Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Ths-triết học-Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho học sinh THCN ở việt nam hiện nay” (qua thực tế tỉnh bắc ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.99 KB, 113 trang )

MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC MỚI CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CHUYÊN
NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

7

1.1. Đạo đức mới và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới
cho học sinh trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay
1.2. Nội dung của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay

7
32

Chương 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
CHUYÊN NGHIỆP Ở BẮC NINH HIỆN NAY - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

52

2.1. Thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc giáo
dục đạo đức mới cho học sinh trung học chuyên nghiệp ở Bắc
Ninh hiện nay
2.2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu



52

quả giáo dục đạo đức mới cho học sinh trung học chuyên nghiệp
ở Bắc Ninh hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

81
104
106


CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG LUẬN VĂN

Ban Chấp hành Trung ương

:

BCHTW

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

:

CNH, HĐH

Chủ nghĩa xã hội

:


CNXH

Khoa học - kỹ thuật

:

KH - KT

Phổ thông trung học

:

PTTH

Phổ thông cơ sở

:

PTCS

Trung học chuyên nghiệp

:

THCN

Xã hội chủ nghĩa

:


XHCN


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại
những kết quả to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những
kết quả đó là do sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết một lịng của tồn Đảng, tồn
dân ta. Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của lực lượng thanh
niên - những người chủ tương lai của đất nước. Ở bất cứ giai đoạn cách
mạng nào của lịch sử, thanh niên luôn luôn là lực lượng đi đầu trong các
phong trào cách mạng. Họ chính là lứa tuổi bắt đầu nở rộ những tiềm năng,
sức mạnh về thể chất, tinh thần và trí tuệ, họ là mùa xuân của nhân loại Vì
vậy khi đánh giá vai trị của thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên”.
Phát huy vai trò người chủ tương lai của đất nước, thanh niên - học sinh
THCN là một bộ phận khá đông đảo trong lực lượng thanh niên nước ta hiện
nay, họ đã và đang khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ đất nước. Họ là đối tượng nhạy cảm trước những biến đổi
vơ cùng nhanh chóng của đất nước và thế giới. Ở họ vừa mang trong mình thế
mạnh, ưu điểm, đồng thời vừa có những hạn chế của giới trẻ. Do vậy, bất cứ
một quốc gia, dân tộc nào, bất cứ chế độ xã hội nào muốn tồn tại, phát triển
đều phải quan tâm đến việc bồi dưỡng, phát huy thanh niên, trong đó có học
sinh THCN. Sự phát triển của thanh niên, học sinh THCN không những quan
hệ đến vận mệnh và sự tồn tại của đất nước, mà cịn ảnh hưởng đến tương lai
của dân tộc. Cơng tác giáo dục thanh niên, đặc biệt là giáo dục đạo đức mới
cho học sinh THCN luôn luôn là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của toàn

Đảng và toàn dân ta.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều thay đổi căn
bản. Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đã và đang tạo điều kiện, cơ


2
hội thuận lợi cho thanh niên - học sinh THCN được rèn luyện, phấn đấu vươn
lên và khẳng định mình. Họ xứng đáng là người chủ tương lai của đất
nước.Tuy nhiên bên cạnh những chuyển biến tích cực, sự tác động mạnh mẽ
từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đã và đang làm nẩy sinh tự
phát xu hướng đẩy con người tới sự lệch lạc, biến dạng, tha hố nếu chủ thể
của nó thiếu một sự rèn luyện, trưởng thành nhất định về phẩm chất đạo đức,
thiếu một trình độ văn hố đạo đức để đủ sức đề kháng với những tác động
tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Đặc biệt với lứa tuổi học sinh THCN, do
kinh nghiệm cuộc sống cịn ít nên đơi khi việc nhận thức và lựa chọn hướng
đi chưa chín chắn, đã xuất hiện thái độ và hành vi không lành mạnh trong các
quan hệ xã hội. Thuần phong mỹ tục và những nét đẹp truyền thống của đạo
đức việt nam đang bị xâm hại. Hiện nay, một số định hướng giáo dục đạo đức
cũ khơng cịn phù hợp trong điều kiện mới; những giá trị đạo đức mới đang
trong q trình hình thành, chưa ổn định. Trong khi đó sự phát triển của thông
tin và hội nhập quốc tế làm cho thế hệ trẻ, học sinh trung học chuyên nghiệp
rất khó khăn trong việc lựa chọn những giá trị đạo đức tích cực để hình thành,
phát triển nhân cách. Vì vậy hơn bao giờ hết việc giáo dục đạo đức mới cho
thanh niên, học sinh THCN trở thành yêu cầu bức thiết địi hỏi tồn xã hội
phải đặc biệt quan tâm.
Chính từ những lý do trình bày ở trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Vấn
đề giáo dục đạo đức mới cho học sinh THCN ở Việt Nam hiện nay” (Qua
thực tế tỉnh Bắc Ninh) để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức thanh niên - sinh viên học sinh nói riêng trong những năm gần đây đã có nhiều cơng trình, bài viết,

nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu:
- Nhóm các đề tài và luận văn viết về giáo dục đạo đức thanh niên - sinh
viên - học sinh:


