ đó lần ra những mối dây liên hệ ngầm ẩn giữa
các sự kiện được khảo sát với những nhân tố bên trong thuộc về tâm tư, tình cảm,
thế giới tâm linh... của cộng đồng.
Bên cạnh các khái niệm nêu trên, lý thuyết biểu tượng và lý thuyết không
gian xã hội cũng là công cụ quan trọng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
Bởi lẽ, bất cứ nền văn hóa nào cũng có hệ thống biểu tượng riêng của nó, và q
trình khai thác biểu tượng chính là việc cố gắng nhìn những “cái biểu đạt” trong
mối quan hệ với bối cảnh văn hóa mà nó được sản sinh, thơng qua đó phần nào
nhận ra cái được biểu đạt, sau nữa - quan trọng hơn - là ý nghĩa của cái được biểu
đạt ấy. Những biểu tượng - cái biểu đạt vốn dĩ khơng hình thành một cách ngẫu
nhiên, chúng đã trải qua q trình tích lũy văn hóa lâu đời tạo nên các lớp nghĩa

tầng bậc, và q trình vận động của chúng, khơng đâu khác chính là những tương
tác giữa người với người - những mối quan hệ xã hội. Đây cũng chính là cơ sở để
chúng tôi vận dụng lý thuyết không gian xã hội trong việc nghiên cứu truyện kể
địa danh của người Thái ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy, người Thái đã trải qua một quá trình thiên di - tụ cư - lan
tỏa rất lâu dài, tuy vậy họ không những không đánh mất đi những đặc trưng văn
hóa mà đến mỗi nơi đều bằng những cách thức riêng để gieo hạt mầm ấy, khiến
chúng sinh sôi nảy nở trên những vùng đất mới từ đó hình thành nên một khơng
gian văn hóa riêng, mang đậm màu sắc đặc trưng. Việc nghiên cứu truyện kể dân
gian nói chung và truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam nói riêng từ góc
nhìn văn hóa tộc người là cơng việc nhằm nỗ lực đưa truyện kể trở về với cái nôi
sinh dưỡng ra nó, khắc phục phần nào lối phân tích văn bản đơn thuần, “bứng rễ”
sáng tác dân gian ra khỏi mơi trường văn hóa đa dạng, nhiều màu vẻ. Việc làm này
đương nhiên đòi hỏi rất nhiều những nỗ lực công phu và nghiêm túc mà trong điều
kiện hiện tại nghiên cứu này chưa thể đáp ứng trọn vẹn. Những định hướng lý
thuyết trình bày trên đây có thể cũng chưa phải là những giải pháp tối ưu để tiếp
cận vấn đề, tuy vậy chúng tôi vẫn đặt ra như một hướng đi cần thiết để giải quyết
các nhiệm vụ của luận án.
CHƯƠNG 2


8

TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM:
KHÁI NIỆM, THỂ LOẠI VÀ NỘI DUNG
2.1. Về khái niệm truyện kể địa danh
Chúng tôi quan niệm truyện kể địa danh là nhóm truyện kể dân gian bao
gồm tất cả những truyện có yếu tố giải thích tên gọi của các sự vật tự nhiên (như
đồi, núi, sơng, hồ, gị, đầm…) và những điểm dân cư (như làng, bản, thơn, xóm..)
hoặc những cơng trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất của nhân dân

(như mương, phai, kênh, ruộng…) mà tên gọi đã được xác định cụ thể.
Theo cách hiểu trên, trong kho tàng truyện kể dân gian dân tộc Thái, những
truyện kể có yếu tố giải thích tên gọi của các sự vật tự nhiên ( đồi, núi, dốc, đèo,
sơng, hồ, gị, đầm…) và những điểm dân cư ( mường, bản...) hoặc những cơng
trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất của nhân dân ( mương, phai, mó,
ruộng…) mà tên gọi đã được xác định trên các vùng lãnh thổ Việt Nam có dân cư
Thái sinh sống được coi là truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam. Những
truyện kể này chúng tôi tuyển chọn từ các cơng trình đã xuất bản kết hợp với
nguồn tưu liệu điền dã và xếp chung trong một tập hợp. Đó cũng là cơ sở để tiến
hành khảo sát các phương diện của truyện kể cũng như tìm về với cội nguồn của
văn hóa tộc người phía sau những lời thì thầm kể chuyện của dân gian.
2.2. Thống kê, phân loại truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam
Sau quá trình điền dã, sưu tầm và tuyển chọn tư liệu truyện kể, đến thời điểm
hiện tại, số lượng truyện chúng tôi tập hợp được là 116 đơn vị trong đó 31/116 truyện
do tác giả sưu tầm mới tại các vùng có cư dân Thái sinh sống. So với cơng trình trước
đây, số lượng truyện kể đã được bổ sung thêm 60 truyện bao gồm cả tư liệu điền dã
và tư liệu thu thập được từ các công trình đã xuất bản. Số lượng này đương nhiên mới
phản ánh một phần nào kho tàng truyện kể địa danh vô cùng phong phú của tộc
người.
2.3. Các phương diện nội dung của truyện kể địa danh Thái
2.3.1. Truyện kể địa danh và vũ trụ quan, thế giới quan của tộc người
Mọi tộc người trên thế giới khi bắt đầu biết tư duy đều có cùng một câu hỏi về
sự khởi đầu của vũ trụ, vạn vật và của chính bản thân họ. Người Thái khơng nằm
ngồi số đó. Thần thoại trong tập hợp truyện kể địa danh Thái cho thấy cách thức
mà họ hình dung về sự ra đời của vũ trụ mà trong đó con người là trung tâm, cho
thấy vũ trụ quan, thế giới quan độc đáo của tộc người. Đặc biệt, trong những thần
thoại ấy có chứa đựng yếu tố địa danh. Địa danh giống như chiếc cầu nối giữa thế
giới tưởng tượng và thế giới hiện thực, là “bằng chứng” để người Thái khẳng định
rằng những tưởng tượng của họ là có cơ sở. Khơng những thế, sự ra đời của các
địa danh còn phản ánh nhu cầu của tộc người trong việc định vị, khẳng định chủ

quyền đối với nơi ở, nơi sản xuất của mình. Vũ trụ quan, thế giới quan của tộc
người tuy vẫn là những hình dung trừu tượng nhưng nhìn từ lăng kính địa danh lại
trở nên gần gũi hơn bao giờ hết bởi thế giới hiện thực nơi địa danh đang tồn tại và
thế giới trong hình dung tưởng tượng được hòa làm một.
2.3.2. Truyện kể địa danh và lịch sử tộc người


