Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích nguyên nhân, hậu quả pháp lý và cách khắc phục vấn đề pháp lý và thực tiễn hai hay nhiều quốc tịch ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.17 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................2
B. NỘI DUNG..........................................................................................................3
I. Khái niệm về quốc tịch và đặc điểm................................................................3
1. Khái niệm:.....................................................................................................3
2. Đặc điểm của quốc tịch:................................................................................3
II. Người có hai hoặc nhiều quốc tịch.................................................................4
1. Khái niệm:.....................................................................................................4
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:..........................................................4
3. Hậu quả pháp lý:...........................................................................................5
4. Cách khắc phục vấn đề pháp lý...................................................................8
III. Thực trạng vấn đề bất cập tội phạm mang hai quốc tịch tại Việt Nam và
thực tiễn áp dụng nguyên tắc quốc tịch theo pháp luật Việt Nam...................9
1. Mặt tích cực...............................................................................................10
2. Khó khăn...................................................................................................11
3. Một số giải pháp kiến nghị......................................................................13
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................16

1


A. LỜI MỞ ĐẦU
Mọi quốc gia đều có quyền quy định và cơng nhận một số phương pháp để có quốc
tịch trong luật của mình. Có nhiều cách để thiết lập mối quan hệ quốc tịch, chẳng
hạn như: nhập quốc tịch theo ngày sinh, nhập quốc tịch do nhập quốc tịch, khôi
phục quốc tịch, lựa chọn quốc tịch, hoặc cấp quốc tịch.
Trong hầu hết các trường hợp, một người chỉ có một quốc tịch khi sinh ra, nhưng
trong một số trường hợp, vì lý do nào đó, một người có hai hoặc nhiều quốc tịch và
cũng có thể khơng quốc tịch.
Theo thống kê, tính đến giữa năm 2016, gần 4.000 Việt kiều tại TP.HCM đã về


Trung Quốc đăng ký thường trú, sở hữu quốc tịch Việt Nam nhưng vẫn giữ quốc
tịch nước ngồi. Chính vì vậy tơi đã chọn đề tài này: " Phân tích nguyên nhân, hậu
quả pháp lý và cách khắc phục vấn đề pháp lý và thực tiễn hai hay nhiều quốc tịch ở
Việt Nam. Có ví dụ thực tiễn." để hiểu rõ hơn những vấn đề nêu trên. Mục tiêu của
đề tài là nghiên cứu vấn đề hai quốc tịch của người Việt Nam, các vấn đề bất cập
còn tồn tại trong quy định pháp luật về hai quốc tịch của người Việt Nam, những
khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật và xung đột pháp luật với các nước trên
thế giới. Từ đó, tìm ra giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục hậu quả của vấn đề hai
quốc tịch của người Việt Nam. Với khuôn khổ là bài tập lớn, tôi chỉ tập trung
nghiên cứu về vấn đề người Việt Nam mang hai quốc tịch, thuận lợi và khó khăn
khi mang hai quốc tịch. Thực trạng người Việt Nam mang hai quốc tịch và những
bất cập, khó khăn và thuận lợi của người Việt Nam mang hai quốc tịch. Nêu ra kiến
nghị quy định pháp luật và giải pháp khắc phục khó khăn và bất cập người Việt
Nam mang hai quốc tịch.

2


B. NỘI DUNG
I. Khái niệm về quốc tịch và đặc điểm.
1. Khái niệm:
- Quốc tịch là quy định cơ bản về địa vị pháp lý của công dân trong Luật Căn cước
công dân, là tiền đề pháp lý bắt buộc để cá nhân được hưởng các quyền và nghĩa vụ
của công dân đất nước.
- Quốc tịch thể hiện một mối quan hệ có tính ổn định cao, bền vững theo thời gian.
Mối quan hệ này không dễ thay đổi, chỉ có thể thay đổi trong những hồn cảnh đặc
biệt, và điều kiện rất khắt khe. Đối với người nước ngoài xin nhập quốc tịch một
quốc gia, mối quan hệ lâu dài hay ngắn hạn phụ thuộc vào thái độ của người đó
(tích cực hay tiêu cực) đối với quốc gia của họ.
2. Đặc điểm của quốc tịch:

