Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Ths triết học vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh viên sư phạm mầm non ở việt nam hiện nay (qua thực tế ở hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.98 KB, 134 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình đổi mới đất nước, xã hội Việt Nam bước vào một giai
đoạn phát triển mới, tiến hành đồng loạt các q trình quan trọng như đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, đơ thị hố; thực hiện nhất qn và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện tồn cầu hố… Các q trình này rất
cần thiết cho sự phát triển xã hội. Qua 25 năm đổi mới, đất nước ta đã thu
được những thành tựu to lớn: kinh tế, văn hoá - xã hội phát triển; đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, con người trở lên năng động,
sáng tạo, tự chủ và nhạy bén hơn; chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được
giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, các quá trình trên cũng đưa đến sự
phân hoá, phân tầng xã hội sâu sắc về thu nhập, về nghề nghiệp, đạo đức, lối
sống…Tệ nạn và tiêu cực xã hội gia tăng ở mức báo động, đặc biệt nghiêm
trọng là nhiều giá trị đạo đức, nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc
bị mai một, một bộ phận dân cư trong xã hội sống thực dụng, sống gấp, cá
nhân hẹp hòi, bất chấp đạo lý, nhạt phai lý tưởng, thoái hoá, biến chất...
Thế hệ trẻ, trong đó có đội ngũ sinh viên, cũng đang hàng ngày hàng giờ
bị tác động của những nhân tố trên, một bộ phận tích cực phấn đấu rèn luyện,
vượt khó, học tập tốt để tiếp thu tri thức vì ngày mai lập nghiệp; một bộ phận
thiếu kiên trì, nản chí, mất niềm tin, mất phương hướng, mắc vào các tệ nạn
xã hội, suy thoái về đạo đức, lối sống…
Đạo đức là sản phẩm của điều kiện sống và hoạt động của con người,
phản ánh quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội, là tổng thể những quan niệm
về thiện - ác, tốt - xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ…cùng những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội về các quan hệ ứng xử của con người
trong cuộc sống cộng đồng theo tinh thần vì cái thiện, lương tâm và lợi ích
cộng đồng với mục đích nhằm định hướng, điều chỉnh, đánh giá hành vi ứng



2
xử của con người trong các mối quan hệ cá nhân và cá nhân, cá nhân với cộng
đồng xã hội. Đạo đức tồn tại khách quan trên cơ sở nhu cầu của xã hội trong
việc duy trì trật tự chung, trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, được mọi người tự nguyện, tự giác tuân theo trên cơ sở sự nhận thức của bản thân. Khi con
người nhận thức được hành vi đạo đức của mình khơng trái với cái thiện,
không trái với lương tri, phù hợp với lợi ích cộng đồng thì con người sẽ tìm được sức mạnh, tìm được động lực hành động, thấy ý nghĩa và giá trị cuộc
sống, từ đó có lối sống tích cực với yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” trong đó, sự tiến bộ kỹ thuật, sự tăng
trưởng kinh tế không tách rời sự tiến bộ về văn hoá - xã hội, sự phát triển con
người. Đảng ta xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều đó địi hỏi mỗi người Việt nam, trong đó có đội ngũ sinh viên phải hiểu biết sâu sắc những giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc mình, phấn đấu tu dưỡng rèn luyện để có
những phẩm chất đạo đức mới đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội hiện đại,
từ đó tự giác hành động theo tinh thần vì cái thiện, vì lợi ích cộng đồng và u
cầu đạo đức xã hội.
Ngành giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc
giáo dục đạo đức cho con người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền,
Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
Giáo dục và đào tạo có vai trị quan trọng hàng đầu trong q trình hình
thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Giáo dục là sự tác động từ bên
ngoài một cách tự giác tới các cá nhân, (nghĩa là sự tác động có định hướng, có
mục tiêu, có tổ chức, có kế hoạch, khác với sự tác động mang tính tự phát) nhằm



3
hình thành và phát triển những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người. Vai
trò của giáo dục là định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy quá trình hoạt động sáng tạo
giá trị, là nền tảng của sự tiến bộ và văn minh xã hội. Đảng ta xác định: cùng với
khoa học và công nghệ:“giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới coi đầu tư phát triển giáo dục đào
tạo là đầu tư cho tương lai, cho phát triển. Nhà tương lai học Alvin Toffler cho
rằng, tương lai của con người hoàn toàn phụ thuộc vào giáo dục. Theo Nelson
Mandela, giáo dục là vũ khí mạnh mẽ nhất mà ngời ta có thể sử dụng để thay
đổi cả thế giới.
Ngày nay, trong công tác giáo dục - đào tạo, cùng với việc truyền bá,
rèn dạy tri thức và kỹ năng chun mơn, vấn đề đào tạo văn hố, đạo đức, kỹ
năng sống cho sinh viên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều này càng mang
tính cấp thiết đối với sinh viên ngành sư phạm mầm non - một ngành học đào
tạo ra những nhà giáo và những người làm công tác giáo dục của bậc học đầu
tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo viên mầm non có vị trí và vai trị quan trọng trong q trình giáo
dục nhân cách con người và đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non. Sự tác
động vào thế giới trẻ thơ bằng đạo đức, nhân cách của ngời giáo viên vừa
mang tính chất như là hình mẫu để trẻ bắt chước, vừa mang tính chất ám thị sư phạm, tác động mạnh đến tình cảm, nhận thức, niềm tin của trẻ. Nhà giáo
dục Nga K.D.Usinxki đã khẳng định rằng, trong việc giáo dục trẻ em, tất cả
phải dựa vào nhân cách của nhà giáo dục. Vì thế, mỗi sinh viên ngành sư
phạm mầm non cần phải không những phấn đấu nâng cao năng lực chun
mơn, mà cịn phải chú trọng trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách,
rèn luyện đạo đức nghề nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường để
sau khi tốt nghiệp có thể xứng đáng với thiên chức của mình.
Điều đó cũng địi hỏi trách nhiệm của các trường đại học và cao đẳng
có đào tạo ngành sư phạm mầm non trong việc đào tạo chuyên môn và giáo
dục đạo đức mới cho sinh viên. Là một giảng viên, một cán bộ làm công tác

giáo dục - đào tạo các nhà giáo tương lai, trong đó có giáo viên mầm non, tơi
ln trăn trở, mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới


4
cho sinh viên. Vì vậy, tơi chọn đề tài: “Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên sư phạm mầm non ở Việt Nam hiện nay (Qua thực tế ở Hà Nội)”
làm luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đạo đức và giáo dục đạo đức là vấn đề từ trước đến nay đã và đang
được rất nhiều nhà khoa học trong và ngồi nước nghiên cứu từ nhiều góc độ
khác nhau. Đáng chú ý là các chuyên khảo của các nhà triết học, văn hố học
nước ngồi như: "Ngun lý đạo đức học mácxít" của A.F.Shishkin và "Đạo
đức học" của G.Bandzeladze (Nxb Giáo dục, 2 tập, H, 1985); "Những vấn đề
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường" (cơng trình lý luận của các nhà
khoa học Trung Quốc, Viện thông tin khoa học xã hội thuộc Trung tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia của Việt Nam sưu tập và xuất bản năm
1999); "Tu dưỡng đạo đức tư tưởng" (Chủ biên GS. La Quốc Kiệt, người dịch
Nguyễn Công Quỳ, Nxb CTQG, H, 2003).
Trong nước, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới, lối sống mới trong gia đoạn
hiện nay như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt nam” của GS.
Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội, 1980); “Quán triệt mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và đạo đức trong đổi mới tư duy” của GS.TS Nguyễn
Ngọc Long (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2/1987); “Quan hệ giữa đạo đức và
kinh tế thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của TS
Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, 6/1996), “Sự tác động hai mặt của cơ
chế

thị


trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia
(Tạp chí Nghiên cứu lý luận 2/1997), “Giá trị truyền thống, nhân lõi và sức
sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc” của PGS. Nguyễn Văn
Huyên (Tạp chí Triết học 4/1998); “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến
chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” của PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (tạp chí
triết học, 9/2005); “Từ đạo đức truyền thống đến đạo đức cách mạng Hồ Chí
Minh” của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 7/2006).


5
"Các giá trị đạo đức truyền thống và con người Việt Nam hiện nay" (Đề tài
khoa học cấp Nhà nước mang mã số KH.07.02); "Xây dựng lối sống, đạo đức
và chuẩn giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (Đề tài khoa
học cấp Nhà nước mang mã số KHXH.04.03); "Sự chuyển đổi thang giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán
bộ quản lý ở nước ta hiện nay" (Đề tài khoa học cấp Bộ do Khoa Triết học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện); “Vấn đề nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ công an trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Giáp Văn Thông, Luận văn thạc
sỹ triết học, 2004; “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay - Thực
trạng và giải pháp”, GS. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên, Nxb CTQG, H, 2005).
Vấn đề giáo dục đạo đức sinh viên Việt Nam cũng thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học với các cơng trình như: "Đặc điểm lối
sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống
cho sinh viên" (Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số B94-38-32); "Vai trò của giáo
dục đạo đức cho sinh viên đối với việc phát huy nguồn lực con người trong
các doanh nghiệp thương mại ở Việt Nam hiện nay" (Đề tài khoa học cấp Bộ,
chủ nhiệm ThS. Lê Thị Loan, 2001); “Đạo đức sinh viên trong quá trình

chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Thực trạng, vấn đề và giải pháp” (Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt, mã số
QG.01.18, Đại học quốc gia Hà Nội, 2003);"Giáo dục đạo đức và sự hình
thành phát triển nhân cách sinh viên Việt nam trong giai đoạn hiện nay" (Trần
Sỹ Phán, Luận án tiến sĩ triết học, 1999); “Đạo đức sinh viên trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” (Vũ Thanh
Hương, Luận văn thạc sỹ triết học, 2004); “Vấn đề giáo dục y đức cho sinh
viên ngành y ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”(Hoàng Thị Kim
Oanh, Luận văn thạc sỹ triết học, 2007); “Giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống với việc xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay”
(Nguyễn Thị Thanh Hà, Luận văn thạc sỹ triết học, 2007); “Vấn đề giáo dục


6
đạo đức cho sinh viên Vĩnh Long hiện nay” (Trần Văn Chín, Luận văn thạc sỹ
triết học, 2008)...
Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức, trong đó có giáo dục đạo đức cho
sinh viên nước ta hiện nay, là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm,
nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh viên sư phạm
mầm non, một ngành học rất đặc thù trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt
Nam, chưa có sự nghiên cứu mang tính chuyên đề, chuyên sâu. Việc chọn đề
tài nghiên cứu: “Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho sinh viên sư phạm mầm
non ở Việt Nam hiện nay (Qua thực tế ở Hà Nội)” cũng nhằm mục đích góp
phần bổ sung nhận thức cho vấn đề nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua thực tế ở một số Trường, Khoa đào tạo giáo viên ngành sư phạm
mầm non trên địa bàn Hà Nội, phân tích thực trạng giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên ngành sư phạm mầm non ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục đạo đức mới cho đối tượng này ở nước ta hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ
sau:
- Làm rõ tầm quan trọng, yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên sư phạm mầm non hiện nay.
- Phân tích thực trạng cơng tác giáo dục đạo đức mới cho sinh viên sư
phạm mầm non qua thực tế ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phương hướng và một số số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức mới cho sinh viên sư
phạm mầm non ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


7
- Vấn đề giáo dục đạo đức mới (những giá trị đạo đức mới, phương thức
giáo dục đạo đức mới) cho sinh viên ngành sư phạm mầm non.
- Luận văn chủ yếu tập trung phân tích vấn đề giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên ngành sư phạm mầm non ở một số trường Đại học, Cao đẳng sư phạm
ở Hà Nội, giai đoạn từ thực hiện đổi mới đất nước đến nay (1986 - 2010).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, đồng thời kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu của
các nhà khoa học trong và ngoài nước liên quan tới nội dung được đề cập
trong luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như sự thống nhất giữa cái lơgíc và
lịch sử, giữa lý luận và thực tiễn…

Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân
tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống và phương pháp
điều tra xã hội học…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng, yêu cầu và nội dung
giáo dục đạo đức mới cho sinh viên ngành sư phạm mầm non hiện nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích vấn đề giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên ngành sư phạm mầm non ở một số trường Đại học, Cao đẳng sư
phạm ở Hà Nội, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho sinh viên ngành
sư phạm mầm non ở nước ta trong điều kiện hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, đồn thể
làm cơng tác sinh viên.