3
"Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", lụân án TS triết học của Trần Sỹ Phán, 1999;
"Vai trị của đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt
Nam hiện nay", luận án TS triết học của Lê Thị Thuỷ, 2001; " Quan hệ biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay", luận án TS triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; “Bồi dưỡng
lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay”, kỷ yếu, hội
thảo của Đảng ủy khối cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng (2005); “
Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong
cơng cuộc đổi theo định hướng XHCN”, luận án tiến sĩ của Đặng Thành
Quang (2005); “ Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” (Qua khảo sát một số trường Đại
học và Cao đẳng ở Hà nội), luận văn Thạc sĩ triết học của Vũ Thanh Hương
(2004); “ Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay” (Qua thực tế một số trường Đại học và Cao đẳng ở thành phố
Hà Nội), luận văn Thạc sĩ triết học của Dỗn Thị Chín (2004); “Xây dựng
bản lĩnh thanh niên hiện nay” do Tiến sĩ Hồ Bá Thâm (chủ biên) - 2006;
“Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”, báo cáo khoa
học chuyên đề Trung ương đoàn Thanh niện Cộng sản Hồ Chí Minh tháng 10
năm 2007; “Những giải pháp nhằm nâng cao giáo dục truyền thống cho
thanh thiếu niên tỉnh Nghệ An” do Đoàn Minh Duệ chủ biên (2004) Nxb
Nghệ An; “Giáo dục đạo đức truyền thống với việc xây dựng nhân cách của
Sinh viên Việt Nam hiện nay”, luận văn Thạc sỹ triết học của Nguyễn Thị
Thanh Hà (2007); “Giáo dục lối sông, nếp sống” của Thanh Lê, Nxb tổng

hợp Thành phố Hồ Chí Minh (2004); “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị Xã hội” (2001), Nxb Chính Trị Quốc Gia; “Tổng quan tình hình
Sinh viên, cơng tác hội và phong trào Sinh viên Việt Nam nhiệm kỳ 2004 2009” của TW hội Sinh viên Việt Nam (2009); "Vấn đề xây dựng đạo đức


4
mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay", luận văn
thạc sỹ của Phạm Huy Thành (2009).
Nghiên cứu các khía cạnh tác động của đạo đức và giáo dục rèn luyện
đạo đức đối với sự phát triển nhân cách thanh niên - sinh viên - học sinh cũng
có nhiều tác giả đã đề cập. Trong các tạp chí có những bài:
“Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều
kiện Kinh tế thị trường” của Thái Duy Uyên, tạp chí Triết học số 5 - 1995;
"Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong
nền kinh tế thị trường" của Hồng Trung, tạp chí triết học số 5, 1998 “Từ tư
tưởng Hồ Chí Minh xác định lý tưởng của thanh niên hiện nay” của Tác giả
Vũ Đảm Tạp chí Thanh niên số 13 năm 2003; “Quan hệ giữa đạo đức và kinh
tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của Nguyễn thế Kiệt,
tạp chí Triết học số 6/1996; “Định hướng giá trị đạo đức trong công tác giáo
dục đạo đức cho sinh viên các trường Đại học hiện nay ở Việt Nam” của
Nguyễn Thế Kiệt, kỷ yếu hội thảo khoa học: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà
nội 2008; “ Từ đạo đức truyền thống đến đạo đức Hồ Chí Minh” của Nguyễn
Thế Kiệt,Tạp chí nghiên cứu lý luận số 7 - 2006; “Bồi dưỡng đạo đức Cách
mạng cho thế hệ trẻ” của Trần Văn Miều, tạp chí Xây dựng Đảng (2007); “Từ
chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” của
Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học số 9-2005;“Xây dựng lối sống văn hoá
cho thanh niên hiện nay” của Nguyễn thị Mỹ Trang, tạp chí Cộng sản số
6/2006; "Giáo dục thanh niên "Trung với nước, hiếu với dân"- theo tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của Đinh Thế Định, tạp chí Lý luận

chính trị số 6/2007;
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả nêu trên
đều là nguồn tư liệu qúy giá để chúng tơi tham khảo và kế thừa trong q
trình thực hiện đề tài luận văn của mình. Tuy nhiên những cơng trình này


5
chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục đạo đức mới cho đối tượng
học sinh THCN ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Từ thực tế các trường THCN và Cao đẳng ở Bắc Ninh, luận văn phân
tích thực trạng giáo dục đạo đức mới cho học sinh THCN với những nguyên
nhân của nó, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho đối tượng này ở Việt Nam
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ tầm quan trọng, nội dung của giáo dục đạo đức mới cho học
sinh THCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức mới cho học sinh THCN ở Bắc
Ninh hiện nay, nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức mới cho học sinh THCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình đạo đức và công tác giáo dục đạo đức mới cho học sinh
THCN ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh THCN trong các trường THCN và các trường Cao đẳng ở tỉnh

Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam


6
về thanh niên, về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên, học
sinh; đồng thời kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các cơng trình
nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và logic; phân tích
và tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần tiếp tục làm rõ cả về mặt lý luận và cả về mặt thực tiễn việc
giáo dục đạo đức mới cho học sinh trung học chuyên nghiệp ở nước ta nói
chung và ở Bắc Ninh nói riêng. Từ đó đề xuất phương hướng và một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho
học sinh THCN ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận liên quan đến đạo
đức, giáo dục đạo đức mới cho thanh niên - học sinh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
luận văn được bố cục gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Tầm quan trọng, nội dung của việc giáo dục đạo đức mới
cho học sinh trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Giáo dục đạo đức mới cho học sinh trung học chuyên
nghiệp ở Bắc Ninh hiện nay - Thực trạng và giải pháp.