9

Từ góc độ truyện kể, kho tàng truyện kể địa danh không cung cấp thông tin
nào về lớp cư dân cổ nói trên nhưng về những cư dân đến sau (so với những chủ
nhân cũ – các tộc người Môn - Khơ me) thì có khá nhiều chi tiết thú vị. Đó là những
câu chuyện giải thích nguồn gốc các địa danh thuộc hầu hết các địa bàn có cư dân
Thái sinh sống thông qua hai phương diện: (1) quá trình thiên di của tộc người và
truyện kể về những cuộc chiến tranh giành đất, (2) quá trình đấu tranh xây dựng,
bảo vệ bản mường và truyện kể về những cuộc chiến tranh giữ đất.
Mặc dù nội dung phản ánh lịch sử trong truyền thuyết địa danh không phải là
nội dung chính yếu nhưng điều dễ nhận thấy là truyện dù thuần túy giải thích địa
danh hay kể về những cuộc chiến tranh dành/giữ đất thì sự khẳng định bản lĩnh tộc
người vẫn là điều mà tác giả dân gian hướng tới. Những sự kiện mang tính chất
lịch sử xảy ra trong truyện luôn là “nguyên cớ” để đặt tên cho đất đai, sông núi, là
nhân tố để dân gian “hợp lý hóa” sự tồn tại của mình. Thơng qua hệ thống tên gọi,
người Thái vừa khẳng định niềm tự hào của cộng đồng dân tộc đối với truyền
thống của ông cha vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Vượt qua thời gian, mỗi
tên gọi đã trở thành cột mốc đánh dấu chủ quyền và khẳng định bản lĩnh tộc người
trong sự vận động không ngừng của tự nhiên và xã hội
2.3.3. Truyện kể địa danh và những khát vọng nhân sinh
Trong tập hợp truyện kể địa danh Thái, truyện cổ tích có số lượng phong
phú nhất. Nội dung truyện nổi lên mấy chủ đề lớn, đó là chủ đề đấu tranh cải tạo
thiên nhiên, bảo vệ và xây dựng bản mường; chủ đề tình u và hơn nhân; chủ đề

phản ánh mâu thuẫn xã hội. Những nội dung trên đan cài trong các câu chuyện,
qua đó ta cũng thấy được phần nào bộ mặt xã hội Thái, những tư tưởng, tình cảm,
quan điểm và cả những phong tục, luật tục… của người Thái trong thời đại cổ tích.
Trong mỗi câu chuyện, giá trị nhân văn được truyền tải còn được tô đậm
thêm nhờ sự xuất hiện của một yếu tố, đó là địa danh. Sự ra đời của các tên gọi
được dẫn giải bằng các tình tiết, sự việc diễn ra trong truyện. Và dù cho những
điều được nói tới là không thể kiểm chứng, song tác giả dân gian vẫn cố gắng
thuyết phục người đọc bằng việc gắn chúng với các đối tượng, các sự vật đã và
đang tồn tại thực. Bằng cách này, một mặt câu chuyện được kể giống như thật, mặt
khác những địa danh trong truyện lại thành đối tượng chuyển tải những bài học
nhân sinh, những ước mơ, khát vọng của quần chúng nhân dân.
Tiểu kết
Để thực hiện được quá trình thống kê, phân loại, tiến tới khảo sát, phân tích
tập hợp truyện kể, đầu tiên luận án tiến hành việc định danh cho nhóm truyện.
Theo đó chúng tơi quan niệm truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam là
những truyện có yếu tố giải thích tên gọi của các sự vật tự nhiên (đồi, núi, dốc,
đèo, sơng, hồ, gị, đầm…) và những điểm dân cư (mường, bản...) hoặc những cơng
trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất của nhân dân (mương, phai, mó,
ruộng…) mà tên gọi đã được xác định trên các vùng lãnh thổ Việt Nam có dân cư
Thái sinh sống.


10

Căn cứ vào khái niệm đã được xây dựng, chúng tôi tiến hành việc sưu tầm,
sưu tập, thống kê, phân loại truyện kể. Kết quả thống kê cho thấy truyện kể địa
danh của người Thái ở Việt Nam có một số lượng rất phong phú với 116 truyện kể
được tập hợp cho đến thời điểm hiện tại. Khi nhìn nhận những truyện kể này theo
tiêu chí thể loại, chúng tơi nhận thấy trong tập hợp này có những truyện thuộc thể
loại thần thoại, có những truyện là truyền thuyết và có những truyện mang bản

chất thể loại của truyện cổ tích, bởi thế nội dung của chương bên cạnh việc sắp
xếp danh mục truyện kể theo tiêu chí thể loại cịn là việc phân tích các khía cạnh
tiêu biểu của văn hóa tộc người ẩn chứa trong kho tàng truyện kể nhìn từ chính thể
loại của chúng.
Với tư duy phong phú cùng quá trình lịch sử lâu đời dựng xây mường bản,
mỗi địa danh trên các vùng đất Thái đều mang chứa những câu chuyện thú vị.
Những truyện kể này tùy theo đặc trưng nghệ thuật nội tại mà thuộc về thể loại
thần thoại, truyền thuyết hay cổ tích, tuy nhiên địa danh vẫn là yếu tố trung tâm
làm nên sợi dây gắn kết giữa những ý niệm về tự nhiên – xã hội ẩn chứa trong
truyện kể với cuộc sống của người dân.
Đối với tập hợp truyện kể đã được thống kê, địa danh ra đời trong thần thoại
cho thấy sự hình dung của người Thái về mơ hình (vũ trụ,thế giới) trong buổi đầu
khai thiên lập địa; địa danh trong truyền thuyết là sự “đánh dấu lãnh thổ” sau mỗi
cuộc chiến tranh giành, giữ bản mường thì địa danh trong những câu chuyện cổ
tích lại chủ yếu mang nội dung xã hội. Nói như tác giả Trần Thị An, “mỗi địa danh
đều mang chở trong mình những câu chuyện nhân sinh, chất chứa bao tình cảm,
thái độ của nhân dân trước những vấn đề xã hội”[2].
Ý nghĩa của các địa danh trong thần thoại, cổ tích hay truyền thuyết cũng là
điểm làm nên tính độc lập tương đối của truyện kể địa danh so với các thể tài
truyện kể dân gian khác, khẳng định giá trị của việc khu biệt nhóm truyện kể này
trong kho tàng truyện kể dân gian.
Nhìn tổng thể tấm “bản đồ” địa danh mà người Thái vẽ nên qua những câu
chuyện có thể hình dung phần nào con đường cũng như cách thức mà người Thái
gieo những hạt mầm văn hóa trên những vùng miền họ đã đi qua để dần hình
thành nên một địa vực mang màu sắc riêng, có thể gọi bằng cái tên “vùng Thái”.
CHƯƠNG 3
BIỂU TƯỢNG VÀ CỐT TRUYỆN TRONG
TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM
3.1. Cốt truyện trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam
3.1.1. Cốt truyện của thần thoại địa danh Thái

