Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Ths luật học thực hiện pháp luật về quốc tịch ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.81 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUỐC TỊCH VIỆT NAM

7

1.1.

Khái niệm, đặc điểm và các hình thức thực hiện pháp luật về

1.2.
1.3.

quốc tịch Việt Nam
Nội dung và vai trò của thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp

7
19

luật về quốc tịch Việt Nam

23

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỐC TỊCH
VIỆT NAM



2.1.

Khái quát các quy định của pháp luật về quốc tịch Việt Nam

2.2.

từ năm 1945 đến nay
Thực trạng thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam

34
34
60

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUỐC TỊCH VIỆT NAM

72

3.1.

Các quan điểm về đảm bảo thực hiện pháp luật về quốc tịch
72

3.2.

Việt Nam
Một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về quốc tịch
Việt Nam


75

KẾT LUẬN
CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ

83

CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85
86


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

:

Áp dụng pháp luật

THPL

:

Thực hiện pháp luật

UBND


:

Uỷ ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn
bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ
pháp lý duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền đã khẳng định: “Ai cũng có quyền có quốc tịch. Khơng ai
có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc
đốn”. Có thể nói, quyền có quốc tịch là kim chỉ nam xuyên suốt và là cơ sở
đầu tiên cho việc thực thi các quyền công dân khác.
Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của
công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam.
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch, ngay từ
khi ra đời, Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm tới vấn đề quốc tịch. Ngày 20
tháng 10 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL
quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh này có ý

nghĩa chính trị to lớn, là bước chuẩn bị quan trọng cho cuộc Tổng tuyển cử
bầu Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm
1980 tại Điều 53 quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định”. Lần đầu tiên, vấn đề
quốc tịch của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp - văn bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của Luật Quốc tịch
Việt Nam năm 1988, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và tiếp theo là Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã điều
chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc tịch Việt


2
Nam, nhiều quy định của pháp Luật Quốc tịch đã thực sự đi vào cuộc sống,
phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc
tịch Việt Nam, quyết định việc cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt
Nam, thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với cơng dân Việt
Nam ở nước ngồi, đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính
sách đại đồn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những quan
điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề người Việt Nam ở nước
ngoài đã xác định nhiệm vụ "Giải quyết nhanh chóng, thỏa đáng yêu cầu của
người Việt Nam ở nước ngoài liên quan đến vấn đề quốc tịch". Các chế định
về thực hiện pháp luật quốc đã ngày càng được hoàn thiện phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội từng thời kỳ, nhất là trong xu hướng hội nhập,
tồn cầu hóa hiện nay. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng do có sự tác động của
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên việc thực hiện pháp luật về quốc
tịch Việt Nam trong thời gian qua cũng cịn có những vướng mắc, bất cập. Cụ
thể như:
- Về thực hiện nguyên tắc quốc tịch: các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành khơng có quy định cơng dân Việt Nam nếu nhập quốc tịch nước
ngồi thì đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam, do đó trên thực tế nguyên tắc

một quốc tịch dẫn đến những hệ quả là công dân Việt Nam muốn nhập quốc
tịch nước sở tại (Cộng hòa liên bang Đức, Trung Quốc) thì họ phải làm thủ tục
thơi quốc tịch Việt Nam; hoặc có hai quốc tịch khi nước mà công dân Việt Nam
nhập quốc tịch không quy định nguyên tắc một quốc tịch (Pháp, Hoa Kỳ);
- Do sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước
trong việc áp dụng nguyên tắc xác định quốc tịch theo huyết thống và theo nơi
sinh nên dẫn tới tình trạng hai quốc tịch của trẻ em.
- Trên thực tế thì khơng phải trường hợp nào, lúc nào người dân cũng
quan tâm đến cả hai quốc tịch của mình như nhau. Thơng thường, khi người
dân ở nước ngồi thì họ chủ yếu chỉ quan tâm đến quốc tịch nước sở tại của


3
mình, chỉ khi nào có việc hoặc lợi ích liên quan ở Việt Nam như: hồi hương,
đầu tư vào Việt Nam v.v. thì mới quan tâm đến quốc tịch Việt Nam của mình.
Chính vì tình trạng hai quốc tịch này đã dẫn tới những tranh chấp liên quan đến
việc bảo hộ công dân giữa Việt Nam và các nước, trong đó đặc biệt là vấn đề
ADPL dân sự (khi có tranh chấp) hoặc pháp luật hình sự khi cơng dân Việt
Nam (có hai quốc tịch) vi phạm pháp luật Việt Nam.... Điều này dẫn đến
những khó khăn nhất định cho các cơ quan Nhà nước Việt Nam khi giải quyết
các vấn đề hành chính, giao dịch dân sự, kinh tế v.v. liên quan đến những
người mang hai quốc tịch.
- Việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch theo Luật Quốc tịch Việt
Nam hiện hành cũng làm phát sinh những vướng mắc trong giải quyết việc
nhập quốc tịch đối với những người định cư ở trong nước. Bởi vì, theo
nguyên tắc này thì những người muốn nhập quốc tịch Việt Nam phải thơi
quốc tịch nước ngồi. Trong thực tế giải quyết việc cơng dân nước ngồi cư
trú lâu năm trên lãnh thổ Việt Nam xin nhập quốc tịch Việt Nam thì việc họ
xin cấp Giấy chứng nhận thôi quốc tịch nước họ là rất khó khăn và hầu hết là
khơng xin được. Trong khi đó nếu chúng ta thực hiện đúng ngun tắc một

