Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Ths-triết học-Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh sinh viên các trường trung cấp, cao đẳng văn hóa nghệ thuật khu vực đồng bằng sông hồng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.32 KB, 98 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 20 năm qua
đã giành được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Tồn Đảng, tồn
dân ta đang phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại nhằm mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đạt được mục tiêu này, sự tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học cơng nghệ có vai trò hết sức quan trọng. Tuy
nhiên, sự tiến bộ về khoa học công nghệ, sự tăng trưởng của kinh tế khơng thể
tách khỏi sự tiến bộ về văn hóa - xã hội, sự phát triển con người. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc
biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát
huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức cội nguồn và lòng tự hào
dân tộc, khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các
giá trị nhân văn. Tiếp thu tinh hoa văn hóa các dân tộc trên thế giới, làm giàu
đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam [10, tr.11].
Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Đại hội IX, Đại hội
X của Đảng. Qua đó văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó địi hỏi mỗi người
Việt Nam, trong đó có học sinh - sinh viên cả nước nói chung và học sinh
-sinh viên các trường Văn hóa nghệ thuật nói riêng phải hiểu biết sâu sắc
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mình, tiếp tục phát huy những
giá trị đó trong đời sống xã hội hiện nay.


2
Trong hơn 20 năm đổi mới, kinh tế thị trường đã chứng tỏ những mặt
tích cực trong sự phát triển kinh tế xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất màu


mỡ nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã
hội đã và đang từng ngày từng giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Măt trái
của cơ chế thị trường đã tạo ra một bộ phận khơng nhỏ lớp người trong xã hội
nói chung, một bộ phận học sinh - sinh viên nói riêng có lối sống chạy theo
đồng tiền bằng mọi giá, quay lưng lại với văn hóa, truyền thống dân tộc.
Hơn nữa, các trường Văn hóa Nghệ thuật có đặc điểm riêng, là nơi ươm
mầm và nuôi trồng những tài năng nghệ thuật, sản phẩm của họ đem đến cho
công chúng những giá trị về mặt tinh thần, do đó những sản phẩm địi hỏi
mang giá trị cao, đặc biệt trong điều kiện hội nhập hiện nay yếu tố giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc càng phải được chú trọng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh giá:
“Có một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt
về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì
tương lai của bản thân và đất nước”.
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường đồng thời phải bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp dân tộc Việt Nam.
Với ý nghĩa đó vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp dân
tộc là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn chọn “Giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung cấp,
Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


3
Vấn đề đạo đức những năm gần đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
dưới góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu đã được

xuất bản như: “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong
điều kiện kinh tế thị trường” do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994;
“Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”
do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên, Nxb Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2003; “Giá trị cơ bản về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh”
do Trần Quang Nhiếp và Nguyễn Văn Sáu đồng chủ biên, Nxb Công An Nhân
Dân, Hà Nội, 2008; “Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam” do Trần Văn
Giàu chủ biên, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
Ngồi ra cịn có các tạp chí đề cập đến vấn đề đạo đức ở nhiều khía cạnh
khác nhau như: “Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá
trị đạo đức hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, tạp chí Triết học, 6-1996; “Giá
trị đạo đức và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” của Mai Xuân Lợi, Tạp
chí Triết học, số 3, 2001; “Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn
đề đạo đức?” của Hồng Trung, Tạp chí Triết học số 4, 2000; “Kế thừa tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”
của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; “Định hướng xã hội chủ nghĩa
về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay” của Đỗ
Huy, Tạp chí Triết học , số 5, 1998; “Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm
đạo đức trong điều kiện hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học,
số 6, 2000; “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh
niên trong điều kiện hiện nay” của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2,
2001; “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục” của Nguyễn Đình
Tường, Tạp chí Triết học số 6,2002; “Kết hợp chặt chẽ lý tưởng giáo dục lý
luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản lý” của


4
Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí lý luận chính trị, số 4, 2001; “Sự tác động hai
mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của Nguyễn

Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2-1997.
Vấn đề giáo dục đạo đức cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu
dưới dạng các luận án, luận văn như: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”,
Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sỹ Phán, 1999; “Vấn đề giáo dục đạo đức
cho thanh niên ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết
học của Tô Thị Nhung, 2006; “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học của Dỗn Thị
Chín, 2004; “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ
Triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000;
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã đề cập tới
đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta ở những
cấp độ khác nhau. Tuy nhiên những cơng trình này chưa đề cập một cách trực
tiếp đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh
viên các trường Trung cấp, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật khu vực đồng bằng
sơng Hồng hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích tầm quan trọng, thực trạng việc giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho hoc sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao
đẳng văn hóa nghệ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay, đề xuất một
số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Văn hóa Nghệ
thuật khu vực đồng bằng sông Hồng đáp ứng yêu cầu mới của đất nước.