Đọc thần thoại địa danh Thái dễ thấy một đặc điểm là cấu tạo cốt truyện khá
đơn giản xoay quanh sự hình thành của vạn vật và con người. Khó để hình dung
trong những thần thoại như Ải Lậc Cậc, Người khổng lồ Pu Té, Các làng bản vùng
Sơn La… đâu là phần mở đầu và đâu là kết thúc của câu chuyện. Sở dĩ có hiện
tượng này một phần vì các thần thoại Thái ngày nay ta còn biết được có lẽ chỉ là
những mảnh vỡ của một thiên thần thoại xa xưa. Thần thoại về sự hình thành của
giới lồi người theo đó có thể hình dung gồm ba “lớp” hay chính là ba lần Then -


11

đấng tối cao của người Thái - gây dựng trần gian. Lần thứ nhất được kể khá thống
nhất trong các câu chuyện, đó là khi “mặt đất cịn hoang vu, Then mới sai năm
chúa Xô Công xuống xây dựng trần gian” tạo ra đồi núi, cây cối, sơng ngịi, vạn
vật rồi sai đem “10 giống Thái, 5 giống Xá” xuống ở trần gian (Truyện Ải Lậc
Cậc, truyện Khun Bó Rồm). Tuy thế, bởi ở lần kiến tạo này con người ăn ở không
tốt khiến Then nổi giận nên làm ra hạn hán thiêu đốt khiến cây cỏ chết khơ. Tiếp
đó, Then lại làm ra hồng thủy khủng khiếp làm ngập lụt thế gian, san bằng mọi
thành quả của công cuộc kiến tạo lần thứ nhất. Lần thứ hai, Then cho vợ chồng
khổng lồ Ải Lậc Cậc xuống trần gian tạo ra những vùng đất đai trù phú, tạo ra bốn
cánh đồng lớn lần lượt là “nhất Thanh, nhì Lị, tam Than, tứ Tấc” như ngày nay.
Nhưng rồi con người vẫn khơng làm vừa lịng Then, Then lại cho làm mưa khiến
con người chết hết, mặt đất lại hoang vu. Lần thứ 3 khi những thủ lĩnh Khun Bó
Rồm hay Tạo Xuông, Tạo Ngần (đều được kể là người của Then) được cử xuống
trần gian mang theo những giáo mác đồng, những quả bầu thiêng chứa hạt giống
nhân gian. Từ quả bầu thiêng ấy, con người được sinh ra. Các vị thủ lĩnh lại dạy
con người biết ăn biết ở, biết đắp ruộng làm nương, làm nhà dựng cửa và sinh xôi
nảy nở mãi ra.
3.1.2. Cốt truyện của truyền thuyết địa danh Thái
Nếu như trong những câu chuyện thần thoại, nội dung giải thích thế giới, giải

thích sự xuất hiện của vạn vật và con người chiếm ưu thế thì truyền thuyết hướng
tới sự thiêng liêng hóa bộ lạc, chủ yếu xoay quanh những cuộc chiến mở rộng và
bảo vệ lãnh thổ mà nhân vật trung tâm là những anh hùng của bộ lạc. Bên cạnh đó,
truyền thuyết địa danh cịn đề cập đến một nội dung khác đó chính là nội dung giải
thích địa danh. Cốt truyện của những truyền thuyết này vì thế cũng phân thành hai
dạng: dạng thứ nhất xoay quanh những người có cơng với cộng đồng; dạng thứ hai
chỉ chủ yếu xoay quanh việc hình thành địa danh mà không đề cập đến nhân vật
nào cụ thể.
Trước hết, xét trong số những truyền thuyết mà chúng tơi tập hợp được có
22 truyền thuyết về các vị anh hùng, có những người mang tên tuổi cụ thể như
Lạng Chượng, Pha Nha Nhọt Chọm Khăm, Lê Lợi...; có những người có tên
nhưng cũng chỉ là tên gọi phiếm chỉ như nàng Han (trong tiếng Thái, “han” có
nghĩa là “tài giỏi”), ông quan Cuông, chàng trai tài giỏi, Tạo Mường
Trong 36 truyền thuyết thuần túy lý giải địa danh cịn lại, sự chi phối của mục
đích kể chuyện đã khiến cốt truyện chủ yếu xoay quanh việc lý giải sự hình thành
địa danh với hai phần: phần trước kể một sự việc hoặc một nguyên nhân, phần sau
là kết quả của sự việc hoặc ngun nhân đó (chính là sự hình thành địa danh).
3.1.3. Cốt truyện của truyện cổ tích địa danh Thái
Trong số hơn 100 truyện kể đã tập hợp được, ngoại trừ 11 thần thoại và hơn
58 truyền thuyết, phần còn lại là những câu chuyện cổ tích mang chở những tâm
tư, tình cảm của cộng đồng người Thái, bên cạnh đó có những chi tiết lý giải các
địa danh liên quan. Có thể thấy dù các truyện kể có dung lượng dài ngắn khác
nhau nhưng thống nhất ở chỗ hệ thống cốt truyện đã tương đối phát triển theo trình
tự có khởi đầu, phát sinh mâu thuẫn, phát triển cao trào và giải quyết mâu thuẫn


12

(kết thúc). Một số truyện kể có số lượng nhân vật tương đối phong phú với tính
chất hành động đa dạng. Men theo cốt truyện, khởi đầu luôn là phần trình bày cho

thấy bối cảnh của nhân vật cũng như những tiền đề dẫn tới sự phát sinh mâu thuẫn
trong đó nhân vật thường xuất thân từ một bản hay một mường cụ thể. Đây cũng là
đặc trưng hết sức thú vị của truyện cổ tích địa danh Thái bởi không gian để nhân
vật xuất hiện là không gian thực, một bản mường đã được định danh mà thậm chí
cho đến ngày nay những địa danh đó vẫn cịn tồn tại.
3.2. Các biểu tượng tiêu biểu trong truyện kể địa danh Thái
3.2.1. Biểu tượng nước
Nếu với các tộc người Tây Ngun, rừng gắn bó với đời sống cư dân, rừng
ni sống họ và rừng ám ảnh họ, “rừng phủ kín phần lớn khu vực sống của cư dân
bản địa, chiếm vị trí trung tâm của vùng đất này. Rừng có mặt khắp nơi trong làng,
ngồi rẫy (…) Rừng khơng chỉ là lãnh địa của các lồi thảo mộc và mng thú đáng
ngại đấy còn là nơi cư trú đặc biệt của các Yang cũng như cây cối và hổ”, thì với
người Thái, nước lại là khơng gian gắn bó và nhiều sức gợi. Khơng phải ngẫu nhiên
mà Georges Coedes ví họ với sự uyển chuyển, biến hóa khơn lường của nước. Tầm
quan trọng của nước đối với đời sống của người Thái thể hiện qua những lớp nghĩa
phong phú của biểu tượng mà nhìn từ góc độ truyện kể địa danh càng bộc lộ thêm
nhiều nét thú vị. Các địa danh liên quan đến nước cùng những truyện kể về nó cũng
cho thấy cách thức mà tộc người mang sức mạnh tiềm ẩn dần dần khẳng định sự tồn
tại cũng như khả năng thẩm thấu, dung hợp văn hóa ở những nơi mà họ đặt chân
đến.
3.2.2. Biểu tượng núi
Có một điều thú vị là, trong khi cuộc sống của người Thái tưởng như gắn
liền với nước, thì núi – yếu tố mang tính dương – cũng xuất hiện như một biểu
tượng song trùng. Trong truyện kể của mình, người Thái ln chú trọng giải thích
ngun do việc hình thành tên gọi của núi non, đất đai, làng bản. Những ngọn núi
bao quanh thung lũng, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống vật chất và tâm linh
của cộng đồng, vì thế cũng thường xuyên được quan tâm, kể chuyện và lý giải về
tên gọi.
Nếu như “một “biểu tượng” là một thứ được nhất trí chung xem như là điển
hình hóa một cách tự nhiên, hoặc biểu trưng hay hồi tưởng về một cái gì đó bởi