quốc tịch triệt để thì khơng bao giờ giải quyết được nguyện vọng nhập quốc
tịch Việt Nam của số cư dân này.
Nguyên nhân của những tồn tại cơ bản nêu trên là do việc thực hiện
pháp luật về quốc tịch đã bị tác động bởi nhiều yếu tố như thể chế, xung đột
pháp luật giữa các quốc gia, năng lực cán bộ tư pháp - quốc tịch, ý thức pháp
luật của người dân, do tác động của phong tục tập quán...
Thực trạng và nguyên nhân trên đòi hỏi phải có những phương hướng và
giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả của pháp Luật Quốc tịch Việt Nam,
đảm bảo thực hiện chủ trương chính sách đại đồn kết dân tộc, hội nhập quốc tế
về pháp luật và tư pháp của Nhà nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Thực
hiện pháp luật về quốc tịch ở Việt Nam” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận


4
và thực tiễn, góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về quốc tịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tề về pháp luật và tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, việc thực hiện pháp
luật là một nội dung quan trọng của lý luận chung nhà nước và pháp luật, là
biện pháp cơ bản để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố trật tự
pháp luật. Vấn đề thực hiện pháp luật đã được đặt ra như một nhiệm vụ cấp
bách của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi cơng dân. Một số
cơng trình nghiên cứu liên quan đến việc thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt
Nam đã được công bố như:
- "Sự phát triển của Luật Quốc tịch Việt Nam" của tác giả Trần Xuân
Dũng (Luận văn cử nhân luật, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2002);
- "Áp dụng Luật Quốc tịch Việt Nam đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Thực trạng và giải pháp" của tác giả Nguyễn Việt Thuận (Luận
văn thạc sĩ luật học);

- "Quốc tịch - nhìn từ góc độ so sánh" của tác giả Hồng Ly Anh (Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2001);
- "So sánh các đạo Luật Quốc tịch của một số nước Đông Nam Á" - đề
tài nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
Nhìn chung, các cơng trình khoa học trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quốc tịch với nghĩa là một chế định quan
trọng trong công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu toàn diện, đầy đủ về thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam; đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật về quốc tịch Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng


5
cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam
như xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm, nội dung, vai trị và các hình thức
thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp Luật Quốc tịch về quốc
tịch Việt Nam, trong đó đánh giá những thành tựu, những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập;
- Xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về quốc tịch Việt Nam trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu thực hiện
pháp luật về quốc tịch Việt Nam; thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của
thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn
dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật; nghiên cứu hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam từ
năm 2001 đến năm 2010 tại một số địa phương chọn điểm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về thực hiện
pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận
dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin theo quan


6
điểm phát triển, toàn diện, lịch sử, cụ thể; kết hợp các phương pháp như: logic,
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu cơ bản, tồn diện, có hệ thống về cơ
sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam, vì vậy,
những nội dung sau có thể xem là đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Đưa ra khái niệm thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam; chỉ ra
được các đặc điểm của thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam;
- Chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng thực
hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về quốc
tịch Việt Nam trong thời gian tới.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực
hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam; nâng cao nhận thức của công dân và
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước liên quan đến thực hiện pháp luật về
quốc tịch Việt Nam.
- Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung lý luận về
thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam nhằm thống nhất nhận thức về bản
chất, nội dung pháp luật về quốc tịch Việt Nam cũng như thực hiện pháp luật
về quốc tịch Việt Nam và làm phong phú thêm lý luận về Nhà nước và pháp
luật. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo đối với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc giải quyết các vấn đề về quốc tịch Việt Nam, các cơ
quan liên quan trong việc nghiên cứu, phối hợp, chỉ đạo trong quá trình thực
hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUỐC TỊCH VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUỐC TỊCH VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quốc tịch
1.1.1.1. Khái niệm quốc tịch
Quốc tịch là một khái niệm ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong
kiến lên chủ nghĩa tư bản. Khái niệm này xuất hiện cùng với tư tưởng tiến bộ
của cách mạng tư sản. Thơng thường, người nào cũng có một tổ quốc và từ