8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


9
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG, YÊU CẦU VÀ NỘI DUNG
CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN
SƯ PHẠM MẦM NON HIỆN NAY
1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON HIỆN NAY

1.1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức và giáo dục đạo

đức mới
Từ lâu, vấn đề giáo dục - đào tạo, trong đó có giáo dục đạo đức, đã trở
thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà
triết học như Socrate (469-399TCN), Epiquya (341-271TCN), Aristote (384322 TCN) đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức.
Socrate đã dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu con người, triết học về
con người, trước hết là triết học về đạo đức. Đời sau, nhân loại coi ông là người
đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Aristote đã viết tác phẩm “Đạo
đức học” (gồm 10 quyển) với luận điểm nổi tiếng: chúng ta bàn về đạo đức
khơng phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh…
Ở phương Đông, các học thuyết Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo đều lấy
đạo đức làm cơ bản trong đối nhân xử thế, trong việc tự rèn luyện mình và
khuyên răn, giáo dục con người làm điều thiện, tránh điều ác, đề xuất các quy
tắc, chuẩn mực, những ràng buộc mang tính đạo đức trong các hoạt động sống
của con người. Khổng Tử (551- 479TCN), nhà hiền triết phương Đông đã đề
ra đường lối “đức trị”, đường lối đó của ơng đã được lưu truyền trong lịch sử
hàng ngàn năm không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở nhiều quốc gia khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trị của đạo đức và giáo
dục đào đức trong việc đào tạo và rèn luyện con người. Hồ Chí Minh coi đạo
đức là cái “gốc” của người cách mạng, là sức mạnh nền tảng mà nhờ đó người
cán bộ cách mạng có thể vượt qua mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành
nhiệm vụ một cách vẻ vang. Người cho rằng những phẩm chất đạo đức cơ bản
của con người là cần, kiệm, liêm, chính. Trong chiến lược “trồng người”, Hồ
Chí Minh xem giáo dục đạo đức là quan trọng nhất.


10
Khái niệm giáo dục được sử dụng trong khoa học sư phạm là q trình
tác động có định hướng của nhân tố chủ quan (con người) lên đối tượng giáo
dục nhằm đạt được các mục đích nhất định. Theo từ điển Tiếng Việt năm
1992: "Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự

phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”[73, tr.365].
Theo chúng tơi, có thể định nghĩa giáo dục đạo đức như sau:
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động từ bên ngoài tới ý thức cá nhân,
là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục
(các thiết chế xã hội, nhà trường, gia đình…) nhằm cung cấp tri thức đạo
đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức cho đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình
thành ở họ ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức đúng đắn, hành vi đạo đức phù
hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, giúp cá nhân điều chỉnh những hành
vi lệch chuẩn về đạo đức.
Giáo dục đạo đức, là quá trình hình thành ý thức đạo đức và văn hoá
đạo đức của các thành viên xã hội, chịu sự tác động của các điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan như các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, mơi
trường sống, hệ thống giáo dục quốc gia...
Giáo dục đạo đức có vai trị quan trọng, bắt nguồn từ vai trò, chức năng
và giá trị xã hội của đạo đức.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức ra đời rất sớm, cùng
với sự xuất hiện của xã hội loài người và được hiểu như là những lề thói, tập
tục biểu hiện các quan hệ ứng xử của con người trong cuộc sống cộng đồng.
Quá trình hình thành đạo đức bắt nguồn từ hoạt động lao động và hình thành
trên cơ sở hoạt động lao động và giao tiếp của con người. Các quan hệ đạo
đức ra đời phản ánh tính hướng thiện của con người, có tác dụng tham gia
điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức là một quan hệ xã hội có tính quy
tắc, chuẩn mực, có đánh giá, có giá trị nhưng khơng ghi thành văn bản có tính
pháp quy, mà thơng thường là nếp sống, là phong tục, tập quán do một cộng


11
đồng nhất định tạo thành khi chung sống với nhau. Các quan hệ đạo đức trong
xã hội thường được điều chỉnh bởi dư luận xã hội.

Chủ nghĩa Mác coi lao động là điểm phân biệt cơ bản nhất giữa con
người với các loài động vật. Hoạt động lao động ngay từ đầu đã khác với hoạt
động bản năng của loài vật bởi tính định hướng mục đích, tính chủ động sáng
tạo, gắn với việc chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Trong quá trình lao
động, con người lần đầu tiên đã nhận ra sự cần thiết và ưu thế của sự hợp tác
liên kết tương trợ lẫn nhau để chống kẻ thù chung và kiếm sống. Ý thức về sự
cần thiết này đã hình thành nên tình cảm đạo đức và những nguyên tắc ban
đầu điều chỉnh hành vi đạo đức của con người. Xã hội càng phát triển, các
quan hệ xã hội của con người ngày càng trở nên phong phú và phức tạp,
những quy tắc, chuẩn mực đạo đức cũng hình thành, biến đổi, ngày càng có
nội dung phong phú, sâu rộng hơn.
Các quy tắc đạo đức được nảy sinh từ cuộc sống hàng ngày, được con
người thực hiện như một sự chấp nhận tự nguyện, trên cơ sở niềm tin cá
nhân, phong tục, tập quán truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Những quy tắc, chuẩn mực đạo đức xác định giới hạn cho phép nhất
định của cộng đồng, của dân tộc…nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả các
thành viên, tạo thành động lực phát triển của xã hội, đòi hỏi mỗi cá nhân phải
tự giác thực hiện và điều chỉnh hoạt động, hành vi của mình trong các mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng xã hội. Đó là cơ sở
để đánh giá hành vi của con người là có đạo đức hay phi đạo đức. Những thái
độ, hành vi giao tiếp, ứng xử phù hợp với những chuẩn mực, quy tắc của xã hội,
không vi phạm đến nhu cầu, lợi ích của người khác, của cộng đồng được coi là
có đạo đức. Ngược lại, những thái độ, hành động chỉ vì lợi ích của riêng cá nhân,
gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của người khác, của cộng đồng…bị xã hội
chê trách, phê phán, bị coi là vơ đạo đức. Từ góc độ lợi ích, C.Mác đã chỉ ra:
“ngun tắc của tồn bộ đạo đức” là “lợi ích đúng đắn” [38, tr.200], đạo đức
chính là sự phù hợp giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân. Những hành động