7
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC MỚI CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CHUYÊN
NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. ĐẠO ĐỨC MỚI VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC MỚI CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

1.1.1. Đạo đức và đạo đức mới
1.1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện khá sớm trong lịch sử
loài người, đó là một trong những giá trị tinh thần mà lồi người đã sáng tạo
ra và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự tiến bộ, phát triển của nhân
loại. Vì vậy đạo đức ln ln là vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm.
Trong lịch sử đạo đức học, khi bàn về nguồn gốc, cơ sở phát sinh, phát
triển của đạo đức đã xuất hiện nhiều khuynh hướng quan điểm khác nhau:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và của các nhà thần học, đã lý giải
nguồn gốc, bản chất của đạo đức từ bên ngoài đời sống hiện thực. Họ cho rằng
đạo đức là do một lực lượng siêu nhiên nào đó áp đặt và ban phát cho con người.
Đạo đức có nguồn gốc từ thần thánh, do thần thánh tạo ra để giáo dục con người.
Đối lập với khuynh hướng trên, các nhà triết học duy vật mác xít, trên
cơ sở khái quát những thành tựu của khoa học đương thời, bằng tư duy biện
chứng đã đưa ra những kết luận khoa học về sự hình thành và phát triển của
đạo đức. Đạo đức học mác xít khẳng định: Đạo đức khơng phải là sự biểu
hiện của một sức mạnh nào đó bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con
người; cũng không phải là sự biểu hiện của những năng lực siêu nhiên nhất

thành bất biến. Đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội, nó là sản phẩm của


8
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế - xã hội, nói
cách khác, đạo đức là một hiện tượng xã hội, nảy sinh, tồn tại và phát triển
trong đời sống hiện thực của con người, trong quá trình con người sống, hoạt
động, giao tiếp. Đạo đức là một trong những phương thức, phương tiện để con
người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực
xã hội nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Cơ sở kinh tế chính là điều kiện
khách quan để xác lập những quan hệ đạo đức, tức là những quan hệ đạo đức
phụ thuộc vào cơ sở kinh tế - xã hội, Mỗi khi cơ sở kinh tế - xã hội thay đổi sẽ
dẫn đến sự thay đổi của ý thức đạo đức.
Đạo đức bắt nguồn từ trong đời sống hiện thực của con người.Khơng
có hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì khơng có đạo đức xã hội.
Đạo đức luôn mang bản chất xã hội. Nội dung của đạo đức là do hoạt động
thực tiễn và tồn tại xã hội quy định. ý thức đạo đức là phản ánh tồn tại xã hội
về lĩnh vực đạo đức. Vì vậy, trong tác phẩm Chống Đuy Rinh, Ph.Ăngghen đã
viết: "Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là
sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ " [30, tr.137].
Như vậy: "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử
của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội" [16, tr.7].
Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh và tác động đến tồn tại xã hội ở
một lĩnh vực riêng biệt khác nhau. Đạo đức phản ánh hiện thực đời sống đạo
đức xã hội. Chế độ kinh tế xã hội là nguồn gốc của các quan điểm đạo đức
của con người. Sự phát sinh, phát triển của đạo đức xét đến cùng là một
quá trình do sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định.Đạo đức
còn là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi con người. Phương

thức điều chỉnh này dựa vào hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
do yêu cầu của xã hội hoặc do một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi


9
cá nhân. Sức mạnh của đạo đức là truyền thống dân tộc, là dư luận xã hội.
Mỗi thành viên trong xã hội đều chịu một sự giáo dục nhất định về ý thức
đạo đức và phải có trách nhiệm biến những yêu cầu của xã hội thành nhu
cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Do đó sự điều chỉnh
của đạo đức mang tính tự nguyện.
Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang bản chất xã
hội. Ăng ghen đã luận chứng cho bản chất xã hội của đạo đức bằng cách chỉ
ra tính thời đại, tính xã hội và tính giai cấp của đạo đức. Trong đó, tính giai
cấp của đạo đức là sự phản ánh và thể hiện lợi ích của các giai cấp. Nó là biểu
hiện đặc trưng bản chất xã hội của đạo đức trong xã hội có giai cấp và đối
kháng giai cấp. Cần chú ý là, trong xã hội có giai cấp đạo đức mang tính giai
cấp nhưng khơng phải vì thế mà phủ nhận tính nhân loại chung của đạo đức.
Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp là biểu hiện ở những quy
tắc giản đơn, thông thường, nhưng là rất cần thiết để bảo đảm trật tự thông
thường cho cuộc sống hàng ngày của con người; và biểu hiện cao hơn trong
tính nhân loại là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định. Những giá trị này thường là những giá trị đạo đức ở giai cấp tiến
bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.
Đạo đức có chức năng nhận thức, chức năng điều chỉnh hành vi và
chức năng giáo dục. Mỗi chức nằng đều có vai trị, vị trí nhất định, đồng thời
lại có mối quan hệ mật thiết, tác đồng lẫn nhau; trong đó chức năng giáo dục
và chức năng điều chỉnh hành vi có vai trò quan trọng. Nhờ các chức năng
này mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình, bảo đảm hài hồ quan
hệ lợi ích giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với xã hội, tạo nên sự
đồng thuận giữa sự phát triển cá nhân và sự phát triển xã hội.

1.1.1.2. Đạo đức mới
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, nội hàm của khái niệm đạo
đức về cơ bản ln có sự thay đổi một cách phù hợp với sự thay đổi của tồn


10
tại xã hội đã sinh ra nó. Những chuẩn mực, những quy tắc đạo đức bao giờ
cũng biến đổi theo hướng: bảo tồn những giá trị cũ tích cực, xây dựng những
giá trị mới phù hợp với thời đại.
Trong xã hội nguyên thuỷ, hình thức sơ khai của các quan hệ đạo đức
đã xuất hiện. Lúc đó, do lực lượng sản xuất cịn thơ sơ, con người làm chung,
hưởng chung, nhu cầu con người chưa nhiều, chưa phức tạp. Do đó ý thức
đạo đức, quan hệ đạo đức cịn rất đơn giản, nó được biểu hiện thơng qua các
hành vi giao tiếp, ứng xử trong các quan hệ xã hội trên cơ sở phong tục tập
quán, truyền thống, thói quen, kinh nghiệm, tín ngưỡng, lễ nghi tơn giáo...
Đạo đức bị lẫn lộn vào tập quán, phong tục, tín ngưỡng, lễ nghi tơn giáo.
Khi xã hội lồi người có sự phân chia thành giai cấp, xã hội chiếm hữu
nô lệ ra đời và đạo đức mang tính giai cấp. Từ đó hình thành một nền đạo đức
phức tạp hơn: đạo đức của kẻ đi áp bức bóc lột và đạo đức của người bị áp
bức bóc lột. Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, tính giai
cấp của đạo đức được thể hiện khá rõ rệt. Những chuẩn mực, quy tắc đạo đức
được xây dựng trên sự bất bình đẳng, sự nơ dịch, áp bức bóc lột giữa người
với người.
Những mâu thuẫn trong đạo đức của các xã hội có đối kháng giai cấp
cần phải được khắc phục, được xoá bỏ bằng sự ra đời của một nền đạo đức
mới tiến bộ hơn- đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Về mặt lịch sử, đạo đức mới đã
tồn tại và phát triển từ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị chính trị của giai cấp mình. Đạo đức mới là
thành quả tiến bộ của đạo đức xã hội loài người, đây là đạo đức có tính người
thực sự, là đạo đức của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động.

Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức của giai cấp vô sản cách mạng,
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp vơ sản trong cuộc đấu tranh tự
giải phóng mình và giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức bóc lột, bất cơng,
đem lại hạnh phúc chân chính cho con người. Vì vậy đạo đức của những


11
người vơ sản là tiến bộ, hồn tồn đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và
các giai cấp bóc lột khác. Đạo đức mới mang nội dung nhân đạo cả về mặt
thực tiễn và mặt nhận thức. Tư tưởng nhân đạo cốt lõi trong đạo đức cộng sản
là: Tất cả vì con người, tơn trọng con người, thương yêu con người, giải phóng
con người, tạo điều kiện để con người được tự do và phát triển toàn diện trong
mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và tập thể. Vì vậy xây dựng đạo đức mới, đạo
đức cộng sản là một quá trình lâu dài, phức tạp, mang tính tự giác.
Khi nói về đạo đức cộng sản, Lênin đã nói: "Đạo đức, đó là những gì góp
phần phá huỷ xã hội cũ của bọn áp bức bóc lột và góp phần đồn kết tất cả
những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới"
[27, tr.369]. Do đó, tính chất và nội dung của đạo đức mới, đạo đức cộng sản bị
quy định bởi yêu cầu của sự nghiệp xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Sứ mệnh của đạo đức cộng sản là góp phần thủ tiêu tận gốc sự bóc lột
và áp bức dưới bất cứ hình thức nà5. Đạo đức cộng sản là nền đạo đức có giá
trị phổ biến và nhân đạo nhất, một nền đạo đức mang tính nhân loại phổ biến,
có kế thừa, có chọn lọc, có phê phán và phát triển. Các giá trị đạo đức này
mang ý nghĩa cao cả vì nó là sản phẩm sáng tạo của con người và vì con
người. Những giá trị ấy nói lên bản chất sáng tạo của trí tuệ của ý thức, của
lịng dũng cảm và những phẩm chất cao quý của con người. Nền đạo đức ấy
vừa là sản phẩm của nền sản xuất xã hội đầy sáng tạo và nhân văn, vừa là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Vận dụng sáng tạo lý luận đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị,

vị trí của đạo đức mới trong sự nghiệp cách mạng XHCN- Người gọi đó là
đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã coi đạo đức mới- đạo đức cách mạng
chính là cái "gốc" của người cách mạng, Người nói: "Cũng như sơng thì có
nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù


12
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [35, tr.252- 253]. Người
cho rằng, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề; vì vậy" người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa.Tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ
nghĩa" [40, tr.186]. Đạo đức mới, đạo đức xã hội chủ nghĩa là đạo đức trong
hành động cải tạo xã hội, khẳng định phẩm chất cao quý của người lao động
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Như vậy, đạo đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động tiến bộ, phản ánh thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là tổng hoà các giá trị và chuẩn mực tạo nên
nền tảng nhân cách của con người mới, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội XHCN.
1.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho học sinh
trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Đặc điểm học sinh trung học chuyên nghiệp ở
Việt Nam hiện nay
Học sinh THCN là đối tượng đang theo học tại các trường THCN hoặc
Cao đẳng thuộc hệ đào tạoTHCN. ở nước ta hiện nay, học sinh THCN được
xét tuyển với hai loại đối tượng: loại thứ nhất, xét tuyển với những đối tượng

đã tốt nghiệp PTCS, thời gian đào tạo từ 2 đến 3 năm. Hiện nay, do trình độ
dân trí nước ta ngày càng được nâng cao, nên đối tượng này có xu hướng
giảm dần, cịn chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng số học sinh THCN. Loại thứ hai,
xét tuyển với những đối tượng đã tốt nghiệp PTTH, thời gian đào tạo là 2
năm. Hiện nay loại này chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số học sinh THCN ở
nước ta hiện nay. Họ có độ tuổi chủ yếu từ 19 tuổi đến khoảng 22, 23 tuổi. Họ