chúng sở hữu các tính chất giống nhau, hay bởi mối quan hệ trong thực tế hoặc tư
duy” thì núi trong truyện kể địa danh của người Thái mang rất nhiều giá trị biểu
trưng do có mối quan hệ cả trên thực tế lẫn trong tư duy tộc người. Nó xứng đáng
là một biểu tượng tiêu biểu của văn hóa Thái nói chung và kho tàng truyện kể địa
danh nói riêng.
3.1.3 . Biểu tượng nỏ
Người Thái là cư dân lúa nước, tuy thế trong đời sống của họ, nguồn thịt
quan trọng được cung cấp nhờ săn bắn (chứ không phải chăn nuôi), và bởi vậy
trong xã hội Thái, những người đàn ông giỏi săn bắn rất được coi trọng. Có lẽ bởi
lý do này mà trong tập hợp truyện kể địa danh có rất nhiều câu chuyện kể về
những người đàn ông giỏi dùng tên nỏ. Những nhân vật như nai phan – người


13

đứng đầu phường săn - trong truyện Tạo Mường Phe và bản Na Tịong, ơng Pú
Qn Mp (truyện Pú Qn Mp), người đàn ơng trong Sự tích bản Tà… đều là
những người có tài dùng nỏ và săn bắn. Có thể nói, hình ảnh chiếc nỏ gắn liền với
hình ảnh người anh hùng, góp phần kiến tạo nên phẩm chất của họ, và bởi thế, bản
thân nó trở thành một biểu tượng đa nghĩa.
Trên những hành trình tìm kiếm vùng đất mới, trong lao động sản xuất,
và cả trong những cuộc chiến chống lại kẻ thù, chiếc nỏ từ chỗ là vũ khí đã
tham gia vào các sự kiện lịch sử, xã hội của tộc người mà trở thành biểu
tượng. Với người Thái, nỏ ln là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh chinh
phục, cho sự mưu lược và khôn ngoan.
Tiểu kết:
Cốt truyện và biểu tượng là hai khái niệm thống nhìn tưởng như khơng thể
đứng chung, nhưng trên thực tế, đối với một “cơ thể sống” là truyện dân gian thì
cốt truyện giống như bộ khung xương trong khi biểu tượng chính là huyết mạch.
Cốt truyện cho thấy dạng thức mà truyện kể tồn tại trong cộng đồng trong khi

những biểu tượng bắt rễ sâu từ cội nguồn của văn hóa tộc người, là dịng máu ni
dưỡng, gắn kết những câu chuyện, đem đến cho chúng phần sinh sắc, sự khác biệt
hay cái riêng có.
Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam có hệ thống cốt truyện phong
phú và phân biệt ở từng thể loại. Đối với nhóm truyện thần thoại, cốt truyện hầu
hết chỉ là chuỗi hành động, thậm chí là một hành động của nhân vật thần thoại bởi
như đã phân tích, những thần thoại có được cho đến nay có lẽ chỉ là mảnh vỡ của
những thiên thần thoại xa xưa. Như thế, đương nhiên những câu chuyện dạng này
khơng có cốt truyện theo kiểu mở đầu, phát triển rồi kết thúc; thậm chí khi xã hội
phát triển hơn, ý thức về “người mình”, “tộc mình” đã hình thành trong truyền
thuyết thì cốt truyện vẫn hết sức đơn giản. Ngoại trừ một số truyền thuyết kể về
nhân vật anh hùng của bản mường là bắt đầu giới thiệu từ xuất thân tới hành trạng
và chung cục của nhân vật, còn lại các truyền thuyết khác, kể về người cũng chỉ
tập trung vào hành trạng cịn nếu thuần túy lý giải địa danh thì chủ yếu kể về sự
kiện dẫn tới địa danh được hình thành. Phải sang đến truyện cổ tích, những câu
chuyện đều có mở đầu, phát triển, cao trào rồi mới dẫn đến kết cục. Địa danh có
khi được lý giải từ đầu câu chuyện, có khi liên quan đến hành trạng của nhân vật,
cũng có khi nằm ở phần kết thúc của câu chuyện. Nhìn xuyên suốt tập hợp truyện
kể, địa danh giống như sợi chỉ đỏ xâu chuỗi những viên ngọc là những câu chuyện
dân gian ở những vùng đất khác nhau, khiến chúng thống nhất thành một chuỗi
hạt. Không chỉ thế, chuỗi hạt này còn tỏa sáng, bởi chúng mang trong mình những
tầng bậc ý nghĩa bắt rễ sâu từ văn hóa tộc người, đó chính là ý nghĩa từ các biểu
tượng.
Ba biểu tượng nước, núi và nỏ chưa phải là tất cả những biểu tượng tiêu biểu
xuất hiện trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, mặc dầu vậy sự
khảo sát với ba biểu tượng này cũng cho thấy phần nào sự phong phú của văn hóa
tộc người. Những lớp nghĩa của biểu tượng khơng phải là yếu tố tĩnh tại và đóng
kín, chúng được hình thành, chuyển di và trương nở trong quá trình người Thái