12

phi đạo đức là những hành động phá hoại sự phù hợp nói trên, tạo ra sự đối
lập giữa lợi ích chung và lợi ích riêng [37, tr.755].
Đạo đức phản ánh đời sống xã hội hiện thực, phản ánh mối quan hệ về
lợi ích và nghĩa vụ giữa cá nhân - cộng đồng - xã hội trong mỗi hình thái kinh
tế - xã hội nhất định. Sản phẩm phản ánh là một hệ thống giá trị đạo đức xã
hội về thiện - ác, tốt - xấu, vinh - nhục, cao thượng - thấp hèn, chính nghĩa phi nghĩa, … biểu hiện thành các quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực đạo đức cụ thể. Từ hệ thống giá trị đó, đạo đức - với tính độc lập
tương đối, tác động trở lại tồn tại xã hội, nên đạo đức trở thành một trong những
phương thức định hướng, điều chỉnh, đánh giá hành vi ứng xử của con người
(trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, với cộng đồng, với xã hội và
tự nhiên, và với chính bản thân). Đạo đức tồn tại khách quan trên cơ sở nhu cầu
của xã hội trong việc duy trì trật tự chung, trong điều chỉnh các quan hệ xã hội,
được mọi người tự nguyện, tự giác tuân theo trên cơ sở sự nhận thức của bản
thân. Khi con người nhận thức được hành vi đạo đức của mình khơng trái với cái
thiện, không trái với lương tri, phù hợp với lợi ích cộng đồng thì con người sẽ
tìm được sức mạnh, tìm được động lực hành động, thấy ý nghĩa và giá trị cuộc
sống, từ đó có lối sống tích cực với yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Về mặt cấu trúc, ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trị và
định hướng giá trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm
đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì nếu thiếu nó, thì những khái niệm,
phạm trù đạo đức và tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính
khơng thể chuyển hố thành hành vi đạo đức.
Như vậy, đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của
con người, nó hiện diện như một phương thức đặc thù của sự điều chỉnh hành
vi người, sự điều chỉnh ấy dựa trên cơ sở tự giác, tự nguyện và ưu tiên lợi ích
của cộng đồng, của xã hội. Đạo đức bao gồm ý thức đạo đức của con người.
Mọi ý thức đạo đức được thể hiện thông qua các hành vi đạo đức. Các hành vi
đạo đức của cá nhân có khuynh hướng tự bảo tồn thành nếp, góp phần tạo nên
các tập quán trong các cộng đồng. Trước những yêu cầu chung, mỗi cá nhân



13
tiếp thu và và phản ánh những quy tắc và chuẩn mực đó ở những mức độ khác
nhau và biểu hiện ra dưới những hình thức khác nhau. Tuỳ theo mơi trường
giáo dục (gia đình, nhóm, giai cấp, xã hội), trình độ văn hố, trình độ học vấn,
năng lực tư duy, mỗi cá nhân nhận thức được những yêu cầu xã hội, yêu cầu
đạo đức, từ đó lựa chọn quan điểm, lý tưởng, mục đích và nguyên tắc sống.
Đạo đức có vai trị rất quan trọng trong cuộc sống. Vai trò của đạo đức
được khẳng định qua các chức năng của nó với q trình nhận thức, định
hướng giáo dục, điều chỉnh hành vi của con người.
Những quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
cụ thể là sản phẩm của quá trình nhận thức đời sống đạo đức xã hội, là sự đúc
kết, khái quát những hiện tượng đạo đức xã hội, với những mức độ nông, sâu
khác nhau, tập hợp thành tri thức đạo đức. Nó là thành tố đầu tiên của ý thức
đạo đức, giúp con người phân biệt được thiện - ác, chính - tà, tốt - xấu… Nó
như “chiếc la bàn” định hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ.
Tri thức đạo đức một khi được xã hội thừa nhận, sẽ tạo thành một hệ
thống giá trị đạo đức xã hội. Hệ thống đó một khi được chuyển hóa vào từng
cá nhân, sẽ biến thành giá trị đạo đức cá nhân, có tác dụng to lớn trong định
hướng giáo dục, hướng dẫn hành vi cá nhân sao cho phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức xã hội.
Trong cuộc sống, con người có thể có những hành vi lệch chuẩn. Sự
lệch chuẩn đó có thể mới chỉ manh nha trong những toan tính, trong động cơ của
hành vi, hoặc thể hiện khi thực hiện hành vi. Cùng với pháp luật (điều chỉnh
hành vi của con người một cách bắt buộc, cưỡng bức), đạo đức, với tư cách là
những khuôn mẫu hành vi, thực hiện chức năng điều chỉnh những hành vi lệch
chuẩn đó. Cơ chế điều chỉnh của đạo đức, khác với cơ chế điều chỉnh của một số
hình thái ý thức xã hội khác, là thông qua sức mạnh của dư luận xã hội, của tập
quán và truyền thống xã hội (sự cưỡng chế bên ngoài) và của tinh thần tự giác,
tự nguyện dựa vào lương tâm con người (sự cưỡng chế bên trong).

Sự tác động của đạo đức diễn ra theo hai khuynh hướng cơ bản là tích
cực và tiêu cực. Thực tiễn lịch sử cho thấy, những tư tưởng, quan điểm, hành
vi đạo đức tiến bộ, mang giá trị văn hố bao giờ cũng có vai trị tích cực với


14
mọi mặt của cuộc sống con người và xã hội lồi người. Ngược lại, những tư
tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức xấu, lỗi thời đem lại tác động tiêu cực, thậm
trí phá hoại cuộc sống xã hội bình thường của con người và xã hội. Tính hai
mặt của ý thức đạo đức đòi hỏi mỗi người phải biết lựa chọn các hệ chuẩn giá
trị đạo đức phù hợp nhằm đem lại các giá trị tích cực cho mình và cho xã hội
[72, tr.38-43].
Hiệu quả và phạm vi điều chỉnh của đạo đức phụ thuộc vào cả nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan.
Những nhân tố khách quan của việc nâng cao và mở rộng phạm vi điều
chỉnh của đạo đức chính là các quan hệ kinh tế - xã hội. Những điều kiện này
quy định phạm vi và tính chất của các hoạt động của con người, quy định tính
tích cực xã hội của con người.
Nhân tố chủ quan quy định hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức là
trình độ phát triển của ý thức đạo đức. Sự phát triển, sự phong phú của ý thức
đạo đức cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận và nội tâm hoá
những yêu cầu của đạo đức xã hội, biến những nhu cầu đó thành nhu cầu bên
trong, kích thích tính tích cực của con người đối với việc thực hiện nghĩa vụ
đạo đức. Sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức cá nhân lại bị quy
định bởi quá trình giáo dục và phạm vi hoạt động thực tiễn của con người. Ý
thức đạo đức ở cấp độ thấp, cấp độ ý thức xã hội thơng thường, được hình
thành một cách tự phát từ chính cuộc sống hàng ngày của con người để đáp
ứng đòi hỏi khách quan của sinh hoạt cộng đồng. Ý thức đạo đức ở trình độ lý
luận phản ánh đời sống đạo đức xã hội, được hình thành và phát triển chủ yếu
bằng con đường giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng.