13
là một bộ phận quan trọng nằm trong độ tuổi thanh niên. Ở mỗi quốc gia khác
nhau việc quy định độ tuổi thanh niên có sự khác nhau. Với điều kiện cụ thể
của nước ta và tình hình phát triển thể chất, tâm sinh lý, sự trưởng thành về
mặt xã hội của từng lứa tuổi, độ tuổi của thanh niên Việt Nam được xác định
bắt đầu từ 15 tuổi đến khoảng trên dưới 30 tuổi. Như vậy, với độ tuổi học sinh
THCN, họ vừa mang những đặc điểm tâm sinh lý chung đặc trưng của lứa
tuổi thanh niên, đồng thời họ lại có những nét riêng của học sinh THCN.
Về đặc điểm tâm sinh lý: Thanh niên - học sinh THCN là lứa tuổi đã có
sự trưởng thành nhất định về mặt sinh học lẫn quan hệ xã hội, họ là lớp người
đang trưởng thành, có sự phát triển nhanh chóng về thể chất, trí tuệ và nhân
cách. Đây là giai đoạn đầu của quá trình làm người lớn với một sinh lực dồi
dào và những năm tháng sung sức, đẹp đẽ nhất của đời người. Họ đang chuẩn
bị cho mình những hành trang nghề nghiệp cần thiết cho cuộc sống tương lai.
Cơ thể đang đi đến độ hoàn thiện về mọi mặt, các đặc điểm sinh lý, giới tính
phát triển đến độ chín muồi, đặc biệt là sự phát triển bộ não đã giúp cho thanh
niên - học sinh THCN có khả năng tiếp nhận một lượng thơng tin lớn, dễ nhớ,
là cơ sở của trạng thái tinh thần hăng say, nhạy cảm. Về mặt tâm lý, ở lứa tuổi
này họ ln muốn tự khẳng định mình, khơng muốn lệ thuộc vào người khác,
nhất là với cha mẹ, muốn tự lập, rất nhạy cảm với cái mới, cái lạ, có nhu cầu
tìm hiểu, tham gia các hoạt động xã hội, giàu óc tưởng tượng, giàu ước mơ,
thích cơng bằng, ghét bất cơng, có nhu cầu cao về tình bạn, tình yêu.

Về mặt xã hội, họ đã biết quan tâm đến tương lai của bản thân, của
dân tộc, bước đầu ý thức được trách nhiệm của người công dân, nghĩa vụ
đối với tổ quốc.Tuy nhiên, với điều kiện sinh hoạt vật chất ngày càng được
nâng cao nên con người sinh lý, tố chất sinh học của thanh niên - học sinh
THCN đã phát triển đến độ chín muồi nhưng những phẩm chất xã hội của
họ vẫn chưa hoàn thiện, chưa ổn định vững vàng. Trong đời sống cá nhân,
nhiều khi sự trưởng thành về mặt xã hội thường chậm hơn so với sự phát


14
triển về mặt sinh học của họ. ở giai đoạn này, thế giới nội tâm của họ có
nhiều phức tạp và mâu thuẫn. Bên cạnh những ưu điểm nổi trội của tuổi trẻ,
học sinh THCN còn tiềm ẩn những hạn chế nhất định. Trong hoạt động
thực tiễn, bên cạnh sự tích cực hăng say, dám nghĩ dám làm, họ vẫn cịn
bồng bột, thiếu kinh nghiệm, đơi khi cịn nóng nảy, chủ quan, hay bốc
đồng, thậm chí cịn liều lĩnh. Họ giàu ước mơ, hoài bão và lạc quan nhưng
khi gặp khó khăn, thất bại thì dễ hồi nghi, dao động, chán nản. Họ có tính
tự lập, tự khẳng định cao nhưng cũng dễ tự cao, tự đại, kiêu ngạo, dễ nhầm
lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa đúng và sai, giữa thật và giả; họ có
khao khát về tự do dân chủ nhưng cũng dễ có những hành vi vơ chính phủ,
vơ tổ chức kỷ luật. Họ giàu óc tưởng tượng, nhạy cảm, luôn muốn phấn đấu
cho một tương lai tốt đẹp nhưng lại hay thần thánh hoá, hay thay đổi, họ
thường quên quá khứ, ít quan tâm đến văn hố truyền thống. Chính những
đặc điểm đó làm cho họ dễ bị kích động, bị lợi dụng mua chuộc, bị lôi kéo
tham gia vào các hoạt động thiếu lành mạnh. Do vậy, nếu họ không tự ý
thức, không tự rèn luyện bản thân thì dễ để lại những hậu quả xấu cho bản
thân, gia đình và xã hội. Một bộ phận học sinh THCN chỉ biết đòi hỏi, yêu
cầu từ nhiều phía, nhưng họ chưa tự địi hỏi đối với bản thân mình đã làm
gì cho mọi người, cho xã hội. Ở độ tuổi này, nhận thức của họ về cuộc
sống, quan điểm sống cịn đang trong q trình hình thành và từng bước đi

vào ổn định nhưng lại chưa được trải nghiệm nhiều, do đó trong nhận thức
và hành động còn thiếu vững chắc, nhiều khi dẫn đến những hành động tự
phát, thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân.
Tóm lại, học sinh THCN là lứa tuổi đang trưởng thành, bắt đầu nở rộ
những tiềm năng, sức mạnh của tuổi trẻ. Bởi vậy, thanh niên - học sinh THCN
có vai trị lớn lao trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Xã hội kỳ
vọng vào thế hệ trẻ, tin tưởng giao phó nhiều nhiệm vụ và trọng trách nặng nề
cho họ. Vì vậy việc xác định được vai trị, vị trí to lớn của thanh niên - học


15
sinh THCN là điều có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong cơng tác giáo dục đào
tạo thanh niên nói chung, trong đó có giáo dục đạo đức nói riêng.
* Vị trí, vai trị của học sinh THCN trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Là một lực lượng trong độ tuổi thanh niên, học sinh THCN có vai trị
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Khi nói về vai trò của thanh niên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lênin đã chỉ ra rằng: Tương lai của giai cấp cơng nhân và do đó tương lai
của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang
lớn lên.
C.Mác đã khẳng định, thanh niên là lực lượng hùng hậu, có khả năng
cách mạng to lớn và luôn hướng tới lý tưởng tiến bộ của thời đại. C.Mác viết:
Đảng của chúng ta là đảng của tương lai mà tương lai thuộc
về thanh niên. Chúng ta còn là Đảng của những người đổi mới, vì sự
nghiệp đổi mới mà thanh niên ln ham thích, chúng ta là Đảng của
cuộc đấu tranh hy sinh, xả thân chống lại những gì mục nát, mà
thanh niên bao giờ cũng đi đầu trong cuộc đấu tranh hy sinh, xả thân
ấy [55, tr.118].
Thống nhất với quan điểm trên, PhĂngghen chỉ rõ chính thế hệ trẻ là
nguồn bổ sung dồi dào nhất cho Đảng, "họ là đạo quân xung kích của giai cấp

vô sản quốc tế và đội hậu bị của Đảng" [55, tr.121]
Lênin đánh giá rất cao tiềm năng sáng tạo của thanh niên, Người cho
rằng: "Thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng" [27, tr.67].
Cũng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình đã rất chú ý đến
thanh niên và đề cao vai trò của thế hệ trẻ. Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng
toàn quốc nhân dịp tết Nguyên đán năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
"Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa
xuân của xã hội " [35, tr.167]. Bác cũng khẳng định: "Nước nhà thịnh hay suy,