khi sinh ra đều mang một quốc tịch nhất định vì quốc tịch khơng chỉ là vấn đề
tình cảm và tâm lý mà còn là cơ sở xác định địa vị pháp lý và mối liên hệ giữa
cá nhân đó với nhà nước. Trong các xã hội khác nhau, thời kỳ lịch sử khác
nhau, cơng dân sẽ có địa vị pháp lý khác nhau. Địa vị pháp lý của công dân
được củng cố và hoàn thiện qua từng giai đoạn phát triển của xã hội, do đó
tùy thuộc vào từng giai đoạn lịch sử nhất định thì khái niệm về quốc tịch,
pháp luật về quốc tịch cũng có những thay đổi phù hợp.
Theo từ điển Oxford của Anh: “Quốc tịch là sự quy thuộc của một
người vào một quốc gia nào đó”.
Theo từ điển Bách khoa Luật của Liên Xơ cũ thì “Quốc tịch là sự quy
thuộc về mặt pháp lý và chính trị của một cá nhân vào một Nhà nước thể hiện
mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và cá nhân. Nhà nước quy định các
quyền cho cá nhân là cơng dân của mình, bảo vệ và bảo hộ cơng dân đó ở
nước ngồi. Về phần mình, công dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước
và hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước”.
Như vậy, trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, quốc tịch là một
chế định pháp lý bao gồm các quy định điều chỉnh hình thức và nội dung mối


8
quan hệ pháp luật được thiết lập giữa cá nhân với một Nhà nước, từ đó làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Quốc tịch là
căn cứ duy nhất xác định công dân của một Nhà nước, là “sự quy thuộc của
một người vào một quốc gia nào đó”. Mỗi quốc gia có chế định pháp lý khác
nhau về quốc tịch, do vậy, pháp luật về quốc tịch của mỗi nước cũng có quy
định khác nhau về nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch của mỗi
công dân phù hợp với những đặc thù riêng. Tuy nhiên, với ý nghĩa là căn cứ
xác định tư cách công dân của một nhà nước có thể cho rằng việc có quốc tịch
cịn là một quyền của cơng dân, quyền có quốc tịch là kim chỉ nam xuyên suốt
và là cơ sở đầu tiên cho việc thực thi các quyền công dân khác. Bởi vậy,

Tuyên ngôn nhân quyền 1948 đã khẳng định “Ai cũng có quyền có quốc tịch.
Khơng ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách
độc đoán”.
Sự quy thuộc về mặt pháp lý trong vấn đề quốc tịch đồng nghĩa với
việc một công dân nhận được các quyền lợi mà nhà nước này đảm bảo,
đồng thời xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước đó đối với việc bảo
vệ quyền lợi cho cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng dân cư của quốc
gia mà họ là công dân cũng như trong mối quan hệ quốc tế mà người đó
tham gia nhân danh chính cá nhân họ. Yếu tố quan trọng góp phần cấu tạo
nên quốc gia là cư dân sống trên lãnh thổ quốc gia và việc tổ chức Nhà
nước có mối quan hệ qua lại với cư dân đó, đồng thời mỗi quốc gia có
những tập hợp dân cư khác nhau và có mối quan hệ khác nhau với Nhà
nước đã tạo thành mối quan hệ mà khoa học pháp lý gọi là quốc tịch. Tùy
thuộc vào thể chế chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi nước
mà pháp Luật Quốc tịch của mỗi nước có những nội dung khác nhau trong
đó có sự thừa nhận sự bình đẳng của các cá nhân với nhau trong mọi lĩnh
vực đời sống đảm bảo thực hiện nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật phù hợp với pháp luật quốc tế.


9
Như vậy, quốc tịch là một khái niệm, một phạm trù chính trị - pháp lý
xác định một mối quan hệ giữa cá nhân một con người với một Nhà nước nhất
định. Quan hệ này cho phép xác định con người nào đó là cơng dân của một
nước cụ thể. Mỗi quốc gia có một chế độ pháp lý khác nhau về quốc tịch và
được thể hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công dân đối với quốc gia
mà họ mang quốc tịch và tổng thể quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với
công dân của mình. Để tạo cơ sở cho việc xác định các quyền và nghĩa vụ của
công dân, pháp Luật Quốc tịch của mỗi nước đều có những quy định cụ thể về
nguyên tắc xác định quốc tịch (nguyên tắc một quốc tịch, nguyên tắc hai hay

nhiều quốc tịch); căn cứ xác định quốc tịch; nhập quốc tịch; thôi quốc tịch;
mất quốc tịch; trở lại quốc tịch; tước quốc tịch; thẩm quyền giải quyết các vấn
đề về quốc tịch; xử lý xung đột quốc tịch.
Từ những phân tích nêu trên có thể khái niệm: Quốc tịch là một phạm
trù chính trị - pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và
pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ pháp lý duy nhất xác định công
dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua
lại giữa Nhà nước và công dân.
1.1.1.2. Khái niệm pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã
giải thích một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những
mối quan hệ của nó với các hiện trạng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp luật
chỉ tồn tại phát sinh trong xã hội có giai cấp; nhờ nắm trong tay quyền của lực
nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai
cấp mình và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước trong các văn bản pháp
luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Trong xã hội có giai cấp
tồn tại nhiều loại quy phạm khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật
thống nhất chung cho toàn xã hội. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do