5
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Trình bày những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, tầm quan trọng

và nội dung cơ bản của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích làm rõ một số thành tựu và vấn đề đặt ra trong việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung
cấp, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung
cấp, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: học sinh - sinh viên Văn hóa Nghệ thuật.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung
cấp, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật khu vực đồng bằng sơng Hồng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện luận văn tác giả dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống. Ngồi
ra tác giả có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các cơng trình nghiên cứu
đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và logic, phân


6
tích và tổng hợp, điều tra xã hội học… nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ
mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trị và tầm quan trọng của việc giáo

dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên trong giai
đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao đẳng
Văn hóa Nghệ thuật ở đồng bằng sông Hồng hiện nay, bước đầu đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc cho sinh viên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn “Đạo đức học” ở các trường Cao đẳng
và Đại học. Đồng thời nó cũng góp phần vào việc nhận thức rõ vai trò của
việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


7
Chương 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO HỌC SINH SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG TRUNG CẤP, CAO ĐẲNG VĂN HÓA
NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
CHO HỌC SINH - SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG TRUNG CẤP, CAO ĐẲNG VĂN
HÓA NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
Đạo đức học Mác xít cho rằng: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và

đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội.
Đạo đức hình thành và phát triển trong quá trình con người hoạt động,
lao động sản xuất, từ những quan hệ con người với con người trong đời sống
xã hội. Sự hình thành những phẩm chất đạo đức của con người gắn với tình
cảm gia đình với ý thức cộng đồng giai cấp, dân tộc và nhân loại. Trong tác
phẩm Chống Đuy Rinh, Ph.Ăngghen đã viết: “xét cho đến cùng, mọi học
thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh
tế của xã hội lúc bấy giờ” [35, tr.137].
Với tư cách là phương thức điều chỉnh hành vi con người và quan hệ
giữa cá nhân với xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức, chức năng giáo dục,
chức năng điều chỉnh hành vi. Mỗi chức năng có vai trị, vị trí nhất định đồng
thời có mối liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Trong đó, chức năng giáo dục
và chức năng điều chỉnh hành vi con người có vai trị và vị trí quan trọng.


8
Nhờ có chức năng này mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình đảm
bảo hài hịa quan hệ lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng
Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của con
người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm
bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại và phát triển.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, vì vậy nó khơng chỉ phản ánh tồn
tại xã hội mà cịn phản ánh cả những lợi ích, xu hướng, quan hệ nội tại chủ
quan của ý thức, những thiên hướng của bản thân con người với sự vật xung
quanh mình, với người khác và với cả xã hội, cơ sở của các mối quan hệ xã
hội là lợi ích.
Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Giá trị là đối tượng của giá trị học,
phân loại các hiện tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng nên một

cách truyền thống về các lĩnh vực của đời sống xã hội, các giá trị vật chất và
tinh thần, các giá trị sản xuất, tiêu dùng, các giá trị xã hội - chính trị, nhận
thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo. Đạo đức là một hiện tượng xã hội mang
tính chuẩn mực: Mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt.
Khái niệm “giá trị” nó được sử dụng trong các lĩnh vực như: Triết học,
Xã hội học, Tâm lý học, Đạo đức học, Kinh tế học…
Dưới góc độ kinh tế chính trị học, giá trị là giá trị của hàng hóa, nó là
một trong hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa, là lượng lao động xã hội kết
tinh trong hàng hóa đó. Do vậy những hàng hóa nào có lượng hao phí lao
động xã hội kết tinh càng lớn thì giá trị của nó càng cao và ngược lại. C.Mác
viết: “Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động được
nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra giá trị
cao hơn so với một Lao động giá trị trung bình cùng loại” [33, tr.104.105].


9
Trong Triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng của
ý thức, là biểu hiện thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà
người đó đang đánh giá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính
nhận thức được và thực tiễn của giá trị. Giá trị là những hiện tượng xã hội đặc
thù và mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của quần chúng.
Theo Giáo sư Vũ Khiêu:
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta quan niệm
giá trị là những thành tựu của con người góp vào sự phát triển đi lên
của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người.
Giá trị xuất hiện từ mối quan hệ xã hội giữa chủ thể và đối tượng,
nghĩa là từ thực tiễn và chiến đấu của con người xã hội. Giá trị vì thế
được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ
thực tiễn và được kiểm nghiệm qua thực tiễn [27, tr.10].

Trong cuốn Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát
triển có viết: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính
diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt,
cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và
vươn tới” [4, tr.16].
Trong từ điển Bách khoa tồn thư Xơ Viết định nghĩa:
Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối
tượng thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm
hoặc tồn xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi
bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút của
các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm
vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực
và các phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong


10
các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thể và
mục đích [55, tr.1462].
Theo tác giả Hồ Sỹ Quý:
Giá trị là thuật ngữ… dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa và xã hội
của các hiện tượng. Về thực chất, toàn bộ sự đa dạng của hoạt động
người, của các quan hệ xã hội, bao gồm cả những hiện tượng tự
nhiên có liên quan, có thể được thể hiện là các “giá trị khách quan”
với tính cách là khách thể của quan hệ giá trị, nghĩa là được đánh
giá trong khuôn thước của thiện và ác, chân lý và sai lầm, đẹp và
xấu…[49, tr.42].
Qua các quan niệm giá trị trên đây, có thể khái quát như sau:
Thứ nhất: Giá trị là ý nghĩa của những sự vật, hiện tượng vật chất hay
tinh thần có khả năng thỏa mãn những nhu cầu tích cực của con người và góp
phần vào thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Thứ hai: Giá trị khơng phải là một cái gì nhất thành bất biến mà nó ln
vận động biến đổi theo thời gian và không gian sao cho phù hợp từng thời
điểm nhất định. Vì vậy, khơng phải những cái gì đã có giá trị trong quá khứ
đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho thấy giá trị mang tính lịch
sử, tính khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị
nào đó khơng phụ thuộc vào ý thức của con người, mà nó phụ thuộc từng thời
đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba: Giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm và hành vi
của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự
lựa chọn, đánh giá của chủ thể.
Thứ tư: Giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người,
được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn
và được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Thực tiễn được coi vừa là tiêu chuẩn của


11
chân lý về bản chất khách thể, vừa là tiêu chuẩn của chân lý về giá trị mà
khách thể đó có được.
Thứ năm: Giá trị đóng vai trị hết sức quan trọng trong đời sống xã hội,
giá trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá trị
giúp con người định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình, là
động cơ thúc đẩy hoạt động của con người.
Có nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào mục đích giá trị phục vụ cho
nhu cầu con người, người ta có thể chia giá trị làm hai loại đó là:
- Giá trị vật chất: được thể hiện trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
- Giá trị tinh thần: là những phẩm chất đặc biệt về tình cảm, trí tuệ, ý
chí và nó được thể hiện trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,
phong tục tập quán ….Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống
tinh thần và chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt

cái đúng cái sai, cái xấu cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa
con người với con người, con người với xã hội .
Như vậy giá trị đạo đức là một yếu tố cấu thành của hệ thống các giá trị
tinh thần trong đời sống xã hội, được xác định là những chuẩn mực, những
khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa
hành vi của con người trên cơ sở tự nguyện và tự giác. Giá trị đạo đức “được
đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng
tình, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức vì thế, có ý nghĩa thiết yếu đối với
đời sống xã hội” [27, tr.51].
Về khái niệm truyền thống, có rất nhiều quan điểm khác nhau. Trong
cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa có đoạn
viết: “Từ đây, cái được gọi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ
phận thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống


12
chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta” [5,
tr.23].
Như vậy, truyền thống là một khái niệm chỉ phức hợp những tư tưởng,
tình cảm, tập qn, thói quen, phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí … của
một cộng đồng người được hình thành trong những điều kiện lịch sử nhất
định, và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thực tế từ góc độ lợi ích, từ những tác động của truyền thống tới xã hội,
có thể phân chia truyền thống thành hai loại:
Thứ nhất: Truyền thống đó là những giá trị tốt đẹp, được lưu truyền từ
đời này qua đời khác, nó đứng vững được trong thời gian và có thể đương đầu
với những biến động của lịch sử. Hơn nữa những giá trị ấy có khả năng tạo ra
sức mạnh cho dân tộc, sản sinh ra các giá trị mới, đem lại lợi ích cho con
người. Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu
của đời sống con người. Truyền thống nó góp phần duy trì bảo vệ và phát

triển cuộc sống của chúng ta. Sự thực truyền thống không tách rời giá trị.
Thứ hai: Bên cạnh những giá trị tốt đẹp cịn tồn tại truyền thống nhưng
khơng đem lại lợi ích cho con người, nhiều khi nó kìm hãm sự phát triển.
Trong tác phẩm Ngày Mười Tám Tháng Sương Mù của Lui Bônapáctơ, CMác
viết “Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu
óc những người đang sống”. Cịn theo Hồ Chí Minh trong bài “Đạo đức cách
mạng” (tháng 12/ 1958) cũng đã viết: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng
là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại khơng thể
trấn áp nó, mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài”.
Như vậy cho dù lịch sử đã có nhiều thay đổi nhưng các thế hệ đi sau vẫn
khơng thốt khỏi được sự ràng buộc bởi những nếp nghĩ, cách làm của các thế
hệ đi trước thậm chí lặp lại một cách máy móc, khơng sáng tạo. Đó chính là
mầm mống của tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cản trở sự phát triển xã hội. Truyền