16
yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên" [38, tr.375]. Theo Người,
thanh niên, học sinh là lực lượng đơng đảo, có tri thức, có sức khoẻ, có khả
năng tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, là lực lượng xung kích trong đấu
tranh cách mạng, hăng hái xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, vai trò, vị trí của thanh niên, học sinh đã được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao.
Để phát huy được vai trị quan trọng đó địi hỏi Đảng phải tổ chức, lãnh đạo,
giáo dục và rèn luyện thanh niên trở thành những người vừa "hồng" vừa
"chuyên". Trong đó vấn đề giáo dục đạo đức mới cho thanh niên - học sinh
THCN được xác định là nhịêm vụ quan trọng hàng đầu.
Quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ln
ln quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, học sinh. Nghị quyêt
BCHTW Đảng lần thứ 4 (khoá VII) của Đảng ta đã khẳng định: Vấn đề thanh
niên phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn
lực con người… Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng, đất nước
bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay khơng,
cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không phần

lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ
thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Tại Đại hội Đồn tồn quốc lần thứ VIII, sau khi nói về đường lối cơng
nghiệp hố, hiện đại hố và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Tổng Bí thư
Nơng Đức Mạnh đã khẳng định: "…Cơng việc đó là của toàn xã hội nhưng
trước hết là của thanh niên, vì thanh niên có vị trí đặc biệt đối với sự nghiệp
cách mạng và tương lai của dân tộc…".
Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng lần thứ 7 (khóa X) đã ban hành
Nghị quyết số 25- NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công


17
tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, đã khẳng
định: thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước,
là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng CNXH. Chăm lo, phát triển thanh
niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển
bền vững của đất nước.
Xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh
niên, học sinh THCN đã không ngừng phấn đấu vươn lên trong mọi hoàn
cảnh. ở thời kỳ nào của lịch sử họ cũng luôn tiên phong đi đầu trong các
phong trào cách mạng với khẩu hiệu hành động "Đâu cần thanh niên có, việc
gì khó có thanh niên".
Trước đây, trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, hàng vạn
học sinh, sinh viên đã tạm gác ước mơ học tập, lên đường chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc thân yêu. Vì tiếng gọi của Tổ quốc họ sẵn sàng hy sinh thân mình
khơng một chút mảy may tính tốn, khơng địi hỏi đền bù, trọn đời cống hiến
cho non sơng đất nước. Các phong trào thanh niên "3 sẵn sàng" và khẩu hiệu

"Sẻ dọc Trường sơn đi đánh Mỹ" đã được thanh niên, học sinh, sinh viên
hưởng ứng nhiệt tình.
Ngày nay, tiếp bước truyền thống vẻ vang đó, thanh niên học sinh
THCN khơng quản khó khăn, thách thức, ln phấn đấu vươn lên trong học
tập, xung kích năng động, sáng tạo đi đầu trong sự nghiệp đổi mới đất nước,
thực hiện thành cơng cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hàng loạt phong trào hành
động của học sinh, sinh viên được khởi xướng, đã thu hút sự quan tâm của
tồn xã hội bởi tính hiệu quả và tác dụng to lớn trong việc cổ động quần
chúng nhân dân đoàn kết, chung tay tham gia xây dựng đất nước. Các phong
trào "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước", "Học để ngày mai lập


18
nghiệp", "Đền ơn đáp nghĩa", "Uống nước nhớ nguồn", "Hiến máu nhân
đạo"… đã và đang thu hút đông đảo thanh niên, học sinh THCN tham gia.
Đặc biệt, phong trào "Học sinh, sinh viên tình nguyện" đã tạo ra hiệu ứng tích
cực, mang lại kết quả nhiều mặt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để tạo điều kiện cho thanh niên phát triển nhanh, toàn diện, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2010 trên
cơ sở đó để tiếp tục ban hành và hồn thiện những chính sách thanh niên đáp
ứng nhu cầu phát triển thanh niên trên nhiều lĩnh vực.
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường đã tạo nên sự
biển đổi sâu sắc và toàn diện đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực đạo đức, sự tác động của kinh tế thị trường có tính hai mặt:
vừa tích cực, vừa tiêu cực đối với sự hình thành và phát triển nhân cách đạo
đức thanh niên, học sinh.
Tác động tích cực của kinh tế thị trường được biểu hiện ở chỗ:
- Nền kinh tế thị trường đòi hỏi mọi người phải ln quan tâm đến hiệu
quả cơng việc để có thể giành được ưu thế trong cạnh tranh. Nó đã tạo mơi

trường kích thích sự phát triển, phát huy tiềm năng, nâng cao ý thức trách
nhiệm cá nhân trong công việc. Sự cạnh tranh giữa các chủ thể là một tất yếu,
điều đó địi hỏi mỗi người học sinh THCN phải ln phấn đấu,tự ý thức nâng
cao trình độ, năng lực trong hoạt động thực tiễn. Nó địi hỏi học sinh phải chủ
động, năng động, sáng tạo, nhanh nhạy nắm bắt thực tiễn để đáp ứng kịp thời
yêu cầu phát triển của đất nước và của thời đại. Về phương diện con người, có
thể nói, kinh tế thị trường đã mở ra những khả năng và điều kiện thuận lợi cho
việc khai thác tiềm năng và tính sáng tạo của con người, Đó là cơ sở hiện thực
để xây dựng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức tích cực, hình thành những
phẩm chất đạo đức mới theo hướng tích cực cho học sinh THCN.
Sự phát triển kinh tế thị trường chịu sự tác động của các quy luật kinh
tế, nhất là quy luật giá trị. Do đó sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo trong xã