10
Nhà nước ban hành và bảo đảm thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã
hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với mục đích xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân và vì dân, do đó pháp luật thể
hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động. Pháp luật
XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động, dưới sự lãnh của Đảng, do Nhà nước ban hành và bản đảm
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước trên cơ sở giáo dục, thuyết
phục mọi người tôn trọng thực hiện.

Liên quan đến vấn đề quốc tịch, pháp luật về quốc tịch có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của cá nhân
trong quan hệ với Nhà nước mà cá nhân mang quốc tịch. Nghiên cứu lịch
sử hình thành và phát triển của pháp luật về quốc tịch Việt Nam, có thể
thấy rằng pháp luật về quốc tịch đã có những bước hồn thiện trong từng
giai đoạn nhất định. Hệ thống văn bản pháp luật về quốc tịch hiện hành đã
tạo cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ về quốc tịch giữa Nhà nước với
cơng dân Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngồi và người nước ngoài cư
trú trên lãnh thổ Việt Nam.
Để điều chỉnh các quan hệ về quốc tịch nêu trên, Nhà nước phải ban
hành các quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập và thực hiện
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; việc nhập, trở lại, thôi quốc tịch
Việt Nam, mất quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, huỷ bỏ quyết
định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam,
Giấy xác nhận có nguồn gốc Việt Nam, lệ phí quốc tịch, xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quốc tịch…Những quy phạm pháp luật này gọi là quy
phạm pháp luật về quốc tịch, tổng hợp các quy phạm pháp luật nói trên tạo
thành pháp luật về quốc tịch Việt Nam.


11
Từ những phân tích nêu trên có thể khái niệm: Pháp luật về quốc tịch
Việt Nam là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh quyền, nghĩa vụ của
công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với cơng dân Việt Nam, bao gồm
các quy định về quyền đối với quốc tịch; nguyên tắc quốc tịch;quan hệ giữa
Nhà nước và cơng dân; có quốc tịch Việt Nam; nhập quốc tịch Việt Nam; trở
lại quốc tịch Việt Nam; mất quốc tịch Việt Nam; thôi quốc tịch Việt Nam; tước
quốc tịch Việt Nam; hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam; thay đổi

quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi; trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước về quốc tịch.
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân; pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, củng cố và
phát triển các quan hệ xã hội theo những định hướng phù hợp và điều này chỉ
có thể đạt được khi những mệnh lệnh, chỉ dẫn các quan hệ pháp luật được
thực hiện trong đời sống xã hội, thể hiện bằng hành vi thực tế, hợp pháp của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Pháp luật là một công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, song pháp luật chỉ
có thể phát huy được vai trị và giá trị trong việc duy trì trật tự và tạo điều
kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống.
Trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam, yêu cầu về thực thi pháp luật đã được
ghi nhận trong Hiến pháp: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế XHCN”, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi
phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động vi phạm lợi ích của Nhà nước,


12
quyền và lợi hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Chính vì vậy, thực hiện pháp luật là đòi hỏi khách quan của quản lý Nhà
nước, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Về thực hiện pháp luật, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Có
quan điểm cho rằng: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ
thể pháp luật” [33, tr. 349]. Cũng có quan điểm cho rằng: “Thực hiện pháp luật
là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định của pháp luật,
làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp

của các chủ thể pháp luật” [34, tr.463].
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh nay là Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì thực hiện pháp luật được hiểu là “q
trình hoạt động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành
hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các
chủ thể pháp luật” [40, tr.356]. Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật của Học viện Hành chính Quốc gia “Thực hiện pháp luật là hoạt
động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động
thực tế của các chủ thể pháp luật”.
Như vậy, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về
những nội dung cơ bản của thực hiện pháp luật, đó là: thực hiện pháp luật là
hoạt động có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực
hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm
cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Cho
dù thực hiện pháp luật được thực hiện dưới các hình thức khác nhau nhưng
cuối cùng nó đều là những hoạt động có mục đích, có định hướng để đưa các


13
quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Với cách tiếp cận này, chúng tơi đồng tình
với khái niệm: “Thực hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra
cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật" [40, tr.270]
Trên cơ sở khái niệm thực hiện pháp luật nêu trên, có thể đi tới khái
niệm thực hiện pháp luật về quốc tịch như sau: Thực hiện pháp luật về quốc
tịch là q trình hoạt động có mục đích, có chủ định của các chủ thể trong
việc xác lập quan hệ về quốc tịch, nhằm làm cho các quy phạm pháp luật về
quốc tịch đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hoạt động thực tế của
các chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật về quốc tịch, với mục