13
thống được phân chia làm hai loại vừa có những giá trị tốt đẹp nhưng lại vừa
tồn tại những truyền thống khơng đem lại lợi ích cho con người. Do đó, chúng
ta phải phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống đó. Như vậy truyền
thống của mỗi dân tộc luôn cần được đổi mới, bổ sung và phát triển cho phù
hợp với điều kiện lịch sử mới.
Mỗi dân tộc thể hiện các giá trị đạo đức truyền thống khác nhau. Do vậy,
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc
được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy
tắc ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã
rèn luyện và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu
thương con người, cần cù, thơng minh, sáng tạo, chịu thương chịu khó…
Những đức tính đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, mà hàng ngàn đời nay ta vẫn nâng niu quý trọng, thể hiện trong các

chuẩn mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân
và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội… Xét trong tương quan với thế giới và
khu vực, đặc biệt là với các dân tộc phương đông, giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ta có những nét chung với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong
quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải giải quyết những vấn đề
chung như xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, ổn định và phát triển đời sống xã hội
Mặt khác sự giao lưu quốc tế diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay
mức độ khác, nhất là với các nước gần nhau đã ảnh hưởng đến nhau khá rõ
rệt. Cái khác nhau ở đây là trật tự sắp xếp các giá trị đạo đức, mối tương quan
giữa chúng và những sắc thái riêng hình thành trong điều kiện lịch sử đặc thù
của từng dân tộc qua suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó. Trong hệ giá trị
tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận
thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó. Chính vì


14
vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, là nói đến
những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã hình thành và bảo lưu trong suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta
được cô đức, được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo
những bước thăng trầm của lịch sử, nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to
lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp cho
dân tộc Viêt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng nước
và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đã tạo
nên một bản sắc hết sức độc đáo của nó.
1.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao đẳng Văn hóa
Nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Đặc điểm học sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao

đẳng Văn hóa Nghệ thuật
Thuật ngữ “học sinh - sinh viên” chỉ những người đang học tập ở các
trường Trung Cấp và Cao Đẳng. Nói đến học sinh - sinh viên là nói đến đội
ngũ trí thức trong tương lai, là lực lượng trẻ, có học thức, nhạy cảm với cái
mới, năng động và sáng tạo, ham học hỏi, là những chủ nhân tương lai của đất
nước, là tầng lớp xã hội được gia đình, nhà trường xã hội hết sức quan tâm,
chăm sóc. Trong sự phát triển đất nước, học sinh - sinh viên giữ một vị trí
quan trọng, sau khi rời ghế nhà trường họ có thể giữ những vai trò, những
trọng trách ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Đó là những đặc điểm
của học sinh - sinh viên nói chung.
Cịn đối với học sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao đẳng Văn
hóa Nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay cũng khơng nằm ngồi những đặc điểm
đó. Hiện nay, cả nước có 42 trường Văn hóa Nghệ thuật. Bên cạnh, những nét


15
chung của học sinh -sinh viên nói chung, học sinh -sinh viên Văn hóa Nghệ
thuật có những nét đặc thù do xuất phát từ đối tượng, nội dung của ngành học.
Thứ nhất: Học sinh -sinh viên các trường Trung cấp, Cao đẳng Văn hóa
Nghệ thuật trên cả nước họ là người góp phần bảo lưu truyền bá các loại hình
nghệ thuật truyền thống như: Thanh Nhạc, Oocgan, Nhạc cụ dân tộc, Diễn
viên chèo, Cải lương, kịch nói, cán bộ quản lý văn hóa… bảo lưu, giữ gìn,
truyền bá bản sắc dân tộc phát triển trong nước cũng như quốc tế. Đứng trước
điều kiện cơ chế thị trường hiện nay, các loại hình nghệ thuật truyền thống
đang bị mai một, bị thương mại hóa cùng với sự phát triển của kinh tế thị
trường. Do đó, nhiệm vụ của học sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao
đẳng Văn hóa Nghệ thuật phải biết bảo lưu truyền bá các loại hình nghệ thuật,
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc là hết sức cần thiết.
Tại hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu: “
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc” và đặc biệt gần đây, Bộ Chính Trị ban hành Chỉ thị về triển khai Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong
Đảng, xã hội, Nghị quyết về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới”. Những chủ trương, đường lối của Đảng có tầm quan
trọng đặc biệt, vừa giải quyết những vấn đề có tính cấp bách, trước mắt, vừa
có tính định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng và phát triển văn hóa ở
nước ta.
Thứ hai: Khơng chỉ có nhiệm vụ bảo lưu truyền bá các loại hình nghệ
thuật, truyền bá bản sắc dân tộc, học sinh - sinh viên các trường Trung cấp,
Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay cịn có nhiệm vụ sau khi
tốt nghiệp trở thành những giáo viên Nhạc - Họa giảng dạy trong các trường
Tiểu học, Trung học cơ sở (đối tượng dự tuyển đó là học sinh đã tốt nghiệp
Trung học phổ thông), yêu cầu về đạo đức của họ càng phải cao. Bởi vì, sau