19
hội là điều khơng thể tránh khỏi, Chính điều đó đòi hỏi mỗi người, mỗi học
sinh phải tự khẳng định mình, phải có ý chí vươn lên trong học tập và lao
động, làm giàu chính đáng bằng bàn tay, khối óc sáng tạo của mình để đem lại
lợi ích cho bản thân, cho gia đình và cho tồn xã hội.
Nền kinh tế thị trường tác động đến đạo đức và giáo dục đạo đức thông
qua việc giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích, Trong nền kinh tế thị trường,
lợi ích cá nhân được thừa nhận và tơn trọng. Nó trở thành động lực trực tiếp
thúc đẩy mọi cá nhân phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo trong mọi
hoạt động của mình. Khi thực hiện hành vi theo đuổi lợi ích của minh địi hỏi
mỗi học sinh THCN phải tỏ rõ khả năng, năng lực, nâng cao ý thức trách
nhiệm cá nhân, phải tự chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, phải có
bản lĩnh, độc lập, tự chủ, có năng lực quyết đốn đúng đắn. Điều đó đã tác
động tích cực tới việc bài trừ sự dựa dẫm, ỷ lại, bớt đi tính giả dối trong đạo
đức. Kinh tế thị trường đòi hỏi mỗi học sinh THCN phải có tính tự lập cao,
phải có ý chí vươn lên bằng sự nỗ lực trong học tập, rèn luyện bản thân, lao

động và lao động sáng tạo.
Mặt khác, sự phát triển kinh tế thị trường đã kích thích nhu cầu vật chất
và tinh thần của con người, làm cho những nhu cầu đó ngày càng tăng lên và
ngày càng phong phú, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người. Đó là những điều kiện thuận lợi cho học sinh THCN tích cực tham gia
vào đời sống xã hội, hình thành phẩm chất và năng lực cần thiết cho sự phát
triển,hoàn thiện nhân cách, đáp ứng yêu cầu xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường với cơ chế kinh tế mở cửa, thực hiện quá
trình hội nhập quốc tế, đã tạo điều kiện cho học sinh THCN được mở rộng,
tiếp xúc với những quan niệm mới về tốt, xấu, tự do, dân chủ, cơng bằng,
bình đẳng… Những quan niệm mới đó góp phần vào việc giải phóng về mặt
tư tưởng, loại bỏ những tư tưởng lỗi thời khơng cịn phù hợp. Những quy tắc
ứng xử của học sinh THCN vì thế cũng có nhiều biến đổi, các nguyên tắc


20
được hướng tới hiệu quả thiết thực hơn, phù hợp với u cầu của sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hố, của nền kinh tế tri thức. Nó định hướng giá trị
cho học sinh THCN về cuộc sống hôm nay: cần phải có kiến thức, có bằng
cấp, có việc làm, phải sống có mục đích, lý tưởng, ước mơ. Họ phải quan tâm
nhiều đến lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình và làm giàu chân chính, đồng thời
coi trọng lợi ích chung của cộng đồng, đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế đã
tạo cơ hội cho học sinh THCN mở rộng giao lưu học hỏi bạn bè trên thế giới,
làm cho họ trở nên năng động hơn, quyết đốn hơn, vừa giữ gìn và phát huy
được các giá trị đạo đức truyền thống, vừa bồi đắp thêm những giá trị đạo đức
mới trong quá trình giao lưu học hỏi, làm cho sức sống của các giá trị đạo đức
truyền thống phù hợp với hoàn cảnh mới, làm cho nhiều giá trị đạo đức mới
mang tính phổ quát hơn.
Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập
quốc tế cũng gây nên những tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức con

người, trong đó có học sinh THCN. Trước hết đó là những biểu hiện có tính
thực dụng trong quan niệm đạo đức và trong hành vi ứng xử của con người.
Một bộ phận học sinh THCN lối sống cá nhân, chỉ biết đến lợi ích riêng của
bản thân mình, khơng quan tâm tới người khác, không quan tâm tới tập thể và
xã hội. Sống bàng quang, thờ ơ, thực dụng, vật chất hóa trong các quan hệ
ứng xử về tình bạn, tình yêu, tình thầy trị. Nhiều học sinh khơng chú ý rèn
luyện, tu dưỡng, lười học, không trung thực trong học tập, gian lận trong thi
cử, ý thức lập nghiệp chưa cao… Nhiều học sinh xuất hiện thái độ đòi hỏi về
quyền lợi hơn là hy sinh, đòi hỏi hưởng thụ quên mất trách nhiệm, nghĩa vụ
công dân. Một số học sinh THCN cịn du nhập lối sống và sản phẩm cơng
nghệ hiện đại ở những nước phát triển, họ lao vào ăn chơi, đua đòi, xa rời với
đạo đức truyền thống, nhiều giá trị đạo đức trong một bộ phận học sinh
THCN đang bị lệch chuẩn.