đích đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi xác lập quan hệ
về quốc tịch.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam
1.1.2.1. Thực hiện pháp luật về quốc tịch nhằm tạo lập, củng cố
quan hệ giữa Nhà nước và công dân Việt Nam, tạo cơ sở cho việc xác lập,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam
Nhằm tạo lập, điều chỉnh các quan hệ về quốc tịch, Nhà nước (pháp
nhân đặc biệt) ban hành các văn bản pháp luật có quy phạm điều chỉnh các
quan hệ về quốc tịch như: quyền đối với quốc tịch của mỗi công dân Việt
Nam, đối với cơng dân Việt Nam ở nước ngồi được Nhà nước bảo hộ quyền
lợi chính đáng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xin nhập, xin trở lại và xin thôi
quốc tịch Việt Nam, đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Đồng thời quy định
những chế tài xử lý đối với những trường hợp vi phạm pháp luật về quốc tịch
tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính. Ví dụ
như: theo quy định của Bộ luật Dân sự thì “Cá nhân có quyền có quốc tịch.
Việc công nhận, thay đổi, nhập quốc tịch, trở lại quốc tịch, thôi quốc tịch Việt
Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về quốc tịch” [57, tr.73];


14
hoặc như theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì ngồi việc
Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định mỗi cá nhân đều có
quyền có quốc tịch thì cịn quy định về vấn đề xác định quốc tịch, giấy tờ
chứng minh quốc tịch Việt Nam, thay đổi quốc tịch, trình tự, thủ tục, hồ sơ
xin nhập, xin trở lại, xin thôi, đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, quy định trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước về quốc tịch....
Về phía các chủ thể là cá nhân, việc xin nhập, xin trở lại, xin thôi và xin
đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam của một cá nhân trước cơ quan có thẩm
quyền làm phát sinh quan hệ pháp luật về quốc tịch. Từ quan hệ về quốc tịch
được xác lập đã làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cá nhân với Nhà nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định việc xác lập
các quan hệ về quốc tịch khơng làm chấm dứt hồn tồn các quan hệ pháp lý
giữa cá nhân với Nhà nước mà trong những trường hợp nhất định, cá nhân
còn được hưởng những ưu đãi theo quy định pháp luật (Ví dụ như chính sách
về mua nhà ở đối với người gốc Việt Nam, chính sách đối với người Việt Nam
định cư ở nước ngồi…).
1.1.2.2. Thực hiện pháp luật về quốc tịch góp phần đảm bảo quyền
có quốc tịch của cá nhân và tôn trọng quyền của cá nhân đối với quốc tịch
Quyền có quốc tịch là một quyền quan trọng của mỗi cá nhân để từ đó
xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ với Nhà nước. Quyền có
quốc tịch của các nhân được xác định theo các nguyên tắc, căn cứ và điều
kiện nhất định. Cụ thể như: căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam;
điều kiện nhập quốc tịch; tước quốc tịch; mất quốc tịch...
Trên cơ sở căn cứ quốc tịch, Nhà nước Việt Nam quy định các quyền
và nghĩa vụ tương ứng cũng như các chính sách bảo hộ tương ứng khi cơng
dân Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Tuy nhiên, căn cứ trên cơ sở quốc tịch,
Nhà nước cũng có những quy định pháp luật tương ứng tạo cơ sở cho việc


15
thực hiện các quyền tài phán của Nhà nước đối với các cá nhân là công dân
Việt Nam hay không phải là cơng dân Việt Nam (ví dụ quyền xét xử, giải
quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại...).
Quốc tịch thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và công dân
được ràng buộc bởi các quyền và nghĩa vụ tương ứng, do đó Nhà nước đảm
bảo quyền của cá nhân đối với quốc tịch. Cụ thể như cá nhân có thể xin nhập
quốc tịch Việt Nam; thơi quốc tịch Việt Nam; trở lại quốc tịch Việt Nam; giữ
quốc tịch khi kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật; giữ quốc tịch
khi quốc tịch của vợ hoặc chồng thay đổi...
1.1.2.3. Thực hiện pháp luật về quốc tịch trên cơ sở các nguyên tắc,

