Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Phân tích quy luật “lượng– chất” của phép biện chứng duy vật và vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
⸎⸎⸎⸎⸎

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN
Đề bài: “Phân tích quy luật “Lượng– Chất” của phép biện chứng duy
vật
và vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay ?”
Mã đề: 5

Sinh viên

:

Lớp

:

Mã SV

:

HÀ NỘI, THÁNG 8/2021


Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................3
PHẦN 1: NỘI DUNG PHÂN TÍCH................................................................4
I.


Phương pháp luận và năng lực tư duy biện chứng...........................4

II.

Vai trò của phương pháp luận và vai trò năng lực tư duy trong hoạt

động nhận thức và hoạt động thực tiễn của sinh viên...............................6
III.

Nội dung cơ bản rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy vật

cho sinh viên.................................................................................................7
IV. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nâng cao năng
lực tư duy cho sinh viên trường Đại Học Phenikaa...................................9
PHẦN 2: QUAN ĐIỂM CỦA V.I LENIN VỀ CON ĐƯỜNG BIỆN
CHỨNG CỦA SỰ NHẬN THỨC CHÂN LÝ................................................11
PHẦN 3: QUY LUẬT “LƯỢNG – CHẤT”...................................................14
1. Khái niệm chất và khái niệm lượng........................................................14
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất....................16
PHẦN 4: KẾT LUẬN.....................................................................................18
PHẦN 5: TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................18


LỜI MỞ ĐẦU
Tư duy biện chứng duy vật có vai trò to lớn đối với nhận thức và
hoạt động thực tiễn của sinh viên. Việc nâng cao năng lực tư duy cho
sinh viên là vấn đề quan trọng trong tình hình hiện nay, giúp sinh viên
có tư duy khoa học trong quá trình học tập và làm việc sau này . Cụ thể
là, nó giúp sinh viên khắc phục lối tư duy siêu hình, phiến diện… để có
thể xem xét đối tượng một cách đúng đắn, toàn diện; khắc phục tư

tưởng bảo thủ, trì trệ và thái độ định kiến với cái mới; tránh sự phỏng
đoán thiếu cơ sở khoa học và nguy cơ rơi vào ảo tưởng; nhìn nhận đối
tượng một cách khách quan và khoa học; giúp việc học tập và nghiên
cứu các mơn khoa học khác có hiệu quả hơn, đồng thời có khả năng
gắn kết lý luận với thực tiễn, gắn học với hành , là cơ sở quan trọng để
xây dựng năng lực tư duy, nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn
đặt ra một cách đúng đắn.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự ra đời và
phát triển của kinh tế tri thức, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường. Trước thay đổi đó, địi
hỏi sinh viên khơng những giỏi về chun mơn mà cịn địi hỏi khả
năng vận dụng tri thức khoa học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn
một cách hiệu quả nhất. Vì vậy, việc học tập phương pháp luận duy vật
biện chứng ngay từ năm thứ nhất của sinh viên nói chung và sinh viên
Trường Đại Học Phenikaa nói riêng phải được đặc biệt chú trọng.


PHẦN 1: NỘI DUNG PHÂN TÍCH
I.

Phương pháp luận và năng lực tư duy biện chứng.
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ

những tri thức về các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác
định.
Vậy phương pháp luận là gì? Phương pháp luận (Methodology)
là lý luận về phương pháp, là hệ thống những quan điểm, các nguyên
tắc chỉ đạo con người tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các
phương pháp trong nhận thức và thực tiễn. Trong đó quan trọng nhất là

các nguyên lý có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có tác dụng định
hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tịi, lựa chọn và
vận dụng phương pháp.
Theo từ điển triết học, khái niệm năng lực được hiểu: “Năng lực
là khả năng và điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có, là tổng hợp
những phẩm chất tâm - sinh lý tạo cơ sở và khả năng hình thành một
hoạt động nào đó; năng lực là tổng hợp những phẩm chất tâm - sinh lý
của con người khiến cho nó thích hợp với một loại hình nghề nghiệp
nhất định đã hình thành trong lịch sử”.
“Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện,
liên tưởng, trừu tượng hóa, khái quát hóa và xử lí tri thức trong q
trình phản ánh, tái tạo, phát triển và vận dụng chúng vào những tình
huống thực tiễn nhất định” [1; tr18]. Năng lực tư duy giữ vai trò quan
trọng trong nhận thức khoa học; là khả năng nắm bắt và vận dụng
những tri thức vào cuộc sống; là năng lực phản ánh bằng liên tưởng,
phát hiện và xử lí thơng tin trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể;
là một lực lượng tinh thần đang nhận thức, một cơ chế đang vận động,