Vì vậy, tạo ra những điều kiện để con người tham gia sâu rộng vào các
quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội và tăng cường giáo dục đạo đức chính là
giải pháp phát triển ý thức đạo đức của con người, qua đó mở rộng và nâng
cao hiệu quả vai trò điều chỉnh của đạo đức.
Trong sự phát triển xã hội, sự thay thế nhau của các chế độ xã hội đã
làm những chuẩn mực đạo đức cũ luôn bị phá vỡ, được thay thế bằng những


15
chuẩn mực đạo đức mới. Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng trong
giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện. Mỗi giai đoạn lịch sử phát
triển xã hội có mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức giáo
dục cụ thể nhằm xây dựng nhân cách đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.
Mục đích của giáo dục đạo đức nhằm chuyển các quan niệm đạo đức từ
trạng thái nhận thức tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, nâng cao
trình độ nhận thức đạo đức; đưa đến cho đối tượng những tri thức đạo đức, và
quan trọng hơn là xây dựng tình cảm đạo đức đúng đắn làm cơ sở cho niềm
tin và hành vi đạo đức đúng. Giáo dục đạo đức góp phần giữ gìn những giá trị
đạo đức truyền thống, góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới; xây dựng
những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi
đối tượng giáo dục. Đồng thời, giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực vào
việc khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị
nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức, tạo ra cơ chế phòng ngừa
các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hoá trong mỗi nhân cách.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế nhằm thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong điều
kiện như vậy, con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Do
đó, con người cần phải có những phẩm chất cần thiết cho xã hội hôm nay,

những phẩm chất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường gọi là "đạo đức mới”
hay “đạo đức cách mạng”. Đảng ta xác định nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới, trong đó có giáo dục đạo đức mới là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đã chỉ rõ: “Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng
mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với
tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản
lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại” [15, tr.207].


16
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tính giai cấp của đạo đức, khẳng
định những chuẩn mực đạo đức phát sinh và phát triển từ những điều kiện
sinh hoạt vật chất, đời sống vật chất của con người, từ thực tiễn của đời sống
xã hội và một khi những điều kiện sinh hoạt vật chất và đời sống vật chất
biến đổi thì những chuẩn mực đạo đức cũng biến đổi theo.
Theo sự phân tích của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hội có những yếu tố của ba loại đạo đức: đạo đức cũ
(tồn tại như là tàn dư), đạo đức hiện tại (có địa vị thống trị) và đạo đức mới
(là cái đang lớn lên). Sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, thắng lợi của cái
mới, cái tiến bộ là quy luật khách quan của thế giới vật chất, của mọi sự phát
triển nói chung, trong đó có đạo đức. Trong điều kiện cách mạng xã hội chủ
nghĩa thắng lợi, đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là
đạo đức cộng sản (giai đoạn đầu là đạo đức xã hội chủ nghĩa). Đạo đức cộng
sản phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp vơ sản trong cách mạng vơ
sản, nó là vũ khí tinh thần mạnh mẽ của giai cấp cơng nhân trong suốt q
trình xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đạo đức của giai cấp lao động
trở thành đạo đức cách mạng, nó chiếm địa vị thống trị trong đời sống đạo
đức của xã hội, làm nên bước tiến bộ toàn diện của đạo đức. Trong tác phẩm
"Chống Đuy-rinh" (1876), sau khi xem xét đạo đức phong kiến, đạo đức tôn

giáo, đạo đức khai sáng, đạo đức tư sản, Ph.Ăngghen đi đến khẳng định:
Thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại,
biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vơ sản - là thứ
đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một
sự tồn tại lâu dài. Đạo đức vô sản là đạo đức mang bản chất giai
cấp vô sản, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến,
cách mạng đương thời [42, tr.136].
Sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin rất chú ý đến việc xây dựng kiểu
đạo đức mà Lênin gọi là "Đạo đức cộng sản mà về bản chất là sự phát triển
mới của đạo đức vô sản trong điều kiện giai cấp vô sản đã tiến hành cách
mạng lật đổ giai cấp thống trị, giành được chính quyền nhà nước. Đó là đạo
đức cần có và cần được xây dựng trong q trình giai cấp cơng nhân và nhân


17
dân lao động bắt tay vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội trong đó
chính mình làm chủ. Với sự xác lập địa vị thống trị của đạo đức mới xã hội
chủ nghĩa, những yếu tố của đạo đức tư sản trở thành tàn dư, quan hệ đạo đức
cộng sản chủ nghĩa ra đời trong lòng xã hội chủ nghĩa hoạt động chống lại
những tàn dư đạo đức tư sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin một mặt thừa nhận tính biến đổi lịch sử của đạo
đức, mặt khác cho rằng, không thể xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa trên
mảnh đất trống không, cần kế thừa những thành tựu đạo đức của các xã hội
trước và khắc phục những hạn chế đạo đức của các xã hội đó. Nền đạo đức xã
hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những nét đặc sắc của đạo đức, những giá trị
được sáng tạo trong lịch sử của những người lao động.
Trong chủ nghĩa xã hội, đạo đức mới có tiền đề hiện thực cho sự phát
triển. Theo những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản là xã hội lần đầu tiên trong lịch sử phát triển nhân loại, ở
đó đạo đức cá nhân tiếp nhận hình thức tồn tại phù hợp với nội dung khách