điều kiện, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
Quốc tịch là vấn đề liên quan đến việc xác lập, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của cơng dân, vì vậy, việc giải quyết các vấn đề về quốc tịch phải
trên cơ sở các nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục nhất định.
Luật Quốc tịch Việt Nam, tại Ðiều 4 đã quy định về nguyên tắc quốc
tịch, theo đó Nhà nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cơng nhận cơng
dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp luật này
có quy định khác.
Nguyên tắc nêu trên là cơ sở căn bản cho việc giải quyết các vấn đề về
quốc tịch. Cụ thể như căn cứ xác định có quốc tịch Việt Nam; điều kiện xin
nhập quốc tịch Việt Nam; điều kiện xin trở lại quốc tịch Việt Nam; căn cứ thôi
quốc tịch Việt Nam; căn cứ tước quốc tịch Việt Nam.
Cùng với các căn cứ, điều kiện để giải quyết các vấn đề về quốc tịch,
pháp luật cũng quy định các điều kiện, trình tự, thủ tục giải quyết tương ứng
(ví dụ như yêu cầu về hồ sơ xin giải quyết các vấn đề về quốc tịch, trình tự
giải quyết, thời gian giải quyết.....).


16
1.1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về quốc tịch
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.
Căn cứ vào tính chất hoạt động, có thể xác định hoạt động thực hiện pháp luật
về quốc tịch Việt Nam bao gồm bốn hình thức thực hiện pháp luật nhằm mục
đích chuyển tải các quy phạm pháp luật về quốc tịch vào cuộc sống thực tiễn.
1.1.3.1. Tuân thủ pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Tuân thủ pháp luật về quốc tịch Việt Nam là một hình thức thực hiện
pháp luật, theo đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt
động mà pháp luật cấm. Trong lĩnh vực quốc tịch, yêu cầu về tuân thủ pháp
luật được coi là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đòi hỏi các chủ thể liên quan

phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình. Việc cơng dân không
tuân thủ các quy định pháp luật về quốc tịch có thể dẫn đến việc áp dụng
những chế tài tương ứng nhằm hạn chế, tước bỏ các quyền của cơng dân. Ví
dụ như: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thực hiện đúng các nghĩa vụ
của mình trong việc xem xét, giải quyết cho một cá nhân có đơn xin nhập
quốc tịch Việt Nam và có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về quốc
tịch; công dân Việt Nam phải thực hiện đúng các nghĩa vụ công dân đối với
Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật. Công dân Việt Nam cư trú
ở nước ngồi có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi gây phương
hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
1.1.3.2. Thi hành pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Thi hành pháp luật về quốc tịch là một hình thức thực hiện pháp luật về
quốc tịch, theo đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của
mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: theo quy định về trình tự, thủ tục giải


17
quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam tại Điều 21 Luật Quốc tịch Việt
Nam thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ của
người xin nhập quốc tịch Việt Nam, Sở Tư pháp gửi văn bản đề nghị cơ quan
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh)
xác minh về nhân thân của người xin nhập quốc tịch Việt Nam. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp, cơ quan Cơng an
cấp tỉnh có trách nhiệm xác minh và gửi kết quả đến Sở Tư pháp. Trong thời
gian này, Sở Tư pháp phải tiến hành thẩm tra giấy tờ trong hồ sơ xin nhập
quốc tịch Việt Nam. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
kết quả xác minh, Sở Tư pháp có trách nhiệm hồn tất hồ sơ trình Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận

được đề nghị của Sở Tư pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách
nhiệm xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp. Trong thời hạn 20
ngày, kể từ ngày nhận được đề xuất của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
Bộ Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra lại hồ sơ, nếu xét thấy có đủ điều kiện
nhập quốc tịch Việt Nam thì gửi thơng báo bằng văn bản cho người xin nhập
quốc tịch Việt Nam để làm thủ tục xin thơi quốc tịch nước ngồi, trừ trường
hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam xin giữ quốc tịch nước ngồi hoặc là
người khơng quốc tịch. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được giấy cho thơi quốc tịch nước ngồi của người xin nhập quốc tịch Việt
Nam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch
nước xem xét, quyết định.
Việc thi hành pháp luật về quốc tịch một cách tích cực cịn thể hiện ở
sự chủ động của cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về quốc tịch. Ví dụ như: theo quy định của Điều 32 Luật Quốc tịch
Việt Nam thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày phát hiện hoặc nhận được
đơn, thư tố cáo về hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân


18
tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của
nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ
quan đại diện Việt Nam ở nước ngồi có trách nhiệm xác minh, nếu có đầy đủ
căn cứ thì lập hồ sơ kiến nghị Chủ tịch nước tước quốc tịch Việt Nam của
người có hành vi đó.
1.1.3.3. Sử dụng pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Sử dụng pháp luật về quốc tịch là một hình thức thực hiện pháp luật
về quốc tịch, theo đó các chủ thể thực hiện các quyền về quốc tịch để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp của mình. Hình thức này khác với hình thức
tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc
không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình và

khơng bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: theo quy định của pháp luật thì các
chủ thể liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi vi phạm
của cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết các vấn đề về quốc tịch, tuy
nhiên, các chủ thể liên quan có thể khơng thực hiện các quyền này nếu thấy
không cần thiết.
1.1.3.4. Áp dụng pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Áp dụng pháp luật về quốc tịch là một hình thức thực hiện pháp luật về
quốc tịch, theo đó Nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền (Chủ tịch
nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở
Tư pháp, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài) căn cứ vào các quy định
của pháp luật về quốc tịch để ra các quyết định, văn bản làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật trong lĩnh vực quốc tịch. Ví dụ
như Chủ tịch nước áp dụng các quy định pháp luật về quốc tịch để quyết định
cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc
tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc
tịch Việt Nam.