 Thời gian và khơng gian có tính ổn định.
- Về khơng gian: quan hệ pháp luật giữa một quốc gia và một cá nhân có quốc tịch
là hồn tồn khơng bị hạn chế, thể hiện ở chỗ: khi đã có quốc tịch và trở thành công
dân của một quốc gia nhất định, mọi công dân luôn phải chịu sự chi phối và tác
động về mọi mặt. của đất nước, dù sinh sống trong hay ngồi nước, dù sinh sống ở
đâu, họ đều có quyền và nghĩa vụ hợp pháp.
- Về thời gian: Nói chung, một người sinh ra đã có quốc tịch, nghĩa là ít nhất có liên
quan đến một quốc gia nào đó. Trừ những trường hợp đặc biệt (như: xin thơi quốc
tịch, tước quốc tịch ...) thì mối quan hệ này sẽ xuyên suốt cuộc đời của con người từ
khi sinh ra đến khi chết đi.
 Quốc tịch thể hiện mối quan hệ pháp luật hai chiều giữa nhà nước và công
dân, là cơ sở để xác định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân. Cơng
dân có quốc tịch của một quốc gia nào đó và được hưởng các quyền thì phải
có nghĩa vụ đối với nhà nước; ngược lại, quyền của công dân cũng là nghĩa
vụ mà nhà nước phải thực hiện để bảo vệ tốt nhất quyền của công dân, và
nghĩa vụ của công dân cũng là quyền của nhà nước.
 Tính cách quốc tịch: quốc tịch phụ thuộc vào một người và không thể chia sẻ
với người khác. Thay đổi quốc tịch của một người khơng thể thay đổi quốc
tịch của người khác.
 Nó vừa là luật quốc tế vừa là luật quốc gia. Trong quan hệ quốc tế, quốc tịch
là cơ sở để một quốc gia ngoại giao bảo vệ cơng dân của mình; là cơ sở để
quốc gia đó từ chối dẫn độ tội phạm đối với cơng dân của mình (trừ khi có
điều ước quốc tế quy định về việc dẫn độ).

3


II. Người có hai hoặc nhiều quốc tịch
1. Khái niệm:
- Hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người có quốc tịch của hai quốc gia.

- Đa quốc tịch, cịn được gọi là hai quốc tịch, là tình trạng cơng dân của một người
trong đó một người được coi là công dân của nhiều quốc gia cùng một lúc theo luật
của các quốc gia đó. Khơng có cơng ước quốc tế nào xác định quốc tịch hoặc tình
trạng công dân của một người mà luật quốc gia khác nhau và có thể khơng tương
thích với nhau.
2. Ngun nhân dẫn đến tình trạng này:
 Những người đã nhập quốc tịch khác nhưng chưa từ bỏ quốc tịch gốc. Lý do
là luật quốc tịch của quốc gia đó khơng quy định quốc tịch sẽ đương nhiên
mất khi có quốc tịch mới.
 Kết quả của việc kết hôn với người nước ngồi hoặc nhận con ni người
nước ngồi hoặc nhận tiền thưởng quốc tịch. Một số quốc gia quy định phụ
nữ kết hơn với người nước ngồi được giữ quốc tịch của họ, trong khi các
quốc gia khác quy định rằng người vợ đương nhiên có quốc tịch của người
chồng. Ví dụ: Anh, Brazil, Pháp ..
Ví dụ : Chị H là công dân Việt Nam và kết hôn với công dân Pháp. Theo quy định
của pháp luật Pháp, chị H còn có quốc tịch Pháp, cịn theo quy định của pháp luật
Việt Nam, chị H vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
 Mỗi quốc gia có những cách nhập và mất quyền công dân khác nhau,
nguyên tắc xác định quốc tịch cũng khác nhau. Nguyên nhân xuất phát từ
chủ quyền của quốc gia đối với dân cư, đồng thời liên quan đến điều kiện xã
hội, chính trị, kinh tế, gây ra xung đột pháp lý giữa các quốc gia; là hiện
tượng nhiều hệ thống pháp luật quy định về cùng một vấn đề nhưng kết quả
điều chỉnh là khác nhau trong trường hợp được hưởng và mất quốc tịch.
Thông thường người ta tuân theo nguyên tắc huyết thống: cha mẹ mang
quốc tịch nào thì con cái có quốc tịch đó, tuy nhiên một số nước đã thiết lập
nguyên tắc nơi sinh: người nước ngồi sinh ra ở nước này sẽ khơng có quốc
tịch của nước nơi cha mẹ sinh ra.
Ví dụ: Cha mẹ của đứa trẻ A là công dân Việt Nam (nước áp dụng hưởng quốc tịch
theo sinh đẻ huyết thống) được sinh ra tại Vương quốc Anh (quốc gia áp dụng sinh
đẻ theo nơi sinh). Vì vậy, theo quy định của pháp luật Anh, đứa trẻ A sẽ có quốc tịch