sự tổng hợp của các quy luật tư duy trên cơ sở quy luật của đời sống
hiện thực...
Năng lực tư duy biện chứng là một bộ phận cấu thành năng lực
tư duy, nó có vai trị đặc biệt quan trọng đối với chủ thể nhận thức và
hoạt động. Năng lực tư duy biện chứng địi hỏi chủ thể nhận thức
khơng chỉ có tri thức khoa học sâu rộng mà cịn phải biết vận dụng linh
hoạt, mềm dẻo những tri thức đó vào giải quyết những vấn đề cụ thể
trong cuộc sống. Nhưng để có khả năng vận dụng những tri thức chung
nhất của phép biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề cụ thể,
đòi hỏi chủ thể nhận thức phải hiểu biết sâu sắc và nắm vững được
phép biện chứng duy vật. Có như vậy mới hình thành được năng lực tư

duy biện chứng.
Như vậy, năng lực tư duy biện chứng là tổng hợp tất cả các phẩm
chất của tư duy ở trình độ cao, khoa học nhằm giải quyết những vấn đề
nhận thức và thực tiễn đang đặt ra một cách đúng đắn, kịp thời, linh
hoạt, sáng tạo, hiệu quả nhất. Muốn vậy chủ thể tư duy phải: Nắm vững
các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép
biện chứng duy vật vào nhận thức và giải quyết những vấn đề bức thiết
của thực tiễn đặt ra.
Nâng cao năng lực tư duy biện chứng thực chất là nâng cao trình
độ hiểu biết về tư duy biện chứng duy vật và vận dụng các phương
pháp của tư duy biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề nhận
thức và thực tiễn đang đặt ra.Thực tiễn đang đòi hỏi sinh viên Việt Nam
nói chung, sinh viên Trường Đại Học Phenikaa nói riêng phải nỗ lực
học hỏi để nâng cao năng lực tư duy biện chứng duy vật góp phần vào
việc hình thành tư duy lí luận khoa học cho sinh viên, làm cơ sở động


lực cho nhận thức và hành động. Từ đó, giúp sinh viên học tập và
nghiên cứu khoa học tốt hơn, nhìn nhận, đánh giá vấn đề đầy đủ, chính
xác, biện chứng, sáng tạo và linh hoạt vào các hoạt động của thực tiễn
ngành nghề cụ thể.
II.

Vai trò của phương pháp luận và vai trò năng lực tư duy trong

hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của sinh viên
Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực
tiễn thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận
dụng các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn;

đóng vai trị định hướng trong q trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng
phương pháp. Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó,
triết học đóng vai trị là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học
giữ vai trị định hướng cho q trình củng cố và phát triển thế giới quan
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan
đúng đắn mới chỉ là một mặt của triết học Mác - Lênin. Với tư cách là
hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con người trong thế giới đó, triết học thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất. Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin đã góp
phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
Khi khẳng định vai trò của tư duy đối với nhận thức và cải tạo
thế giới, V.I.Lênin đã khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ
phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan” [7,
tr.228]. Điều này cho thấy, một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con
người có thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan; mặt khác,
thông qua hoạt động thực tiễn, con người có thể cải biến hiện thực


khách quan theo những lợi ích của mình. Cũng từ đó, có thể khẳng định
tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trị quan trọng đối với
cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn. Năng lực tư duy biện
chứng sẽ giúp cho sinh viên rất nhiều trong q trình học tập cũng như
cơng tác sau này:
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Tư
duy biện chứng sẽ giúp sinh viên cái nhìn tồn diện, phân biệt tri thức
đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định, phát triển tri thức
đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn biến đổi,
đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…

Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên
khơng cịn phải học vẹt, học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh
giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ...
III.