19
Áp dụng pháp luật về quốc tịch là hoạt động thực hiện pháp luật của
các cơ quan Nhà nước, vừa là hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức
Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật nên hoạt động này luôn
thể hiện quyền lực Nhà nước, có nghĩa là hoạt động này chỉ do cơ quan Nhà
nước hay người có thẩm quyền tiến hành. Hoạt động này chủ yếu được tiến
hành theo ý chí đơn phương của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, khơng phụ
thuộc vào ý chí của chủ thể bị ADPL. Vấn đề quan trọng trong hoạt động áp
dụng pháp luật là việc cơ quan Nhà nước lựa chọn các quy phạm pháp luật, ra
các văn bản áp dụng pháp luật một cách kịp thời, chính xác và thực hiện có
hiệu quả.
1.2. NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỐC

TỊCH VIỆT NAM

1.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Thực hiện pháp luật về quốc tịch là hoạt động có mục đích nhằm đưa
các quy phạm pháp luật về quốc tịch vào thực tiễn cuộc sống, chuyển hóa
thành những hành vi xử sự thực tế để phát huy tính tích cực, chủ động trong
thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam. Thực hiện pháp luật về quốc tịch
phải tạo được cơ chế hữu hiệu cho các chủ thể pháp luật về quốc tịch tôn
trọng, chấp hành pháp luật về quốc tịch. Thực hiện pháp luật về quốc tịch bao
gồm những nội dung cơ bản sau:
Một là, thực hiện nội dung quản lý nhà nước về quốc tịch. Đó là q
trình hoạt động của các chủ thể (Chủ tịch nước, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ
Công an, Bộ Ngoại giao, UBND các cấp, Sở Tư pháp, Cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài) trong việc thực hiện các qui định của pháp luật về quốc
tịch bao gồm: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng và tổ chức
thực hiện pháp luật về quốc tịch; phổ biến, giáo dục pháp luật về quốc tịch;
kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm trong công tác quản lý nhà nước về quốc


20
tịch; giải quyết khiếu nại, tố cáo về quốc tịch; hợp tác quốc tế về quốc tịch;
tổng kết công tác quản lý nhà nước về quốc tịch...
Hai là, thực hiện các quy định của pháp luật đối với hoạt động quản lý
nhà nước về quốc tịch. Đó là q trình hoạt động của các chủ thể pháp luật
trong việc thực hiện các quy định, các yêu cầu của pháp luật trong quá trình
giải quyết các vấn đề về quốc tịch, đảm bảo các quyền về quốc tịch và bảo hộ
công dân Việt Nam.
Nội dung hoạt động quản lý nhà nước về quốc tịch đã được quy định
trong Luật Quốc tịch Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành, bao gồm:
các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về

quốc tịch như Chủ tịch nước, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Cơng an, Bộ Ngoại
giao, UBND các cấp, Sở Tư pháp, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan, tổ chức và
cá nhân liên quan có trách nhiệm phối hợp, thực hiện yêu cầu của cơ quan có
thẩm quyền giải quyết các vấn đề về quốc tịch theo quy định của pháp luật;
các hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của cơ quan có
thẩm quyền giải quyết về quốc tịch đều bị xử lý theo quy định pháp luật.
1.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về quốc tịch Việt Nam
Thực hiện pháp luật có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong tồn
bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện pháp luật là hoạt động đưa pháp
luật vào cuộc sống, biến những qui phạm pháp luật thành những hành vi,
xử sự thực tế, hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Vị trí, vai trị của thực hiện pháp luật khơng chỉ thể hiện trong tồn bộ
các hoạt động về pháp luật như hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp
luật, bảo vệ pháp luật mà nó cịn là điều kiện quan trọng để đảm bảo trật tự
pháp luật trong đời sống xã hội. Kết quả và hiệu quả tổ chức thực hiện pháp
luật là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để xác định tính chất của nền


21
pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì pháp chế địi hỏi các chủ thể pháp luật phải tôn
trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Từ đó, thực hiện
pháp luật về quốc tịch có một số vai trò cơ bản sau:
Một là, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân.
Thực hiện pháp luật về quốc tịch là một q trình hoạt động có mục
đích, bảo đảm các quyền về quốc tịch của cá nhân để từ đó tạo cơ sở cho việc
bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cá nhân được hưởng tư cách công dân Việt
Nam. Thông qua các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong quá trình thực hiện pháp luật về quốc tịch, pháp luật về quốc tịch Việt