14

cũng như bất cứ tộc người nào duy trì vơ vàn các mối quan hệ xã hội với cộng
đồng trong/ngoài mường bản, với nội tộc, ngoại tộc, với tự nhiên và xã hội, để
biểu hiện một nhu cầu tự nhiên là khẳng định và khuếch trương văn hóa. Họ sử
dụng các cách thức khác nhau để phóng chiếu nghĩa của biểu tượng (tức là những
hạt nhân văn hóa của cộng đồng) lên các thực thể nhằm khẳng định chính mình
đồng thời thể hiện sự ảnh hưởng với những cộng đồng khác.
Với người Thái – tộc người sống dựa lưng vào núi và chinh phục những con
nước để xây dựng bản mường và mở mang văn hóa - hai yêu tố núi và nước cũng
gắn liền trong tư duy văn hóa của họ. Nước không chỉ là “chất tạo lập và duy trì
bản mường Thái”, là khơng gian mang tính thiêng và sản sinh các sức mạnh thiêng
liêng mà còn là nguồn thanh tẩy, đem đến nguồn sống vô hạn cho cả cộng đồng.
Cùng với nước, núi yếu tố mang tính dương – cũng xuất hiện như một biểu tượng
song trùng. Cũng giống như nước, núi trước hết là biểu tượng của sự thiêng liêng,
nơi giao hòa với nước để sinh ra tổ tiên người Thái. Núi còn là nơi che chở cho
con người trước kẻ thù, trước những đau thương, hiểm họa. Núi là chứng nhân cho
lòng quả cảm và đức hy sinh vì cộng đồng.Bên cạnh việc xây đền, thờ phụng núi
non, thờ phụng những vị thần ngự trị nơi đầu sông, ngọn suối, người Thái cũng bỏ
nhiều công lao để chinh phục mường nước/dòng nước phục vụ cho mường bản;
dùng tài trí của mình để chinh phục các thế lực cả ở trên núi và dưới nước. Điều
đó kết tinh trong sức mạnh của biểu tượng thứ ba – cây nỏ - vật bất ly thân của
những người anh hùng bảo vệ bản mường.
Điều đặc biệt là dù xem xét bất cứ biểu tượng nào cũng có thể thấy sự phong
phú của các lớp nghĩa được phóng chiếu vào các địa danh. Truyện địa danh Thái
nói chung với hệ thống biểu tượng phong phú vì thế vượt ra ngồi ý nghĩa tự thân
của nó, thuộc về giấc mơ mang tính cộng đồng với sức mạnh của một “trận lụt"
mang tên Phủ Táy.
CHƯƠNG 4
KHÔNG GIAN XÃ HỘI TRONG TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH

CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM
4.1. Mối liên hệ với các hình thức khơng gian, thời gian và môi trường
4.1.1. Các mối liên hệ với không gian, thời gian
Nhận xét về người Thái, G. Coedes từng viết, “Từ “lụt” có lẽ hợp với tiến
trình phát triển của người Thái, bởi vì họ cũng uyển chuyển khơn lường như nước,
cũng len lỏi với một sức mạnh khôn lường như thế, cũng mang màu sắc của mọi
bầu trời và hình dạng của mọi bờ bến, thế nhưng, dưới các dáng vẻ bề ngồi khác
nhau, họ vẫn gìn giữ được cái bản sắc chủ yếu và ngôn ngữ của dân tộc mình”
[33,234]
Có một thực tế là “cơn lụt” Thái tràn đến đâu, nơi đó đều để lại dấu vết, mà
dễ thấy nhất là những tên sông, tên núi, tên làng bản ruộng nương mang đậm dấu
ấn tộc người. Xét từ góc độ folklore ngôn từ, các tên gọi này thể hiện trong hàng
loạt truyện kể có yếu tố giải thích tên gọi của các sự vật tự nhiên (đồi, núi, dốc,
đèo, sông, suối, thác ghềnh…) và những điểm dân cư (mường, bản...) hoặc những
cơng trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất của tộc người (mương, phai,


15

mó, ruộng…) mà trong nghiên cứu này chúng tơi quan niệm là truyện kể địa danh.
Đây giống như tiền đề cho phép nghiên cứu xuất phát từ một bộ phận sáng tác
ngơn từ dân gian để tìm hiểu những mối quan hệ xã hội tộc người, hướng tới làm
sáng tỏ tính cố kết cộng đồng, thứ cơ hồ có thể đưa ra một phương thức đoán định,
một gợi ý cho câu hỏi: vì sao người Thái vẫn giữ được “bản sắc chủ yếu và ngơn
ngữ của dân tộc mình”?
Qua truyện kể địa danh, có thể thấy người Thái đã định hình cho mình một
bản đồ cư trú khá rõ nét mà biên giới của nó được vạch ra bởi những mốc không
gian theo cả hai chiều hiện thực và tâm linh. Bằng cách ấy, ý thức về cái “của
chúng tôi” được xác lập, nó có ý nghĩa trước hết với bản thân tộc người đồng thời
cũng là một cách “tuyên ngôn” với những cộng đồng khác tộc.

4.1.2. Các mối quan hệ với môi trường
Trong không gian được “cắm mốc” xác định, tộc người tiến hành những
hoạt động vật chất (đánh bắt, gieo trồng, mặc, ở và ăn…). Như vậy, cách thức tác
động riêng tới môi trường sống cũng là một nét cấu thành không gian xã hội tộc
người và phân biệt với mối quan hệ không gian. Nếu như dạng quan hệ trên cho
biết cách thức tộc người định vị mình và những nhóm/tộc khác trong khơng gian
và thời gian thì mối quan hệ với mơi trường chủ yếu được xây dựng nhờ những
hoạt động tác động tới thế giới tự nhiên nhằm duy trì sự tồn tại trong khơng gian
và thời gian đó.
4.2. Các mối quan hệ hơn nhân
Ngày nay, khi xã hội đã phát triển, hôn nhân được hiểu là “sự liên kết giữa
người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện
và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình
hạnh phúc và hồ thuận” [60, 148]. Tuy vậy, trong lịch sử phát triển, lồi người đã
trải qua rất nhiều dạng thức hơn nhân khác nhau từ tạp hôn, quần hôn, lưỡng hợp
ngoại hôn, nội hôn, hôn nhân đối ngẫu đến hôn nhân một vợ một chồng. Với ý
nghĩa cơ bản là sự kết hợp tính giao giữa nam và nữ (ngoại trừ ở một số xã hội cịn
mang tính chất cổ sơ như người Nuer ở miền Đông Châu Phi thuộc Etiôpia và
Xuđăng hay một số tộc người khác ở Châu Phi vào đầu thế kỷ XX vẫn còn tồn tại
những tập tục hơn nhân hơn nhân khơng có đàn ơng và hơn nhân với hồn ma),
nhưng không đồng nhất với quan hệ tính giao, bởi thế nó mang ý nghĩa văn hóa, là
tiếng nói văn hóa của con người can thiệp vào tự nhiên và mang những đặc tính xã
hội – kinh tế cụ thể trong từng giai đoạn phát triển. Cụ thể hơn, hơn nhân khác với
quan hệ tính giao ở thực tế tạo nên các mối quan hệ mới giữa họ hàng người chồng
và họ hàng người vợ (quan hệ thông gia) - tương phản với quan hệ huyết thống
“ruột thịt”. Đặc biệt, khi chế độ kết hôn ngoại tộc ra đời, sự phân biệt với quan hệ
tính giao càng rõ nét khi nó xuất phát từ ý đồ dùng hôn nhân để thiết lập mối quan
hệ ngoại tộc, biến kẻ bên ngoài thành thành người nội tộc để giữ gìn sự ổn định.
Trong truyện kể địa danh của người Thái, các mối quan hệ hôn nhân phức
tạp thể hiện một trong những cách thức mà tộc người thiết lập và duy trì các mối

quan hệ đồng tộc/ khác tộc nhằm duy trì và củng cố quyền lực, địa vị của họ trên
mảnh đất mà họ đã và đang làm chủ. Điều đó cũng giải thích tại sao địa vị của