Nội dung cơ bản rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy

vật cho sinh viên
Sinh viên có rèn luyện năng lực tư duy qua nhiều môn học,
nhưng cơ bản và nền tảng là rèn luyện phương pháp luận biện chứng
trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm: Hai
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật; Các cặp phạm trù cơ
bản của phép biện chứng duy vật; Các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật; Lý luận nhận thức duy vật biện chứng [2, tr.61-124]. Từ
những nội dung này, sinh viên phải biết phương pháp luận được rút ra
là gì để vận dụng trong cuộc sống, lao động, học tập của sinh viên. Do
đó, rèn luyện phương pháp luận biện chứng duy vật cho sinh viên là rèn
luyện các nội dung cơ bản sau:


Một là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm toàn diện trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm tồn diện địi hỏi sinh
viên nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự
vật, hiện tượng phải đặt trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện
tượng khác. Trong hoạt động thực tế, sinh viên phải sử dụng đồng bộ
các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động vào đối tượng

nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Mặt khác, chúng ta cần giúp cho sinh
viên có thể nhận diện và phê phán quan điểm phiến diện, quan điểm
chiết trung, ngụy biện.
Hai là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm lịch sử – cụ thể
trong nhận thức và hành động. Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi sinh
viên trong nhận thức và xử lý các tình huống, giải thích các hiện tượng
cần phải xét đến tính đặc thù của đối tượng nhận thức. Khi nhận thức
sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hồn cảnh lịch sử cụ thể, mơi trường cụ thể mà trong đó sự vật sinh ra, tồn tại, phát triển.
Phải xác định rõ vị trí, vai trị khác nhau của từng mối liên hệ cụ thể,
trong tình huống cụ thể.
Ba là, rèn luyện cho sinh viên có quan điểm phát triển trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm phát triển địi hỏi sinh
viên khơng chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại của sự vật, mà còn phải
thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng; phải thấy
được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt
lùi, khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính
quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong q trình phát triển của
nó. Sinh viên phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành


từng giai đoạn, từ đó có cách tác động phù hợp thúc đẩy sự vật phát
triển. Cần giúp sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì
trệ, định kiến trong nhận thức và hành động.
Bốn là, rèn luyện phương pháp luận biện chứng qua nghiên cứu
phương pháp luận rút ra từ các cặp phạm trù cơ bản của phép biện
chứng duy vật: cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết quả, tất
nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng,
khả năng và hiện thực.
IV.


Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nâng cao

năng lực tư duy cho sinh viên trường Đại Học Phenikaa
Thứ nhất: Trang bị tri thức đầy đủ về phương pháp luận biện
chứng duy vật cho sinh viên. Cần tập trung cho sinh viên nắm vững
phương pháp luận được rút ra từ lý luận phép biện chứng duy vật: quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển, quan
điểm thực tiễn; phương pháp luận được rút ra từ các cặp phạm trù, các
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật… Trong q trình giảng
dạy cần so sánh, phân tích lý luận, nêu vấn đề cho sinh viên giải quyết,
sau đó kết luận. Chẳng hạn: Vì sao sự phát triển diễn ra theo đường
“xốy ốc” mà khơng theo đường thẳng hoặc theo vịng trịn khép kín?
Cần đưa ra những cứ liệu cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy để chứng
minh.
Thứ hai: Luyện tập cho sinh viên các phương pháp biện chứng
thông qua thực tiễn cách mạng, trong cuộc sống đầy biến đổi khơng
ngừng….
Ví dụ: Đảng ta đã vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực
tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam như thế nào?


Sinh viên có thể chỉ ra sự vận dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật như thế nào qua câu nói của Hồ Chí Minh: “… Nhận xét
cán bộ khơng nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải
xét kỹ cả tồn bộ cơng việc của cán bộ” [5, tr.479]; “Có kinh nghiệm
mà khơng có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [6, tr.234];
hay tìm những câu thơ, tục ngữ, ca dao, danh ngôn phản ánh tư tưởng
triết học duy vật biện chứng.
Thứ ba: Định hướng cho sinh viên có ý thức tự vận dụng phương
pháp luận biện chứng trong quá trình học tập, trong cuộc sống bản thân.