Nam đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình; các tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ và đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công
dân. Vì vậy, thực hiện pháp luật về quốc tịch nghiêm minh khơng những bảo
đảm tính pháp chế mà cịn bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của các tổ chức và công dân.
Để đạt được mục đích của quản lý nhà nước về quốc tịch, địi hỏi các
cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện đúng quyền hạn và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật, đồng thời có sự phối hợp hiệu quả trong việc giải quyết
các vấn đề quốc tịch cho cá nhân liên quan với mục đích chung là đảm bảo
các quyền về quốc tịch, các quyền và nghĩa vụ của công dân.
Pháp luật về quốc tịch có nhiều quy định về quyền của các cá nhân
liên quan trong việc giải quyết các vấn đề quốc tịch, vì vậy, pháp luật về
quốc tịch không chỉ bảo vệ riêng quyền lợi của Nhà nước mà còn bảo vệ
quyền lợi của các cá nhân xin nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc
tịch... nhằm ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật từ các cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền.


22
Hai là, nâng cao ý thức pháp luật về quốc tịch của công dân
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và trách nhiệm thực hiện pháp
luật mang tính nguyên tắc do Hiến pháp quy định: “Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Thực
hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về quốc tịch nói riêng là q
trình hoạt động có mục đích làm cho các qui phạm pháp luật về quốc tịch
được thực thi trong thực tế, vì vậy, các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan
có thẩm quyền giải quyết các vấn đề quốc tịch nói riêng, các tổ chức và cơng
dân phải có trách nhiệm trong việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật về
quốc tịch nhằm góp phần giữ gìn bản chất của Nhà nước và nâng cao ý thức

pháp luật của cơng dân.
Ba là, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn, ổn định nền kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế
Thực hiện pháp luật về quốc tịch tạo cơ sở cho việc quản lý nhà nước
về quốc tịch, tạo cơ sở cho việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công dân
Việt Nam sinh sống trong nước và ở nước ngồi. Thơng qua thực hiện pháp
luật về quốc tịch, mối quan hệ giữa Nhà nước và cơng dân được củng cố, tạo
sự bình đẳng giữa Nhà nước và công dân.
Việc thực hiện các quy định pháp luật về quốc tịch sẽ tác động đến ý
thức chấp hành pháp luật của công dân, đặc biệt là trách nhiệm của công dân
trong việc thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Ngoài ra, thực hiện pháp
luật về quốc tịch còn là điều kiện để thực hiện các quan hệ hội nhập quốc tế,
góp phần thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế đất nước, nhất là
trong điều kiện giải quyết các quyền của công dân Việt Nam trong mối quan
hệ về tư pháp quốc tế với cơng dân nước ngồi.


23
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUỐC TỊCH VIỆT NAM

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về quốc tịch
Việt Nam
1.3.1.1. Các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và xã hội
- Yếu tố tự nhiên: Lãnh thổ được coi là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến việc thực hiện pháp luật về quốc tịch. Đặc điểm lãnh thổ, biên giới của
Việt Nam có tác động nhất định đến đời sống của công dân, đặc biệt là tình
trạng dân di cư tự do trong khu vực biên giới với các nước là Lào, Campuchia
và Trung Quốc. Tình trạng di cư tự do xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cụ thể
như: sau khi có sự phân định lại mốc biên giới từ năm 1985, một số vùng đất

thuộc Việt Nam nay thuộc Lào, dân cư sinh sống trên phần đất đó chủ yếu là
người Việt Nam nay trở thành người Lào nhưng vẫn còn giữ chứng minh nhân
dân, sổ hộ khẩu của Việt Nam nên họ lại di cư về Việt Nam.
Do ảnh hưởng của vấn đề quốc tịch cho những người không quốc tịch,
những người không rõ quốc tịch đã cư trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ Việt
Nam (đặc biệt là ở một số tỉnh, thành phố phía Nam và các tỉnh biên giới với
Lào, Cam-pu-chia) nên đến nay vẫn chưa thực hiện được một chính sách quan
trọng của Luật năm 1998 là ở nước ta mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch
và hạn chế tình trạng khơng quốc tịch. Mặt khác, Luật năm 1998 cũng chưa
có những quy định cần thiết để xác định một cách chính xác trong số hơn 3
triệu người Việt Nam định cư ở nước ngồi thì ai là cơng dân Việt Nam (có
quốc tịch Việt Nam) và ai là người gốc Việt Nam, dẫn đến tình trạng không rõ
ràng về quốc tịch Việt Nam trong đa số người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Điều này gây khó khăn cho cơng tác bảo hộ của Nhà nước ta đối với
cơng dân Việt Nam ở nước ngồi, cũng như giải quyết các quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi về nước.


×