16

người Thái ngày càng trở nên vững chắc dù cho họ không phải là tộc người bản
địa.
4.3. Các mối quan hệ tạo lập bởi ngôn ngữ
Địa danh được sinh ra, phát triển cùng văn hoá, và cũng là một hiện tượng
văn hóa bởi vì ngơn ngữ là sản phẩm/thành phần của văn hóa:Với tư cách là cơng
cụ của tư duy, ngôn ngữ của mỗi tộc người phản ánh tư duy thực tại đời sống của
chính họ. Cùng một sự vật, hiện tượng nhưng mỗi tộc người dùng những biểu
tượng khác nhau để gọi tên. Bằng cách này, họ tạo lập được mối quan hệ vơ hình
với thế giới tự nhiên và với xã hội mà trước hết là với những người đồng tộc.
Thông qua công cụ ngôn ngữ, các quy tắc ứng xử xã hội được hình thành, truyền
bá và củng cố theo thời gian. Mặt khác, ngôn ngữ là chủ quan, nghĩa của ngôn ngữ
nằm trong tư duy của con người chứ không nằm ở ngôn từ. Một địa danh được
phát âm theo tiếng Thái khi được hành chính hóa sẽ là tài sản chung của cả cộng
đồng bao gồm nhiều tộc người. Tuy vậy, đối với tất cả các tộc khác, nó chỉ đơn
thuần là dấu chỉ về một địa điểm, một vùng đất, còn với người Thái là cả một lịch
sử trải nghiệm văn hóa, bao hàm trong đó những ý niệm về tự nhiên và xã hội của
riêng tộc người.
Địa danh với tư cách là một hiện tượng của ngơn ngữ học đồng thời là hình
thức thể hiện văn hóa của một cộng đồng, một tộc người đã/đang hiện diện trong
vùng lãnh thổ mà địa danh tồn tại. Nghiên cứu này quan tâm đến các địa danh và
những câu chuyện hình thành xung quanh địa danh Thái tộc. Bởi thế chúng tôi tiến
hành xem xét các mối quan hệ xã hội tộc người từ góc độ ngôn ngữ thông qua việc
liệt kê, phân loại hệ thống địa danh đồng thời chỉ ra các đặc điểm, quy tắc hình
thành nên các địa danh đó. Những quy tắc này chính là cách thức tư duy của tộc

người, cách họ nhìn/quy định thế giới và xác lập quan hệ của mình với thế giới.
Vì các truyện kể được tập hợp làm đối tượng nghiên cứu đều được kể bằng
tiếng Việt nên việc khảo sát các mối quan hệ xã hội Thái tộc trên bình diện ngơn
ngữ chỉ tập trung vào các địa danh được phát âm theo âm tiếng Thái (trên cơ sở
chấp nhận rằng các địa danh này tuy được viết bằng chữ quốc ngữ, thay vì chữ
Thái, nhưng vẫn thể hiện được tương đối đầy đủ nội hàm ý nghĩa mà người Thái
muốn chuyển tải). Danh sách thống kê gồm 218 địa danh, trong đó một số địa
danh xuất hiện hơn một lần ở những địa phương khác nhau đã được ghi rõ trong
truyện và hình thành do những nguyên nhân, cảnh huống và ý nghĩa văn hóa ít
nhiều khác biệt, vì vậy mỗi lần xuất hiện của địa danh chúng tôi vẫn xác định là
một địa danh độc lập. Cần nhấn mạnh, đây đều là những địa danh được lý giải (đối
tượng của nghiên cứu, phân biệt với các địa danh khơng được lý giải, có thể đã
hình thành trước đó).
Việc phân tích các mối quan hệ ngôn ngữ đươc xác lập trước hết thông qua
hệ thống địa danh cho thấy ngôn ngữ cũng là một trong những phương tiện hữu
hiệu để cộng đồng người Thái khẳng định chủ quyền đối với đất đai, sông núi.
Bằng cách gieo những « hạt giống ngơn từ » - địa danh, tộc người đã bộc lộ ý thức
khẳng định cái tơi, khẳng định sự tồn tại của mình trước các động đồng khác từ đó
ngày càng củng cố vững chắc địa vị của mình.


17

Tiểu kết.
Trong suốt quá trình tồn tại, mỗi tộc người tuân theo một cách thức riêng và
xác lập hàng loạt các mối quan hệ với không gian, thời gian, môi trường và các
cộng đồng khác. Tổng hợp các môi quan hệ đó, “khơng gian xã hội là cái khơng
gian được xác định bởi tập hợp các hệ thống quan hệ đặc trưng cho một nhóm
người nào đó” [33,16]. Người Thái trải qua một lịch sử tụ cư và lan tỏa lâu dài
cũng đã thiết lập vô vàn các mối quan hệ với không gian, thời gian, môi trường,

kiến tạo các mối quan hệ thông qua hôn nhân và ngôn ngữ. Từ góc độ khơng/ thời
gian, khơng gian xã hội Thái là hình thành thơng qua mối liên hệ giữa con người
với các hình thức khơng/thời gian mang tính thực tế và mang tính quan niệm –
hình thức mà tộc người định vị chính mình trong thế giới thực và thế giới tâm linh.
Nói cách khác, truyện kể địa danh với việc gọi tên khơng gian trước hết gợi lên
trong nó những đoán định về quan hệ giữa tộc người với không gian nơi họ đang
tồn tại và/với những yếu tố kiến tạo nên nó. Từ góc độ quan hệ hơn nhân, khơng
gian xã hội Thái lại là q trình khơng ngừng mở rộng lãnh thổ, quyền uy thông
qua các mối giao kết hôn nhân đồng tộc và khác tộc. Sợi dây hơn nhân ấy khi chắp
nối thành cơng thì biểu trưng cho quyền lực cộng đồng, trái lại khi thất bại lại thể
hiện ước vọng lớn lao của tộc người trong việc nới rộng quan hệ kết giao với
những cộng đồng hữu hảo cũng như hạn chế quan hệ với những cộng đồng được
cho là đem lại nguy hiểm hoặc làm cho họ cảm thấy sợ hãi (chẳng hạn hôn nhân
với mường nước). Là yếu tố nổi bật làm nên đặc trưng về mặt ngơn ngữ của nhóm
truyện kể này, địa danh - bản thân nó cũng góp phần mơ hình hóa mối quan hệ về
ngơn ngữ trong khơng gian xã hội tộc người. Sự kết hợp giữa các yếu tố để hình
thành địa danh cùng những câu chuyện xoay quanh sự hình thành của chúng chính
là những sự kiện xã hội giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân trong cộng đồng những
người đồng tộc và cả những người khác tộc.
Được kiến tạo từ buổi chuyển dời tới nơi ở mới, không gian xã hội Thái là kết
quả của q trình hoạt động khơng ngừng mà những địa danh được xác lập là kết
tinh của những hiểu biết về thế giới cùng ý thức của tộc người trong việc xác định
một khơng gian riêng mang đặc trưng văn hóa của chính họ. Tính đa dạng của các
mối quan hệ xã hội nhìn từ góc độ truyện kể địa danh được phân tích trên đây
cũng cho thấy khả năng tiếp tục triển khai các nghiên cứu kỹ lưỡng hơn nhằm hình
dung một khơng gian xã hội Thái tộc tương đối trọn vẹn làm cơ sở cho sự hiểu biết
sâu sắc hơn về tộc người.
KẾT LUẬN
1.Truyện kể địa danh là những truyện kể có yếu tố giải thích tên gọi của các
sự vật tự nhiên (đồi, núi, dốc, đèo, sông, hồ, gò, đầm…) và những điểm dân cư