quan của nó, khi các cá nhân phát triển toàn diện. C. Mác và Ph. Ăngghen,
trong lý thuyết về chủ nghĩa xã hội, đã giải thích một cách khoa học mục tiêu
đạo đức của chủ nghĩa xã hội là tạo tiền đề hiện thực để con người phát triển
hài hòa và phong phú. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã nhìn nhận lịch sử phát
triển xã hội trong các mục tiêu đạo đức của nó; đã thấy, đằng sau những quan hệ
xã hội khơng có tính người thay thế nhau trong lịch sử trước chủ nghĩa xã hội
vẫn hiện lên các vấn đề đạo đức, đòi hỏi một xã hội thực sự có đạo đức. Xã hội
thực sự có đạo đức là kết quả hợp quy luật của lịch sử vừa kế thừa, vừa phát
triển, vừa khắc phục những hạn hẹp, phiến diện đạo đức của các xã hội trước đó.
Vì thế, nhiệm vụ lịch sử đầu tiên trong mục tiêu đạo đức của chủ nghĩa xã hội
là khắc phục các hạn chế về đạo đức của các xã hội trước đây.
Xã hội cũ dựa trên cơ sở bất bình đẳng giai cấp và quyền thống trị của
thiểu số đối với đa số, do đó đã tạo nên sự bất bình đẳng về mặt đạo đức. Việc
đem quyền bình đẳng trả lại cho đơng đảo nhân dân, huy động nhân dân tham
gia sáng tạo văn hóa là nhiệm vụ lịch sử đầu tiên và là mục tiêu đạo đức quan
trọng của chủ nghĩa xã hội. Xã hội cũ để lại rất nhiều dấu vết tiêu cực trong


18
quan hệ giữa người với người, đặc biệt là trong quan hệ giữa giai cấp thống trị
và quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là đưa đông
đảo nhân dân lao động tham gia vào đời sống chính trị - xã hội. Để thực hiện
được mục tiêu đó, cần phải thay đổi các quan hệ đạo đức, các thành kiến đạo
đức, các lề thói lạc hậu. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó
khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hồn
tồn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta
phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành
kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi

vui hạnh phúc [51, tr. 493-494].
Như vậy, mục tiêu xây dựng nền đạo đức mới của chủ nghĩa xã hội là
phải mở rộng, tiếp tục hồn thành ba cuộc giải phóng: giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội đã được tiến hành và phát động từ đầu
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Việc cải tạo lại các quan hệ đạo đức cũ
phải gắn chặt chẽ với cả ba cuộc giải phóng đó. Việc kế thừa và đổi mới các
giá trị đạo đức truyền thống đã tồn tại hàng ngàn năm trong đời sống mỗi dân
tộc cho phù hợp với thực tiễn và thời đại là yêu cầu cơ bản và cấp bách.
Đấu tranh xóa bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh - đó là sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của
giai cấp vơ sản. Đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân phản ánh cuộc
đấu tranh cách mạng và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp cơng nhân.
Nó đồng thuận với đạo đức nhân loại trong tương lai, vì lý tưởng đạo đức đó
dẫn dắt giai cấp cơng nhân đi tới xóa bỏ mọi giai cấp (kể cả bản thân giai cấp
mình), để xây dựng một xã hội lý tưởng (chứ khơng phải “khơng tưởng”),
trong đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người.
Như vậy, khái niệm đạo đức cộng sản là hoàn toàn mới trong lịch sử xã
hội, nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác.
Đạo đức cộng sản cũng khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ. Theo


19
V.I.Lênin, xét về bản chất, đạo đức mới “là những gì góp phần phá hủy xã hội
cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động xung
quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”
[33, tr.369]. Đạo đức mới là những chuẩn mực của những người cộng sản về
chân, thiện, mỹ nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của những người cộng sản
với nhau, với tổ chức và với nhân dân lao động.
Đạo đức mới có vai trị quan trọng bởi chức năng của nó với quá trình

nhận thức, định hướng giáo dục, điều chỉnh hành vi của con người trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các lý tưởng, các nguyên tắc đạo đức cộng
sản là cơ sở để các đảng macxit, và chính quyền nhà nước vô sản hoạch định
chiến lược, sách lược, chính sách kinh tế, chính trị, văn hố - tư tưởng theo
hướng khẳng định lợi ích của giai cấp cơng nhân. Đạo đức cộng sản đã nhân
đạo hoá một cách phổ biến mọi quan hệ xã hội nhờ tính phổ biến của các giá
trị nhân đạo của mình là giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng nhân dân lao
động, giải phóng nhân loại. Khi đạo đức cộng sản thâm nhập vào đời sống xã
hội sẽ góp phần hồn thiện đạo đức của các cá nhân, của tập thể. Sự điều
chỉnh, điều tiết của đạo đức có tính thống nhất trong xã hội, được các cá nhân
và toàn xã hội thực hiện một cách tự giác, tự nguyện, tự do, thống nhất.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hồn cảnh Việt Nam, cụ
thể hố phù hợp với điều kiện thực tế, Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức mới:
"Mang bản chất của giai cấp công nhân, kết hợp với những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại" [1, tr.179].
Có thể nói, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân,
đạo đức cộng sản hay đạo đức mới tiêu biểu cho lợi ích của giai cấp cơng
nhân và tồn thể nhân dân lao động, nó có sứ mệnh góp phần thủ tiêu hồn
tồn sự áp bức, bóc lột. So với các nền đạo đức trước đây, đạo đức mới là
bước phát triển về chất. Nó chứa đựng và kế thừa tất cả những nội dung tốt
đẹp nhất của các nền đạo đức trong các thời đại trước. Vì thế, đạo đức mới
bao hàm nhiều yếu tố đạo đức chung của cả nhân loại. Cơ sở kinh tế - xã hội
của đạo đức mới được hình thành trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, do đó đạo đức mới hồn tồn đối lập với đạo đức của giai cấp bóc lột và


20
là vũ khí tinh thần sắc bén của giai cấp công nhân. Sự khác biệt giữa đạo đức
mới với các kiểu đạo đức trước đây trước hết thể hiện ở tính cách mạng và
khoa học của nó. Tính cách mạng và khoa học ấy không chỉ biểu hiện ở sự

phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng của giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động, mà cịn biểu hiện ở sự kế thừa có phê phán và chọn lọc những giá trị
đạo đức truyền thống của tinh hoa văn hố dân tộc và nhân loại.
Vai trị quan trọng của việc giáo dục, xây dựng đạo đức mới, đạo đức
cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại, cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng,
của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của lồi người mà
khơng ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi
cần thì hy sinh cả tính mạng mình cũng khơng tiếc… Có đạo đức
cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, khơng kiêu ngạo,
khơng hủ hóa… [51, tr.236-237].
Về tầm quan trọng của việc xây dựng, giáo dục đạo đức mới, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm
nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa.” [52, tr.265]. Theo Người, chủ nghĩa xã hội
sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người xã hội chủ
nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khơng
chờ kinh tế, văn hố phát triển rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa,
cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải
đặt ra ngay từ đầu và phải được Đảng, Nhà nước, nhân dân, mỗi gia đình và
cá nhân đặc biệt quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước hết, cần có những con người tiên tiến có những nét tiêu biểu cho con
người mới, có thể làm gương cho người khác, từ đó lơi cuốn xã hội xây dựng