16
khi tốt nghiệp họ trở thành những người thầy, người cô đứng trên bục giảng
truyền đạt kiến thức cho các em. Do đó, địi hỏi họ phải có phẩm chất đạo đức
tốt, hơn nữa sau này đối tượng mà họ tham gia giảng dạy là những em học
sinh còn rất nhỏ. Vì thế, người thầy, người cơ phải giỏi về chun mơn cũng
như mẫu mực về đạo đức thì học sinh mới nghe theo.
Thứ ba: Không như các chuyên ngành khác, học sinh - sinh viên sau khi
rời ghế nhà trường, các kiến thức mà họ lĩnh hội được phải được thể hiện trên
Sân Khấu, đem đến cho người xem những giá trị về mặt tinh thần. Các tác
phẩm mà họ thể hiện được phản ánh trên các mặt của đời sống thực tiễn,
mang tính chất giáo dục. Do đó, những tác phẩm đó nó phải mang giá trị đạo
đức, phải khơi dậy giá trị truyền thống đạo đức của dân tộc. Trong thời kỳ
chiến tranh thông qua các tác phẩm nghệ thuật như ngay trong nhà tù Sơn La,
với sự vận động giác ngộ của các chiến sỹ cộng sản, cụ Tú Khiêm, nhà soạn
chèo, chí sĩ yêu nước, một tù nhân chính trị đã tổ chức diễn chèo để biểu lộ

lịng u nước và khích lệ tinh thần yêu nước của các tù nhân chính trị. Trong
thời kỳ đổi mới hiện nay thông qua các tác phẩm nghệ thuật giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc làm cho họ thấy được cuộc sống dù có phát triển
đến đâu cũng không bao giờ quên các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc mà
ông cha ta đã mất bao công sức xây dựng nên. Nhưng trong những năm gần
đây, nhiều tác phẩm nghệ thuật được thể hiện đã bị “thương mại hóa” nó
khơng có giá trị, nhiều khi người xem xong không biết nội dung ở đây là gì
nữa, khơng gây được ấn tượng cho người xem. Khi xem xong, người xem
cảm thấy nhàm chán, cho nên dần dần khán giả đến với Sân Khấu ngày càng
ít đi. Hiện nay, đời sống của con người ngày càng cao, đời sống vật chất ngày
càng đầy đủ, người ta tìm đến những nhu cầu về tinh thần để thư giãn sau
những giờ lao động vất vả. Do đó những tác phẩm đó nó phải có giá trị, mang
đến cho người xem niềm vui, sự thoải mái.


17
Hiện nay xuất hiện nhiều quán ba, vũ trường…môi trường này đầy rẫy
những cám dỗ, nhiều học sinh đi làm thêm ở đó để kiếm sống, họ nhạy bén,
năng động trong việc tiếp nhận cái mới. Nhưng vì tuổi đời cịn nhỏ, kinh nghiệm
thực tế chưa có nhiều cho nên họ cịn có những hạn chế như: bồng bột, chủ quan,
dễ dao động. Do đó học sinh - sinh viên phải có một bản lĩnh vững vàng, có
phẩm chất đạo đức thì mới có thể vượt qua được những cám dỗ đó.
Thứ tư : Do đặc thù của Ngành học năng khiếu Nghệ thuật, các em cịn
nhỏ, có đối tượng vừa tốt nghiệp Trung học cơ sở là đã vào học chuyên
nghiệp, hơn nữa do đặc thù của Nghệ thuật việc tuyển chọn của nhà trường
không thể chỉ căn cứ vào kết quả học tập thi văn hóa mà chủ yếu là kết quả thi
năng khiếu. Vì vậy, khơng ít học sinh - sinh viên yếu về văn hóa cũng như yếu
về đạo đức nhưng có chút năng khiếu vẫn có thể vào được các trường nghệ
thuật. Khi các em cịn nhỏ, trình độ hiểu biết chưa sâu, nên dễ bị tác động của
những yếu tố tiêu cực bên ngoài. Vì thế, bên cạnh việc giảng dạy về tri thức

chuyên mơn nghề nghiệp cho học sinh - sinh viên cịn phải giáo dục đạo đức
cho học sinh - sinh viên biết sống như thế nào. Người giáo viên không chỉ là
người thầy, người cơ trên bục giảng, mà cịn như người cha, người mẹ, người
anh, người chị trong gia đình. Do đó, việc giáo dục cho học sinh - sinh viên
về chun mơn cũng như phẩm chất đạo đức địi hỏi người giáo viên phải
nhiệt tình, yêu nghề, tỉ mỉ và phải có sự kiên trì thì mới có thể thành công
được.
1.1.2.2. Sự cần thiết của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao đẳng Văn hóa
Nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước, nhằm xây dựng xã hội ta ngày càng giàu mạnh, tốt đẹp. Muốn


18
làm được điều đó, chúng ta cần phải có nguồn lực con người vững mạnh, đó
là con người phát triển tồn diện về mọi mặt trong đó đức là cái gốc, là cái
nền để sử dụng hữu ích tài năng của mình, để giúp mình, giúp mọi người,
giúp đất nước như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Người có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng, người có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng
khó”. Với chiến lược phát triển con người toàn diện trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, thế hệ trẻ Việt Nam cần phải được chú ý đầu tiên, đặc biệt
là đội ngũ sinh viên có vai trị rất quan trọng, họ là những chủ nhân tương lai
của đất nước. Do đó, việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
học sinh - sinh viên có một ý nghĩa quan trọng:
Thứ nhất: Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc góp phần củng
cố và phát huy giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam trong học sinh -sinh
viên đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ đất nước. Từ khi đất nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường thực tiễn cho thấy sức sản xuất được giải phóng,
năng suất lao động ngày một tăng, tạo tiền đề vật chất nâng cao đời sống cho