Muốn nâng cao năng lực tư duy sinh viên cần nắm vững, áp dụng triệt
để phương pháp luận biện chứng duy vật trong nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn. Ví dụ: Vận dụng quan điểm tồn diện để phân tích một
hiện tượng hóa học, vật lý…; Vận dụng quan điểm toàn diện, quan
điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình học tập của bản thân. Trong quy
luật phủ định của phủ định có thể định hướng cho sinh viên vận dụng
tính kế thừa của phủ định biện chứng trong cuộc sống, học tập của sinh
viên; Hoặc bản thân sinh viên cần kế thừa như thế nào về truyền thống
văn hóa dân tộc? Dựa vào phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên
nhân và kết quả để rèn luyện đạo đức bản thân. Sinh viên phải nhận
thức được bất cứ kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó, từ đó sinh
viên có ý thức làm việc thiện, tránh việc ác. Luyện tập cho sinh viên
biết vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật vào trong thực
tiễn, cuộc sống thông qua những vấn đề: Hãy vận dụng phương pháp
luận rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả vào
lĩnh

vực

giáo

dục



đào

tạo.

Thứ tư: Thường xuyên kiểm tra, đánh giá phương pháp biện

chứng cho sinh viên. Có thể kiểm tra bài tập về nhà thông qua thảo luận


nhóm, kiểm tra kiến thức bằng câu hỏi ngắn, bài tập trắc nghiệm, hay
giải thích một hiện tượng nào đó trong cuộc sống. Ví dụ: Giải thích có
hiện tượng học giỏi mà thi rớt đại học trên cơ sở lý luận phép biện
chứng duy vật? Hoặc, hãy dựa vào quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử – cụ thể để phân tích nguyên nhân thắng lợi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.

PHẦN 2: QUAN ĐIỂM CỦA V.I LENIN
VỀ CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA SỰ
NHẬN THỨC CHÂN LÝ
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó
là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức
hiện thực khách quan.
Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý (tức là phản ánh đúng đắn đối với hiệt thực khách quan) là một
q trình. Đó lá q trình bắt đầu từ "trực quan sinh động" (nhận thức
cảm tính) tiến đến "tư duy trừu tượng" (nhận thức lý tính). Nhưng
những sự trừu tượng đó khơng phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ
nhận thức, mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh tính đúng đắn
của nó và tiếp tục vịng khâu tiếp theo của q trình nhận thức. Đây
cũng chính là quy luật chung của q trình con người nhận thức về hiện
thực khách quan.

 Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính



Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của q trình nhận thức.
Đó là giai đoạn nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử
dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật, hiện tượng khách
quan, mang tính chất cụ thể, với những biểu hiện phong phú của nó
trong mối quan hệ với sự quan sát của con người. Ở giai đoạn này, nhận
thức mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của
sự vật cụ thể, trong hiện thực khách quan, chưa phản ánh được cái bản
chất, quy luật, nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được. Do
đó, đây chính là giai đoạn thấp của q trình nhận thức. Trong giai
đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cám
giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác của con người về sự vật, hiện tượng khách quan là hình
ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của các q trình nhận thức, nhưng nếu
khơng có nó thì sẽ khơng thể có bất cứ nhận thức nào về sự vật, hiện
tượng khách quan. Mỗi cảm giác của con người về sự vật, hiện tượng
khách quan đều có một nội dung khách quan, mặc dù nó thuộc về sự
phản ánh chủ quan của con người. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan. Nó là cơ sở hình thành nên tri giác.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về
những biểu hiện của sự vật, hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính,
được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật,
hiện tượng. So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn,
đầy đủ hơn, phong phú hơn, nhưng đó vẫn chỉ là sự phản ánh đối với
những biểu hiện bên ngoài của sự vật, hiện tượng khách quan, chưa
phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan.


Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách

quan vốn đã được phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức
phản ánh cao nhất và phức lạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính,
đồng thời nó cũng chính là bước q độ từ giai đoạn nhận thức cảm
tính lên nhận thức lý tính. Đặc điểm của biểu tượng là có khả năng tái
hiện những hình ảnh mang tính chất biểu trưng về sự vật, hiện tượng
khách quan, nó có tính chất liên tưởng về hình thức bên ngồi, bởi thế
nó bắt đầu có tính chất của những sự trừu tượng hóa về sự vật, hiện
tượng. Đó là tiền đề của những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận
thức lý tính.
Tuy nhiên, ở giai đoạn cảm tính, nhận thức vẫn chưa phản ánh
được cái bản chất, quy luật khách quan để nhờ đó nhận thức có thể lý
giải được đúng đắn các sự vật, hiện tượng được phản ánh trong giai
đoạn nhận thức cảm tính, có khả năng đáp ứng được nhu cầu nhận thức
phục vụ hoại động thực tiễn, nhu cầu hoạt động cải biến sáng tạo thế
giới khách quan.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức.
Đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính,
những đặc điểm bản chất của sự vật, hiện tượng khách quan, Đây là
giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và
nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận
thức lý tính được thực hiện thơng qua ba hình thức cơ bản là: khái
niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh
những đặc tính bản chất của sự vật, hiện tượng. Sự hình thành khái
niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm,


thuộc tính của sự vật, hiện tượng hay một lớp các sự vật, hiện tượng.
Nó là cơ sở hình thành nên những phán đốn trong q trình con người
tư duy về sự vật, hiện tượng khách quan.

Phán đốn là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình
thành thông qua việc liên kết các khái niệm với nhau theo phương thức
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối
tượng nhận thức.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm
ba loại: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đốn phổ biến.
Phán đốn phổ biến là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn
nhất về thực tại khách quan.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành
trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật,
hiện tượng. Điều kiện để có bất cứ một suy lý nào cũng phải là trên cơ
sở những tri thức đã có dưới hình thức là những phán đoán, đồng thời
tuân theo những quy tắc logic của các loại hình suy luận, đó là suy luận
quy nạp (đi từ những cái riêng đến cái chung) và suy luận diễn dịch (đi
từ cái chung đến mỗi cái riêng, cái cụ thể).

PHẦN 3:QUY LUẬT “LƯỢNG – CHẤT”
1. Khái niệm chất và khái niệm lượng
a. Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có
của các sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm
cho sự vật là nó mà khơng phải cái khác; ví dụ, cái bàn, cái ghế, v.v.
Để hiểu chất là gì cần hiểu thuộc tính là gì? Thuộc tính về chất là
một khía cạnh nào đó về chất của sự vật được bộc lộ ra khi tác động
qua lại với các sự vật khác. Đó có thể là tính chất, trạng thái, yếu tố, v.v


của sự vật. Ví dụ, chất của đồng chỉ bộc lộ ra khi đồng tác động qua lại
với nhiệt độ, khơng khí, điện, v.v. Chất của một người được bộc lộ ra
qua quan hệ của người đó với những người khác và qua cơng việc mà

người đó làm, v.v.
Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính. Tổng hợp những thuộc tính cơ
bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. Như vậy, sự vật cũng có nhiều
chất.
Chất của sự vật là khách quan, vì đó là chất của sự vật, khơng do
ai gán cho sự vật. Nó do thuộc tính của sự vật quy định.
b. Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng về mặt quy mơ, trình độ phát triển, biểu thị con
số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành sự vật.
Lượng được thể hiện thành số lượng, đại lượng, trình độ, quy
mơ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển. Chẳng hạn chỉ kích thước
dài hay ngắn, quy mơ to hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh
hay chậm v.v. Ví dụ, khi nói sinh viên năm thứ hai, thì sinh viên là chất
để phân biệt với cơng nhân, bộ đội, cịn năm thứ hai chính là lượng, chỉ
trình độ của sinh viên.
Lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Đối với những sự vật
liên quan tới tình cảm khi nhận thức lượng không thể xác định bằng các
đại lượng con số mà phải trừu tượng hố bằng định tính. Ví dụ, lịng
tốt, tình u, v.v.
Lưu ý là sự phân biệt chất và lượng cũng chỉ là tương đối. Cái
trong mối quan hệ này được coi là chất thì trong mối quan hệ khác
được coi là lượng. Ví dụ, số 4 trong mối quan hệ phân biệt với các số
nguyên, dương khác thì nó được coi là chất. Nhưng trong mối quan hệ


số 4 có tổng số bằng 4 số 1 cộng lại, hay bằng 2 số 2 cộng lại thì khi ấy
nó được coi là lượng.
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất
a. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất

Mỗi sự vật đều có lượng, chất và chúng thay đổi trong quan hệ
chặt chẽ với nhau. Lượng thay đổi nhanh hơn chất, nhưng không phải
mọi thay đổi của lượng đều ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất.
Sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất chỉ trong giới
hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật khơng cịn là nó,
chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
Giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm
đi) chưa làm thay đổi về chất được gọi là độ. Nói cách khác, độ là
phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm
cho sự thay đổi căn bản về chất của sự vật diễn ra. Ví dụ, độ của chất
sinh viên là từ khi nhập học tới trước khi bảo vệ thành công đồ án, luận
văn tốt nghiệp.
Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ
làm cho sự thay đổi về chất của vật diễn ra được gọi là điểm nút. Thời
điểm bảo vệ thành công đồ án, hoặc luận văn tốt nghiệp của sinh viên
là điểm nút để chuyển từ chất sinh viên lên chất cử nhân.
Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra
gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của
sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Bước nhảy
vọt làm cho sự vật phát triển bị gián đoạn.
b. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng


Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng mới
(làm thay đổi quy mô, nhịp điệu, tốc độ v.v phát triển của sự vật). Ví
dụ, khi trở thành cử nhân thì tốc độ đọc, hiểu vấn đề tốt hơn khi còn là
sinh viên, v.v. Như vậy, không chỉ sự thay đổi về lượng gây nên những
thay đổi về chất mà cả sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi
về lượng.

c. Các hình thức của bước nhảy
Quy luật lượng – chất: Chỉ ra cách thức của sự vận động và phát
triển
Lượng là cái thường xuyên biến đổi, còn chất là cái tương đối ổn
định, lượng biến đổi đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành
chất mới thay thế chất cũ.
Trong quy luật này có dùng một số từ như “độ”, “bước
nhảy”, “điểm nút”. Cụ thể: Độ là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, điểm nút là thời
điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đủ để làm thay đổi về chất của sự
vật và bước nhảy là chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật.



Lấy một ví dụ cụ thể cho các bạn về quy luật này như sau:
Sinh viên tích lũy một lượng kiến thức đủ mới trở thành cử nhân.

Trong đó: lượng là lượng kiến thức phải đạt được, chất là sinh viên. Độ
là từ năm 1 đến năm 4, còn điểm nút chính là năm 1 và năm 4, bước
nhảy chính là từ sinh viên lên cử nhân. Lúc này, chất là cử nhân.
Rút ra bài học thực tế: Cần phải tích lũy đủ về lượng thì mới có
thể thay đổi về chất, tránh tư tưởng nóng vội chưa tích lũy đủ về lượng
đã muốn thay đổi về chất (chưa học xong đã muốn đi làm cơng việc
mình đang học) hoặc bảo thủ, trì trệ khi đã tích lũy đủ về lượng nhưng


lại không muốn thay đổi về chất (học xong rồi nhưng lại không muốn
đi làm)

PHẦN 4: KẾT LUẬN

Năng lực tư duy biện chứng là sức mạnh không thể thiếu được
của mỗi con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, là đòi hỏi
bắt buộc ở mỗi người trong quá trình tiến hành nhiệm vụ nhận thức và
cải tạo thế giới khách quan, là đòi hỏi của thực tiễn xã hội đối với sinh
viên trường Đại học Phenikaa trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao
năng lực tư duy của sinh viên thông qua rèn luyện phương pháp biện
chứng duy vật, giáo viên cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và
phương pháp dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn,
thường xuyên kiểm tra sinh viên dưới nhiều hình thức, định hướng vận
dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn luyện phương pháp biện chứng
duy vật cho sinh viên, sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng năng
lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện chứng và giải
quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học
của sinh viên sau khi ra trường.

PHẦN 5: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Bá Thâm (1994). Bàn về năng lực tư duy. Tạp chí Triết
học, số 2, tr 8-12.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), “Giáo Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩaMác - Lênin”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII”, Nxb GP - CXBIPH.
4. Hồ Chí Minh (1974), “Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ”, Nxb Sự
Thật, Hà Nội.


5. Hồ Chí Minh (1996), “Tồn tập, t.5”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
6. V.I.Lênin (1977), “Toàn tập, t.42”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
7. V.I.Lênin (1981), “Toàn tập, t.29”, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

Hà Nội, Ngày 19, tháng 8, năm 2021
Người thực hiện
(kí, ghi rõ họ tên)




×