(mường, bản...) hoặc những cơng trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất
của nhân dân (mương, phai, mó, ruộng…) mà tên gọi đã được xác định trên các
vùng lãnh thổ Việt Nam. Chúng lưu giữ những “hạt mầm” quý giá mà tộc người
mang theo trên bước chân thiên di, đó là những hạt nhân văn hóa được người Thái
gieo một cách có ý thức ở mỗi vùng đất mà đặt chân lên, xây bản, dựng mường.
Trong những câu chuyện ấy, địa danh không chỉ đơn thuần là tên gọi mà hàm chứa


18

trong nó là một câu chuyện, là tâm tư, tình cảm, là những ước nguyện và điều răn
dạy, để mỗi khi tên gọi được cất lên đồng nghĩa với một lát cắt của huyền thoại,
của lịch sử hay của đời sống được hiện về. Địa danh có thể coi là yếu tố hiện tồn
sinh động nhất luôn bám chặt vào cuống nhau của văn hóa mẹ, nhờ vào những câu
chuyện dân gian kể về chúng.
Người Thái đã có lịch sử cư trú lâu đời trên đất nước ta, vốn văn hóa mà họ
cịn lưu giữ được trong đó có văn chương dân gian vì thế vơ cùng phong phú. Đến
thời điểm hiện tại, số lượng truyện kể được sưu tầm/ sưu tập là 111 truyện kể là
một trong những minh chứng sống động cho sự phong phú đó. Q trình tập hợp,
sưu tầm, thống kê và phân loại 111 truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam
cho thấy hiện diện trong nhóm truyện kể này cả ba thể loại: thần thoại, truyền
thuyết và truyện cổ tích với nội hàm văn hóa vơ cùng phong phú cho thấy sự phát
triển ngày càng cao về nhận thức, tư duy và cách thức tổ chức xã hội của người
Thái. Một tộc người từ chỗ là cư dân dạt xuống vùng đất mới đã dần dần định cư,
mở rộng lãnh thổ, hình thành nên một mơ hình xã hội với nền văn hóa đậm sắc
màu và có chỗ đứng riêng.
2. Hơn 100 truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam có các dạng cốt
truyện phát triển theo đặc trưng thể loại. Với thần thoại, những truyện sưu tầm
được, như chúng tơi đã phân tích trong chương trước, có lẽ chỉ là mảnh vỡ của
một thiên thần thoại vĩ đại cổ xưa. Bởi vậy, trong hình thức là những mẩu truyện

có độ dài ngắn khác nhau, cốt truyện thần thoại địa danh Thái chủ yếu xoay quanh
một vài hành động của nhân vật chính (những người khổng lồ hoặc những nhân
vật thủy tổ), và hành động đó thường có kết quả là sự hình thành nên các địa danh.
Đến thể loại truyền thuyết, cốt truyện bắt đầu có sự phân hóa. Một bộ phận truyện
kể thuần túy lý giải địa danh cùng một số truyện kể về các nhân vật anh hùng có
cốt truyện đơn giản gồm hai phần, phần nêu lên sự việc và phần kết quả gắn liền
với sự hình thành địa danh. Nhóm cịn lại trong số các truyền thuyết địa danh gồm
những câu chuyện có cốt truyện ba phần gắn liền với xuất thân, hành trạng và kết
cục của nhân vật chính, trong đó địa danh được hình thành có thể gắn với hành
trạng của nhân vật ở phần thứ hai, hoặc gắn với kết cục của nhân vật ở cuối truyện.
Mạch phát triển này của cốt truyện còn tiếp tục được diễn tiến ở thể loại truyện cổ
tích. Tập hợp hơn 40 câu chuyện cổ tích đều có cốt truyện gồm bốn phần, phần mở
đầu nêu ra bối cảnh của câu chuyện; phần phát triển có sự xuất hiện của các dạng
mâu thuẫn bao gồm mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn mang tính
chất tâm linh (với một mường khác mà người Thái coi là có tồn tại, ở dưới mặt
nước); phần cao trào là khi các sự việc được đẩy đến tột cùng buộc nhân vật phải
đưa ra những lựa chọn hành động (ở đây nhiều khi địa danh được hình thành), và
phần kết thúc kể ra kết cục của việc giải quyết các dạng mâu thuẫn (đây là phần
chủ yếu dẫn đến hình thành địa danh). Những câu chuyện kể gắn với sự hình thành
địa danh nhưng hồn tồn khơng phải là sự minh họa cho địa danh mà bản thân
chúng là những sự kiện sống động gắn bó với tư duy và đời sống tộc người, mang
chở những ý vị nhân sinh mà ngồi cốt truyện, chúng cịn được gửi gắm qua nhiều


19

yếu tố khác nằm trong nội hàm truyện kể, tiêu biểu như các biểu tượng văn hóa tộc
tộc người.
3. Việc giải mã ba biểu tượng tiêu biểu trong truyện kể địa danh Thái tộc là
Nước, Núi và Nỏ trước hết cho thấy sự phong phú trong các lớp nghĩa, ngoài ra