nhân dân kích thích tiềm năng sáng tạo của con người, hình thành nên các cá
nhân độc lập, phát triển tự chủ cá nhân, con người năng động hơn, kích thích
cá nhân vươn lên tự khẳng định mình. Trên cơ sở đó, tạo ra những điều kiện
để thực hiện quyền tự do bình đẳng giữa người với người, thực hiện công
bằng xã hội. Nền kinh tế thị trường cũng đem lại cái nhìn mới về quan hệ lợi
ích, nhất là lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân trong việc nhìn nhận, đánh giá, xây
dựng quan hệ đạo đức mới. Trong Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII đã nhận định về kinh tế thị trường như sau:
Về vấn đề này, Bộ Chính trị cho rằng: Từ ngày đổi mới tới nay, trong
nhiều nghị quyết của Trung ương, Đảng ta luôn nhận định thị trường là sản
phẩm của nhân loại, không chỉ riêng có của Chủ nghĩa Tư Bản, do đó Đảng
chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành


19
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong thực tiễn, phương hướng phát triển kinh tế đó đã mang lại
nhiều thành tựu về mặt văn hóa. Trong Dự thảo nghị quyết đã khẳng định “
những tác động tích cực to lớn” của nó [13, tr.29].
Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó tác động tiêu cực
đến đời sống đạo đức của xã hội. Như chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trường
đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, giá trị đạo đức vốn
được coi là truyền thống đạo đức của mỗi quốc gia nói riêng. Hiện tượng suy
đồi đạo đức đang trở thành mối quan tâm ở nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, việc giữ gìn và
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết, không phải ngẫu nhiên mà một số người cho rằng nền đạo đức ở nước
ta hiện nay đang có nguy cơ “trượt dốc”. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã
hội đã có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị truyền thống, chạy theo thị
hiếu không lành mạnh. Đáng chú ý là

Tệ sùng bái nước ngồi, coi thường những giá trị văn hóa dân
tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ… đang gây hại
đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Khơng ít trường hợp vì đồng
tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy
trị, đồng chí, đồng nghiệp. Bn lậu và tham nhũng phát triển. Ma
túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng [13, tr.46].
Một điều đáng buồn là tình trạng giáo dục trong gia đình bị bng lỏng
từ đó xuất hiện “bụi nhà”. Quan hệ con người - con người bị đồng tiền chi
phối, quan hệ trong gia đình cũng bị sức mạnh đồng tiền chi phối. Vì đồng
tiền mà con cái hành hung cha mẹ, anh em từ bỏ lẫn nhau..
Trong tình hình thế giới hiện nay, kẻ thù vẫn chưa từ bỏ âm mưu thơn
tính và phá hoại chúng ta. Với “diễn biến hịa bình”, kẻ thù tấn công chúng


20
ta chủ yếu trên các lĩnh vực văn hóa để làm xói mịn niềm tin của nhân dân
vào sự nghiệp của Đảng, làm băng hoại đạo đức lối sống của nhân dân. Đối
tượng trực tiếp của chúng ta là lớp trẻ dặc biệt là học sinh - sinh viên những người chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì vậy, họ trở thành
mục tiêu tấn công của các thế lực phản động đang cản trở con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kẻ thù dùng đủ mọi thủ đoạn hịng lơi
kéo học sinh - sinh viên xa rời cội nguồn, sống quay lưng lại với chế độ,
với nhân dân, với dân tộc, khuyến khích sinh viên tìm đến sự hưởng thụ mà
khơng thiết nghĩ đến tương lai.
Về phần mình, khơng ít học sinh - sinh viên chưa tự ý thức được vai
trị, vị trí của mình trong sự nghiệp cách mạng dân tộc. Họ sống ỷ lại vào Bố,
Mẹ, không chịu phấn đấu rèn luyện. Trong học tập cịn có những hiện tượng
thiếu trung thực như chạy điểm, chạy bằng, thờ ơ với các sinh hoạt tập thể. Vì
ngại khó, ngại khổ nên có tính tốn thực dụng trong việc chọn ngành nghề.
Một số thích lối hưởng thụ đua địi, ăn chơi, sống bng thả dẫn đến vi phạm
pháp luật và các chuẩn mực xã hội. Những hiện tượng trên là những hiện

tượng đảo lộn, đi ngược đạo đức truyền thống dân tộc, làm hoen ố những giá
trị đạo đức truyền thống mà ông cha ta đã đổ biết bao nhiêu mồ hơi, nước
mắt, thậm chí cả xương máu để xây dựng nên.
Chính vì vậy, bên cạnh việc dạy chữ thành tài thì việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho học sinh - sinh viên Văn hóa Nghệ thuật hiện nay là
một việc làm cần thiết và hết sức cấp bách. Có như vậy mới góp phần cho
chúng ta giữ vững được định hướng XHCN, bảo tồn được bản sắc văn hóa và
các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta. Mặt khác, giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên các trường Trung cấp, Cao
đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam hiện nay cũng là một đảm bảo cho thành