21

con người mới và những con người tiên tiến đó khơng ngừng hồn thiện và
nâng cao phẩm chất, năng lực. Tầm quan trọng của đạo đức mới đòi hỏi
Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đình phải đặc biệt coi trọng giáo dục đạo đức
mới trong giai đoạn hiện nay.
Hình thức giáo dục đạo đức là hình thức tổ chức hoạt động phối hợp
giữa chủ thể và đối tượng giáo dục, có thể được phân thành các nhóm sau:
Hình thức giáo dục trường quy (giảng dạy đạo đức trong nhà trường).
Đây là hình thức giáo dục đạo đức trực tiếp giữa các chủ thể chuyên nghiệp là
nhà trường, giáo viên với các đối tượng xác định là học sinh, sinh viên theo
nội dung, chương trình xác định. Phương pháp chủ yếu được thực hiện ở hình
thức giáo dục này là dạy và học. Thông qua đạo đức học, trong nhà trường
thực hiện giáo dục các chuẩn mực, các nguyên tắc, các quan niệm đạo đức
một cách hệ thống. Những tri thức này có ý nghĩa rất lớn đối với sự hình
thành xu hướng chung của nhân cách.
Hình thức giáo dục không trường quy:
- Trước hết là giáo dục đạo đức trong gia đình. Chính trong gia đình, con
người có được những hiểu biết đầu tiên về ứng xử đạo đức, hình thành những
tình cảm đạo đức đầu tiên và thường xun củng cố, ni dưỡng tình cảm đạo
đức.
- Con người cũng tiếp nhận đạo đức qua các thiết chế xã hội, qua đồng
nghiệp, bạn bè…nghĩa là qua môi trường xã hội.
- Tự giáo dục cũng là phương thức chuyển đạo đức xã hội thành đạo
đức cá nhân. Về bản chất tự giáo dục đạo đức cũng chính là là giáo dục đạo
đức.
Giáo dục đạo đức được thực hiện thông qua thuyết phục, tuyên truyền,
vận động, nêu gương. Chủ thể giáo dục đạo đức phải là người có đạo đức tốt,
gương mẫu về đạo đức, lối sống. Tuy nhiên, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể về
đối tượng, nhu cầu, các điều kiện khách quan cũng như chủ quan, cần xác
định nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục phù hợp.



22
Do tính liên quan giữa pháp luật với chính trị, đạo đức… nên giáo dục
đạo đức không thể tách rời giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật.
1.1.2. Sự cần thiết giáo dục đạo đức mới cho sinh viên sư phạm
mầm non hiện nay
Trước hết, sự cần thiết giáo dục đạo đức mới cho sinh viên sư phạm
mầm non hiện nay là do giáo dục đạo đức có vai trò quan trọng, bắt nguồn từ
vai trò, chức năng và giá trị xã hội của đạo đức và đạo đức mới như đã khẳng
định. Trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng, Nhà nước, xã hội đã giành sự quan tâm đặc biệt cho công tác này.
Hai là, giáo dục đạo đức mới là một nội dung quan trọng trong giáo dục
nhân cách, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu hoàn thiện nhân cách, đạo đức sinh
viên.
Nhân cách là nền tảng của đạo đức, và đạo đức là một bộ phận làm nên
nhân cách của mỗi con người, và nó cũng là sự biểu hiện của nhân cách. Khi
nói tới giáo dục đạo đức, đánh giá đạo đức sinh viên thì phải coi người sinh
viên là chủ thể mang đạo đức, có ý thức về hành vi đạo đức của bản thân, có
khả năng biểu hiện, tự điều chỉnh, tự đánh giá hành vi đạo đức của mình. Một
con người đạt đến sự trưởng thành xã hội là một con người có nhân cách.
Nhân cách khẳng định chất lượng phát triển người, chịu ảnh hưởng và
tác động của xã hội trong tính truyền thống và hiện đại của các nhân tố kinh
tế, văn hố, xã hội thơng qua hệ giá trị và chuẩn mực của nó, biểu hiện thành
thế giới quan và nhân sinh quan, tư tưởng và đạo đức, tình cảm và niềm tin,
hành vi trong hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội.
Tính hiện thực của nhân cách xác định hình thức biểu hiện ở lẽ sống, lối sống
và nếp sống.
Lẽ sống biểu đạt một quan niệm sống, một thái độ lựa chọn và định
hướng giá trị cuộc sống của bản thân, chứa đựng trong đó mục đích, động cơ,
nhu cầu và lý tưởng xã hội mà cá nhân định hướng tới. Nó đo lường trình độ

trưởng thành xã hội của cá nhân về mặt nhận thức, lý trí, tình cảm...ý thức và
tự ý thức về mình, hình thành triết lý về con người và cuộc sống. Xác định


23
đúng lẽ sống là điểm tựa tinh thần đầu tiên để con người biết sống lương
thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính mình và xã hội.
Giáo dục lẽ sống phải bắt đầu từ những năm tháng còn trẻ của cuộc đời,
khi mà những va đập của cuộc đời chưa làm cho họ tập nhiễm những cái xấu,
cái ác, khi mà sự trong sáng của tâm hồn và tình cảm của họ làm cho họ dễ
tiếp thu những giá trị đạo đức, dề nảy nở những khát vọng trở nên tốt đẹp. Có
lẽ sống đúng sẽ là điểm khởi đầu cho xu hướng phát triển tích cực về nhân
cách. Những lệch lạc về quan niệm sống đặt con người trước nguy cơ hư hỏng
một cuộc đời.
Lối sống là bước chuyển hoá tự ý thức lựa chọn mẫu nhân cách của cá
nhân, của nhóm và tập thể đến thực hành nhân cách trong đời sống hàng ngày.
Xây dựng lối sống và đời sống văn hố tinh thần là tạo ra mơi trường theo các
chuẩn mực về giá trị đạo đức xã hội, khoa học, giá trị thẩm mỹ để dẫn dắt cá
nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực sáng tạo, tới những hành vi giao
tiếp, ứng xử một cách có văn hố, có đạo đức với những nét đẹp về tư tưởng,
tâm hồn, tính cách như sự trung thực, lịng chân thành, tính vị tha, bao dung,
sự ân cần chu đáo với mọi người và coi trọng đạo lý làm người [2, tr.29-33].
Sinh viên, ở cấp độ xã hội, là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm
những người đang học tập trong các trường đại học, cao đẳng để tiếp thu tri thức
làm hành trang chuẩn bị tham gia lao động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất
định, trong tương lai họ sẽ gia nhập vào đội ngũ trí thức của xã hội.
Ở cấp độ cá nhân, sinh viên là người đang trưởng thành về mặt xã hội,
chín muồi về thể lực, định hình về nhân cách, đang học tập tiếp thu những tri
thức, kỹ năng của một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định.
Thời sinh viên là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, đặc biệt là sự