cũng bộc lộ khả năng phát triển của chúng. Biểu tượng Nước với ý nghĩa là vật
chất khởi thủy, là không gian thiêng, biểu tượng của sự thanh khiết và sức mạnh
thanh tẩy cuốn đi mọi bệnh tật, tội lỗi, xấu xa... ln là điều bí ẩn và thách thức
đối với người Thái. Bởi vậy, dù bản thân họ từng được ví với sự uyển chuyền
khơn lường của nước nhưng người Thái, đối với nước, cũng luôn sợ hãi. Điều đó
lý giải vì sao trong mọi hình dung của tộc người về nước, biểu tượng này cũng
ln mang tính hai mặt. Bên cạnh Nước, trong quan niệm của người Thái, Núi
tham gia vào hệ thống biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm với tính cách là trung
tâm của những hiện tượng hiển linh nhưng đồng thời cũng là biểu tượng của tính
ổn định, đức thủy chung hay những gian khó mà tộc người cần chinh phục. Sự
tham góp của núi trong đời sống thường nhật, khi sống và khi chết, khi gian nan và
cả trong hạnh phúc cho thấy một thái độ hoàn toàn khác với khi đứng trước sức
mạnh của dòng nước hung hãn. Sự gần gũi của biểu tượng ở đây cũng là một đặc
trưng mang tính tộc người, núi là thực thể linh thiêng cũng là bè bạn. Trong quá
trình dài kiếm tìm và định hình lãnh thổ, văn hóa Thái bắt rễ, kết tinh và để lại dấu
ấn trong các biểu tượng núi và nước. Ngồi ra, biểu tượng Nỏ với ý nghĩa là cơng
cụ chiến đấu, là vật thẩm định tài năng và khả năng phân định thế giới cũng cho
thấy tính năng động và sự khéo léo trong bản tính tộc người. Những địa danh hình
thành trong truyện kể đều gắn liền với các biểu tượng và làm nên một phần ý
nghĩa của biểu tượng. Chúng cũng cho thấy sự tự ý thức cao độ của tộc người
trong việc kiến tạo nên những giá trị văn hóa của riêng mình.
4. Để hình thành một địa vị ổn định, người Thái khơng ngừng tích cực và
chủ động xây dựng các mối quan hệ xã hội. Quan hệ với không gian, thời gian và
môi trường cho thấy cách thức tộc người tác động đến thiên nhiên, chế ngự nó để
định hình khơng gian sống. Qua những câu chuyện kể, quan cách ddinnhj danh
cho đất đai, sông núi, bản mường, người Thái đã tự định vị mình trong khơng gian
với, tự đánh dấu sự tồn tại của mình bằng những chứng tính cụ thể, những hành
động cụ thể. Tiếp đó, các quan hệ hơn nhân là cách để họ củng cố địa vị vững chắc
địa vị đã gây dựng tại nơi mà mình đặt chân tới. Các dạng hơn nhân được hình
thành và có thể nhìn thấy qua truyện kể rất đa dạng bao gồm cả hôn nhân nội tộc

và hôn nhân ngoại tộc, hôn nhân cùng lồi và hơn nhân khác lồi, mà quan trọng
hơn là thái độ, cách ứng xử của của cộng đồng trước các loại hình hơn nhân đó.
Việc họ phản đối hay đồng thuận với một hình thức hơn nhân nào nhiều khi chính
là câu trả lời cho việc cuộc hơn nhân đó có lợi hay khơng đối với cộng đồng. Tiếp
theo, có thể thấy truyện kể địa danh thể hiện các mối quan hệ xã hội được tạo lập
thông qua ngôn ngữ, đặc biệt là việc định danh các sự vật nằm trong địa vực cư
trú. chính là cách mà “cơn lụt” Thái phủ những lớp phù sa văn hóa phong phú và
màu mỡ lên những không gian mới được định hình. Đó chính là lý do vì sao trước
rất nhiều những biến động xã hội, đến nay người Thái cơ bản vẫn giữ được tiếng


20

nói và ý thức tự giác tộc người, thứ làm nên một cộng đồng ổn định và không pha
tạp.
5. Người Thái cũng như nhiều tộc người ở Việt Nam nói riêng và ở các quốc
gia đa tộc người nói chung đang phải đứng trước một thách thức lớn lao, làm sao để
tham gia vào q trình đơ thị hóa, tồn cầu hóa mà khơng làm mất đi bản sắc của
mình. Hẳn khơng thể tìm ra một câu trả lời thống nhất, bởi mỗi tộc người có một nền
văn hóa riêng, một nội lực riêng, chúng giúp hình thành nên những con đường đi với
ít nhiều khác biệt. Với người Thái, việc ngày nay đa phần lớp con em đều nói tiếng
phổ thông từ bậc mẫu giáo, ngôn ngữ mẹ đẻ được thu hẹp lại trong mơi trường gia
đình trong khi văn hóa gia đình cũng ngày càng đổi thay cùng với sự xuất hiện của
lớp công dân xuất thân từ các trường học theo chế độ giáo dục thống nhất, thêm vào
đó là sự xuất hiện của các loại phương tiện nghe nhìn đem đến nhiều luồng văn hóa
mới lạ, tất cả đang làm cho văn hóa truyền thống bị đẩy vào thế yếu. Có một điều
đáng mừng là, khi đến với các vùng đất Thái, chúng tơi khơng khó khăn để nghe
được những câu chuyện về tên gọi của cái hang, con suối, ngọn núi, bản làng. Câu
chuyện có thể đến từ các em học sinh học tại các trường nội trú, đến từ các cụ già
được cho là người có hiểu biết sâu rộng, biết cúng mo, cũng có thể đến từ một người

người dân lao động bình thường. Truyện họ kể có khi đầy đủ, cũng có khi chỉ là một
mẩu trong toàn thể câu chuyện dài, nhưng dẫu sao, địa danh, thứ xuất hiện trong lời
nói của họ hằng ngày, để chỉ dấu nơi họ lên nương, đi ruộng, nơi họ đến đặt cái bẫy
hay nơi trở về sau mỗi ngày vất vả làm lụng, vẫn là yếu tố được nhắc tới thường
xuyên nhất. Và nếu như, đời sống hiện đại khiến cho không gian kể chuyện bị thu
hẹp, khó tìm được những buổi người già ngồi kể chuyện cho con cháu nghe bên bếp
lửa quây quần thì những câu chuyện về địa danh gợi nên từ những thắc mắc, vì đâu
có tên gọi ấy là thứ được nhắc đến thường xuyên hơn cả. Người cha kể cho con câu
chuyện khi đi qua một mảnh nương, người ta nhắc đến suối kia núi nọ trong những
cuộc rượu nồng, truyện kể địa danh, bằng cách ấy vẫn tiếp tục được truyền đi, đem
những hạt mầm văn hóa chất chứa trong lịng nó đến với các thế hệ mai sau. Tất
nhiên, chúng tôi không lạc quan về chuyện, với những cơ chế tự nhiên như vậy,
truyện dân gian nói chung và truyện kể địa danh nói riêng có thể được lưu truyền một
cách bền bỉ. Để làm được điều đó, nhất định phải có sự góp sức của những người làm
công tác sưu tầm, nghiên cứu, những người làm quản lý văn hóa và cả những hạt
nhân trí thức trong cộng đồng. Với suy nghĩ đó, luận án này như là một bước đi ban
đầu thể hiện tâm huyết của người nghiên cứu trong việc góp phần bảo tồn, phát huy
những giá trị văn hóa của người Thái ở Việt Nam.



×