21
cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hướng tới mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh được thể hiện:
Thứ hai: Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh sinh viên các trường Trung cấp, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật ở Việt Nam
hiện nay góp phần hồn thiện nhân cách học sinh - sinh viên đáp ứng yêu cầu
về chất lượng đào tạo học sinh - sinh viên.
Như chúng ta đã biết nhân cách khơng phải là cái gì vốn có. Nhân cách
cũng khơng phải là q trình tự bộc lộ dần các thuộc tính và bản năng nguyên
thủy mà một lúc nào đó nó đã bị kiềm chế, chèn ép. Nhân cách chỉ được hình
thành và phát triển trong quá trình hoạt động giao tiếp…của con người trong
đó giáo dục giữ vai trị chủ đạo. Giáo dục có tác dụng hết sức to lớn đối với
sự hình thành phát triển nhân cách. Nếu khơng có giáo dục, người ta khó có
một nền văn hóa, văn minh nhân loại. Khơng có giáo dục thì hệ thống giá trị
chung của lồi người cũng như hệ thống giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
sẽ không được bảo tồn và phát triển. Những giá trị đạo đức truyền thống đã
tạo nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Chúng là nhân tố quan trọng định hướng
tư tưởng tình cảm, hoạt động con người Việt Nam trong suốt quá trình phát
triển của mình. Hiện nay, kinh tế thị trường như một luồng gió mới ảnh hưởng

khơng ít đến quan điểm sống, đến định hướng giá trị mọi người. Để tồn tại và
phát triển nền kinh tế địi hỏi tính chủ động, tích cực của mỗi người. Tuy
nhiên, nó cũng tồn tại mặt trái của nó nhiều khi người ta quá chú trọng đến
bản thân không quan tâm đến người khác, làm giàu bằng mọi giá, bất chấp
đạo lý… đi ngược với giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đã làm cho nhiều
người bị “choáng ngợp”. Trước tình hình đó có quan niệm cho rằng giá trị
đạo đức truyền thống khơng cịn giá trị trong sự phát triển xã hội hiện nay, lại
có quan niệm cho rằng để khắc phục tình trạng gia tăng các hiện tượng không
lành mạnh chúng ta cần phải trở về sử dụng các giá trị đạo đức truyền thống


22
Trước kia các giá trị đạo đức truyền thống có vai trị khơng nhỏ trong
tiến trình xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam nói chung và
học sinh - sinh viên nói riêng thì ngày nay chúng sẽ vẫn có tác dụng. Bởi vì,
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống có tác dụng nâng cao trình độ nhận thức
cho học sinh - sinh viên, giúp học sinh - sinh viên hiểu rõ các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, góp phần khắc phục những hiện tượng phi đạo đức.
Hơn nữa, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc góp phần tích cực
trong việc truyền lại cho thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức mà
thế hệ trước đã tạo ra. Trên cơ sở đó giúp cho học sinh - sinh viên thấy được
giá trị và ý nghĩa của các giá trị đó trong cuộc sống. Mục đích của giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống không chỉ làm cho học sinh - sinh viên nhận thức
đúng mà cịn nhằm hình thành thái độ, niềm tin, tình cảm đạo đức cho mọi
người. Từ đó, có tác dụng hướng dẫn hành vi con người làm sao để đạt được
giá trị cao nhất. Khi mỗi con người, mỗi học sinh - sinh viên có những phẩm
chất đạo đức trong sáng, phẩm chất ý chí cao, cung cách ứng xử đúng mực thì
đó sẽ là cơ sở, là điều kiện phát triển tài năng. Một người có lịng u nước
thiết tha, có tinh thần tự hào dân tộc, có lý tưởng ước mơ và hoài bão lớn lao,
họ sẽ cần cù trong học tập, nghiên cứu khoa học, hăng hái trong lao động,

nhiệt tình trong cơng tác có nhiều đóng góp cho q hương đất nước
Thực tế cho thấy, mặc dù có sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, cũng như tàn dư của xã hội cũ, các giá trị đạo đức truyền thống cao
đẹp của cha ông ta vẫn được các thế hệ học sinh - sinh viên giữ gìn và phát
huy. Trong Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII cũng đã khẳng định nguyên tắc của việc phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống: “Chúng ta tiếp thu tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn
coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không tự đánh mất
mình, trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác”. Và, do vậy,cần