Anh, và theo quy định của pháp luật Việt Nam, trẻ em cũng sẽ có quốc tịch Việt
Nam.
4


3. Hậu quả pháp lý:
Theo thực tiễn những người mang hai hay nhiều quốc tịch là nguyên nhân gây ra trở
ngại rất lớn cho quốc gia trong việc thực hiện chủ quyền của mình đối với dân cư,
trở ngại cho quốc gia về quan hệ hợp tác quốc tế.Từ đó cho thấy, tình trạng hai hay
nhiều quốc tịch đưa đến những hậu quả pháp lý thuận lợi và khó khăn.

 Thuận lợi:
- Người mang hai quốc tịch hoặc nhiều quốc tịch sẽ được hưởng các quyền lợi về
kinh tế, chính trị và phúc lợi của quốc gia mình mang quốc tịch, cụ thể là được
sống, làm việc, học tập, được chăm sóc, khỏe mạnh, có thể đứng tên và làm chủ một
công ty, sở hữu và mua bất động sản, Bảo lãnh người thân, có quyền bầu cử, ứng cử
- Sẽ được chính phủ và luật pháp hai nước bảo vệ nhiều hơn. Khi bạn đi làm việc tại
các quốc gia khác, bạn sẽ được hỗ trợ trong lãnh sự quán của hai quốc gia này. Bạn
có thể đi du lịch như một người bản xứ mà không cần thực hiện các bước xin giấy
phép du lịch thông qua đại sứ quán của quốc gia / khu vực của bạn.
- Người mang hai quốc tịch hoặc nhiều quốc tịch cũng có lợi thế lớn về nhập cảnh,
xuất cảnh, cư trú, tự do đi lại trong lãnh thổ của quốc gia mình mang quốc tịch mà
khơng phải quan tâm q nhiều đến việc xin thị thực, làm thị thực và bất kỳ khoản
chi phí nào khác.
Ví dụ:
+ Khi cơng dân có quốc tịch Mỹ và Việt Nam, khi ra và vào Mỹ sử dụng hộ chiếu
Mỹ, khi ra và vào Việt Nam phải sử dụng hộ chiếu Việt Nam
+ Khi công dân có hộ chiếu Việt Nam thì khơng cần xin visa đi lại giữa các nước
trong ASEAN như Singapore, Lào, Myanma…
- Được quốc gia mà họ mang quốc tịch bảo hộ khi họ ở nước ngoài. Điều này cũng

được Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Công dân Việt Nam ở nước ngồi
được Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ” (khoản 3 Điều 17),
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (Điều 5); Luật Cơ quan đại diện nước
CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài số 33/2009/QH12 ngày 18/06/2009 (Điều 8 và
Điều 9)