phát triển thế giới quan, nhân sinh quan, chứa đựng hoài bão vươn tới lý
tưởng cao đẹp, phát triển hứng thú nghề nghiệp…Về mặt tâm lý, đây là lứa
tuổi hình thành và phát triển mạnh mẽ những phẩm chất nhân cách có ý nghĩa
rất lớn đối với việc tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực
như khả năng tự đánh giá, lịng tự trọng, tự tin, ý thức… Về mặt xã hội, sinh


24
viên có khát vọng được cống hiến, mong muốn được xã hội ghi nhận. Họ
cũng muốn được khẳng định vai trị, vị trí của mình trong gia đình, trong tập
thể, trong công việc, trong các mối quan hệ…
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật, của kinh tế tri
thức, tính cạnh tranh về lợi thế so sánh trong q trình tồn cầu hố địi hỏi sinh
viên phải vươn lên làm chủ tri thức, nắm vững chuyên mơn, nghiệp vụ, đồng
thời phải là người có đạo đức, bởi lẽ, nếu có tài mà thiếu đạo đức sẽ mất phương
hướng hoạt động, thậm trí cịn làm nguy hại đến lợi ích của cộng đồng.
Nhưng sinh viên đang ở giai đoạn “định hình” nhân cách, chưa phải là
một nhân cách “hoàn chỉnh”, nhiều giá trị chưa được nhận thức đầy đủ, nhất là
các giá trị đạo đức như: tình yêu, nghĩa vụ, sự khiêm tốn…Định hướng giá trị là
yếu tố quan trọng nhất của cấu trúc bên trong nhân cách đảm bảo cho tính mục
đích, tính tích cực, tính kiên định của nhân cách. Để có được những nhân cách
sinh viên phát triển hồn chỉnh, khơng có con đường nào ngắn hơn và tốt hơn
việc tăng cường công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Độ tuổi chủ yếu của sinh viên trong khoảng 18 đến 25, lứa tuổi này ở
con người đã có sự trưởng thành nhất định về mặt sinh học lẫn quan hệ xã
hội. Sinh lý và trí lực đã bắt đầu thành thục. Sự phát triển của tư duy biện
chứng đạt đến trình độ tương đối cao. Tư duy lơgíc biện chứng vừa lấy trình
độ phát triển tâm lý làm cơ sở, lại vừa là kết quả của giáo dục đại học. Thêm
nữa, sự tiếp xúc của sinh viên với xã hội so với lứa tuổi trước đó đã mật thiết
hơn, trực tiếp hơn, nên trong họ dần hình thành thói quen tư duy mang tính

độc lập với những phán đốn tồn diện hơn, mang tính khoa học hơn, từ đó
thúc đẩy tư duy lơgíc, tư duy trừu tượng của họ ngày càng phát triển, thế giới
quan, nhân sinh quan từng bước hình thành, các phẩm chất tâm lý cá tính dần
dần phát triển, tư tưởng và hành vi ngày càng có tính độc lập.
Trong nhà trường, thơng qua các quá trình giáo dục được tổ chức và
thực hiện một cách khoa học, trách nhiệm của giáo viên là chuyển giao cho
trò những tri thức khoa học trong lĩnh vực chuyên môn. Nhà giáo là người


25
định hướng, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh quá trình giáo dục, quyết định
trực tiếp chất lượng giáo dục. K.D.Usinxki cho rằng:
Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách của người
giáo dục, bởi vì sức mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách
của con người mà có. Khơng một điều lệ, chương trình, khơng một
cơ quan giáo dục nào, dù có được tạo ra một cách khôn khéo như
thế nào cũng không thể thay thế được nhân cách của con người
trong sự nghiệp giáo dục. Không một sách giáo khoa, một lời
khuyên răn nào, một hình phạt, một khen thưởng nào có thể thay thế
ảnh hưởng cá nhân người thầy giáo đối với học sinh [69, tr.63].
Vì cơng cụ chủ yếu của lao động người giáo viên là bản thân mình, là
nhân cách của chính mình, cho nên nghề sư phạm, đặc biệt là sư phạm mầm
non đòi hỏi những yêu cầu về phẩm chất và năng lực cao và phải được rèn rũa
ngay từ khi họ còn ngồi trên ghế giảng đường.
Đức và tài là hai thành tố cơ bản của nhân cách, hai tiêu chuẩn cần đạt
được của quá trình giáo dục và đào tạo con người. Đức không thể tách rời tài
và ngược lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Có tài phải có đức. Có tài
khơng có đức, tham ơ hủ hố có hại cho Nhà nước. Có đức khơng có tài, như
ơng bụt ngồi trong chùa, khơng giúp ích gì được ai.” [46, tr.70].
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, có tư tưởng cho rằng trong

khi con người lao vào làm kinh tế, vì lợi nhuận thì đạo đức là điều “xa xỉ”.
Chẳng cần quan tâm đến đạo đức, cứ sống “làng nhàng” là được.
Tuy nhiên, đại đa số cho rằng, trong cuộc sống cộng đồng, không thể
thiếu vắng đạo đức. Trong nền kinh tế thị trường càng cần phải giữ chữ “tín”,
chính vì “uy tín là tiền bạc” (Benjamin Franklin 1706 – 1790). Người xưa
thường nói: “Trước khi thành danh phải thành nhân. Trước khi làm quan viên,
phải biết phép làm người. Một xã hội yên ổn là một xã hội có đơng người biết
tu dưỡng nhân cách. Một đất nước mà đa phần người cai trị có nhân cách thì
của cải, tài sản của dân không bị mất mát. Mất nhân cách là mất tất cả”. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây


×