23
phải “đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc” [13, tr.30].
Như vậy, có thể nói sự biến đổi trên tất cả các mặt của đời sống xã hội
đều do con người thực hiện và đều nhằm mục tiêu phát triển con người. Do
đó, phát huy năng lực sáng tạo của học sinh - sinh viên, khơi dậy tiềm năng trí
tuệ to lớn của họ có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với tương lai của dân tộc. Để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tạo điều
kiện cho học sinh - sinh viên phát huy hết tài năng sẵn có của mình, nâng cao
nhận thức của họ, chuyển các quan điểm từ tự phát thành tự giác, từ thụ động
sang chủ động, từ trình độ nhận thức thơng thường lên trình độ nhận thức khoa
học nhưng mặt khác phải tăng cường hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc vì sự phồn vinh của
tổ quốc và hạnh phúc của bản thân. Giáo dục cho học sinh - sinh viên lịng u
nước, u CNXH có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư duy sáng tạo, có năng
lực, có ý chí học tập, rèn luyện để xây dựng đất nước đến hưng thịnh, phú
cường.
Đảng ta luôn xác định sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng CNXH có
thành cơng hay khơng một phần phụ thuộc vào thế hệ trẻ trong đó có học sinh

- sinh viên. Do đó, học sinh - sinh viên là nguồn tài năng sáng tạo, là nguồn
lao động có học vấn và chuyên môn sâu ngày càng được xã hội quan tâm và
coi trọng.
Trong điều kiện hiện nay, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế xã hội. Do đó, nếu tầng lớp thanh niên nói chung,
học sinh - sinh viên nói riêng được giáo dục tốt thì sẽ đáp ứng được yêu cầu
phát triển của đất nước. Sinh viên hiện nay, nhìn chung có trình độ học vấn
cao, hiểu biết rộng, nhiều tài năng trẻ xuất hiện trong hàng ngũ sinh viên, điều
kiện kinh tế - xã hội lại có nhiều thuận lợi tạo cho học sinh-sinh viên có nhiều


24
cơ hội để phát triển, họ có thể nắm bắt những cái mới, tiếp thu trình độ khoa
học kỹ thuật tiến tiến có khả năng hội nhập cao. Đây sẽ là nguồn nhân lực có
trình độ cao phục vụ cho đất nước.
Cùng với việc khuyến khích sự tiếp nhận những tác động tích cực từ
bên ngồi, chúng ta phải giúp cho học sinh - sinh viên hạn chế những ảnh
hưởng tiêu cực và những hiện tượng lệch lạc trong định hướng các giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc như: bệnh sùng ngoại, bài xích nội, phủ nhận những
truyền thống vốn có tốt đẹp của dân tộc. Từ đó, dẫn đến xem thường giá trị
dân tộc, xem thường lợi ích người khác, lợi ích cộng đồng. Chính vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người”. Theo Bác, trong giáo dục phải chú ý đào tạo
thế hệ trẻ thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”. “Hồng” là biết sống
vì người khác, vì tương lai của gia đình và đất nước, vì lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa. “Chun” là trình độ chun mơn giỏi. Nắm vững được những tri thức
khoa học tiên tiến. Có nghĩa là tài phải đi đôi với đức. Ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường, chúng ta phải giáo dục cho học sinh - sinh viên hiểu rõ
hơn, sau khi ra trường dù ở lĩnh vực nào cũng phải có đạo đức, nếu khơng có
đạo đức mà chỉ có tài khơng thì sẽ khó thành cơng, có đức mà khơng có tài thì

khơng có đủ năng lực để điều hành cơng việc, có tài mà khơng có đức dẫn tới
hỏng việc có hại cho đất nước cho nhân dân. Trong cơ chế thị trường hiện nay
rất cần có đạo đức, chữ tâm, chữ tín được đề cao, “làm giàu chính đáng”, “
Cạnh tranh lành mạnh”…Có như vậy, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc cho học sinh - sinh viên mới góp phần hồn thiện nhân cách của họ đáp
ứng được yêu cầu về chất lượng đào tạo học sinh - sinh viên. Để sau này học
sinh - sinh viên ra trường có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước.


25
Thứ ba: giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh
viên các Trường Trung cấp, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật ở Việt Nam hiện
nay góp phần xây dựng nền Văn hóa mới, con người mới ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay vấn đề giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho học sinh - sinh viên cả nước nói chung và học
sinh - sinh viên các trường Văn hóa - Nghệ thuật nói riêng có ý nghĩa vơ cùng to
lớn góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới ở Việt Nam. Sự phát
triển của xã hội khơng chỉ có đời sống vật chất mà cịn có cả đời sống tinh thần
đó là hai mặt khơng tách rời gắn bó hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển. Bên
cạnh sự phát triển kinh tế, sự phát triển văn hóa cũng đóng vai trị quyết định
trong sự phát triển trường tồn của mỗi quốc gia. Hơn nữa, từ trong bản chất văn
hóa đã mang tính nhân văn chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng đồng
sáng tạo, lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn hóa, các
truyền thống này được chuyển tải vào các lĩnh vực đạo đức, pháp luật…tạo
thành môi trường nuôi dưỡng đời sống tinh thần của mỗi cá nhân và cả cộng
đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hóa cịn đóng vai trị quan trọng trong việc
điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt mặt
trái của kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần của xã
hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.

Nền văn hóa tiên tiến nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và CNXH theo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú tự do toàn diện của con người
trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự
nhiên.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững: đó là lịng u nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã tổ quốc, lịng nhân ái, khoan dung, đức tính
cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối


×