21
Từ sự phân tích ở trên cho thấy: trong cơng tác giáo dục - đào tạo của
các nhà trường hiện nay cần phải tồn diện, trong đó vấn đề giáo dục đạo đức
mới cho học sinh phải được coi là một nhiệm vụ then chốt, hàng đầu trong
hoạt động của nhà trường nhằm hình thành lớp người vừa có phẩm chất đạo
đức, vừa có trình độ tri thức, tài năng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức mới cho học sinh
trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là hoạt động có mục đích, có kế
hoạch nhằm tác động đến sự phát triển tinh thần và thể chất của một đối tượng
nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đã đặt ra. Giáo dục là một quá trình có tính hai mặt, một mặt đó
là sự tác động từ chủ thể giáo dục vào đối tượng giáo dục; mặt khác, thơng
qua sự tác động đó mà con người tự giáo dục ngay chính bản thân mình.

Trong q trình tồn tại và phát triển của con người, có nhiều giá trị trong đó
có các giá trị đạo đức được hình thành chủ yếu thơng qua con đường giáo dục.
Khơng có giáo dục thì khơng thể bảo tồn và phát triển được những giá trị
chung của loài người, như các giá trị kinh tế, chính trị, tư tưởng, đạo đức... và
do đó khơng thể sáng tạo ra được những giá trị mới.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích của chủ thể giáo
dục đến đối tượng giáo dục để hình thành trong họ những yếu tố, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng và tất cả được thể hiện ở những hành vi đạo đức.
Hoạt động đạo đức chính là hoạt động của con người, được điều chỉnh
bởi ý thức đạo đức của chủ thể, hay nói cách khác, đó là sự thể hiện những
năng lực, phẩm chất đạo đức của con người, Do đó, giáo dục đạo đức là quá
trình chuyển những yêu cầu đạo đức của xã hội thành những phẩm chất đạo đức
cá nhân, thành sự hiểu biết, thành ý chí, niềm tin, thành nhu cầu, động cơ, năng
lực bên trong của mỗi cá nhân và sau đó là sự tự nguyện, tự giác hành động.


22
Thông qua việc giáo dục đạo đức, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức
được cá nhân nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ hơn, góp phần điều chỉnh
hành vi của con người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Giáo
dục đạo đức được coi là tiến bộ khi việc giáo dục đó phải đưa tới kết quả thúc
đẩy loài người theo hướng “ nhân đạo hoá”. Hiệu quả của giáo dục đạo đức
liên quan rất lớn tới mơi trường giáo dục; do đó cần phải lành mạnh hố mơi
trượng giáo dục đạo đức. Ngồi ra, các yếu tố khác như: điều kiện kinh tế xã
hội, cách thức tổ chức giáo dục, mức độ tự giác của chủ thể...là những nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của giáo dục đạo đức.
Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng
của cơ chế thị trường đối với đạo đức đang là một hiện tượng hết sức phức
tạp, quan niệm đạo đức trong xã hội ngày càng có nhiều biến đổi, có nhiều
yếu tố mới nảy sinh và phát triển cùng với sự biến đổi của các điều kiện kinh

tế, vật chất xã hội. ý thức con người trong đó có ý thức đạo đức luôn được
thay đổi cùng với sự thay đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy giáo dục đạo đức
mới, phổ biến sâu rộng các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức mới nhằm
hình thành ý thức và thói quen đạo đức, xây dựng một quan hệ đạo đức mới
cho thanh niên, học sinh THCN là điều hết sức cần thiết, trên cơ sở đó xây
dựng ý thức đạo đức mới của người học sinh.
Trong các Nghị quyết của Đảng, các tài liệu của ngành giáo dục - đào
tạo đều đã đề cập đến vai trò quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức, coi việc
giáo dục đạo đức là nhiệm vụ trung tâm của ngành, nhằm thực hiện mục tiêu
cao nhất là “dạy người”. Do đó giáo dục đạo đức là phải hướng con người tới
những giá trị đích thực của đời sống xã hội, làm cho họ nhận thức và thể hiện
được những chuẩn mực đạo đức xã hội qua những hành vi đạo đức của mình.
Có thể khái qt tầm quan trọng của giáo dục đạo đức mới đối với thanh niên,
học sinh THCN như sau:


23
* Thứ nhất, giáo dục đạo đức mới góp phần xây dựng nhân cách học
sinh THCN phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự
nghiệp CNH, HĐH, phát triển đất nước.
Khi bàn về vấn đề bản chất con người, C.Mác đã chỉ rõ: "Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội" [30, tr.11].
Như vậy C.Mác đã khẳng định: Các quan hệ xã hội tham gia vào sự
hình thành bản chất con người, cũng như vai trò của thực tiễn và hoạt động
thực tiễn đối với sự bộc lộ những sức mạnh bản chất con người. Con người là
thực thể sinh học - xã hội mang bản chất xã hội; sự phát triển của nhân cách
phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, phản ánh mức độ cá thể hố, tính
độc đáo trong mỗi cá nhân con người. Nhân cách con người được hiểu một
cách toàn diện gồm cả đức và tài, năng lực thể chất và năng lực tinh thần, đó
là sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội trong mỗi cá nhân con người

cụ thể, là thái độ ứng xử của con người trong mối quan hệ nhiều chiều với xã
hội hiện thực khách quan. Trong đó phẩm chất đạo đức được coi là một bộ
phận đặc biệt, là nét đặc trưng cơ bản của nhân cách, còn tài là các năng lực
thích ứng với xã hội của con người.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH địi
hỏi phải có con người với tư cách là nguồn nhân lực, động lực của sự nghiệp
CNH, HĐH phải là con người phát triển tồn diện: có tri thức khoa học, được
đào tạo về chun mơn nghiệp vụ, có năng lực sáng tạo trong tiếp thu và ứng
dụng những thành tựu KHCN hiện đại cùng với những phẩm chất đạo đức cần
thiết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa" [41, tr.310].
Nhân cách thanh niên, học sinh THCN được hình thành và phát triển
trong học tập, lao động và rèn luyện. Thông qua các hình thức hoạt động mà
học sinh nhận thức được mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.


×