Ví dụ cụ thể như:
5


+ Năm 2011, Việt Nam đã tổ chức chiến dịch giải cứu 10.400 lao động Việt Nam tại
Lybia sau khi nước này diễn ra cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Gadaffi vào tháng
1/2011.
+ Cơ quan lãnh sự Việt Nam đã phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc
xử lý vụ việc cô dâu người Việt là Thạch Thị Hồng Ngọc bị người chồng tâm thần
Hàn Quốc sát hại.
+ Năm 2018 Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia thực hiện bảo hộ cơng dân trong
vụ Đồn Thị Hương.....và còn rất nhiều vụ bảo hộ quyền lợi của cơng dân Việt Nam
ở nước ngồi khác.
 Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, vẫn cịn một số khó khăn do xung đột pháp luật
giữa hai nước:
-Ví dụ, nghĩa vụ khai thuế, nghĩa vụ thuế hoặc nghĩa vụ liên quan đến an ninh và
chính trị, nghĩa vụ trong một số lĩnh vực kinh doanh bị hạn chế do chênh lệch tuổi
tác ...
 Khó khăn trong việc bảo vệ cơng dân
+ Một tình huống mà việc thực hiện bảo hộ ngoại giao đối với một người có hai
quốc tịch trở lên sẽ dẫn đến việc một quốc gia cung cấp sự bảo hộ ngoại giao cho
cơng dân của mình trong cùng một quốc gia mà người đó cũng có quốc tịch. Sự bảo
hộ này là khơng có cơ sở (dựa trên Điều 4-Cơng ước LaHaye năm 1930)

Ví dụ:
Anh A đồng thời là mang quốc tịch của hai nước là Việt Nam và Nhật thì khi
đang cư trú trên lãnh thổ Nhật A sẽ không được nhà nước Việt Nam bảo hộ.
- Xử lý tội phạm đối với người mang hai quốc tịch ở Việt Nam được hưởng các
quyền và nghĩa vụ pháp lý như người có một quốc tịch Việt Nam. Nếu họ vi phạm
pháp luật tại Việt Nam, họ cũng sẽ bị coi là người có một quốc tịch. Bộ luật Hình sự
2015 quy định thẩm quyền theo lãnh thổ chỉ xác định tội phạm xảy ra tại Việt Nam
hoặc liên quan đến bất kỳ giai đoạn nào của tội phạm xảy ra tại Việt Nam. Sự điều
chỉnh của luật hình sự, khơng phân biệt người đó là người nước ngồi, khơng quốc
tịch, song tịch hay chỉ có một quốc tịch Việt Nam.
- Hai nước tiến hành ngoại giao đối với những người được coi là công dân của hai
nước ở nước thứ 3. Trong trường hợp này, nước thứ ba sẽ có quyền quyết định cơng
dân của nước nào.
Ví dụ:
6


B có quốc tịch Việt Nam và Canada ( được sinh ra và sống ở Việt Nam, làm việc
và lấy chồng ở Canada). Do tích chất cơng việc B có chuyến công tác ở Nga tại đây
B đã vi phạp pháp luật. Trong trường hợp này Nga sẽ chỉ công nhập một trong hai
quốc tịch của B hoặc công nhận quốc tịch mà B gắn bó nhất ( theo nguyên tắc quan
hệ hữu hiệu - Điều 5).
 Khó khăn về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.
- Những người có hai quốc tịch trở lên phục vụ trên lãnh thổ của một trong các quốc
tịch của họ, hoặc phục vụ trong quân đội nước ngoài hoặc phục vụ ở các quốc gia
khác vì những lý do tương tự mà khơng có cùng quốc tịch khơng được coi là trốn
tránh trách nhiệm.
- Các hạn chế về một số quyền, chẳng hạn như: quyền được bầu cử, thông thường
quốc gia chỉ công nhận cơng dân ứng cử là cơng dân chỉ có một quốc tịch của quốc
gia ứng cử. Do đó, nếu một ứng cử viên có nhiều quốc tịch, người đó sẽ khơng thể

tham gia vào hệ thống chính trị, hoặc anh ta sẽ phải từ bỏ các quốc tịch khác của
mình, ngay cả khi anh ta phải sống trên lãnh thổ của quốc gia của ứng viên đó trong
một khoảng thời gian. . . Do đó, việc nhà nước thực hiện chủ quyền đối với dân cư
sẽ dẫn đến tình trạng pháp lý khó khăn, làm phức tạp thêm sự hợp tác giữa các quốc
gia về vấn đề dân số.
 Khó khăn khi có quốc tịch nhưng chưa được hưởng quyền cơng dân.
Ví Dụ:
Bà T. (ngụ Q.10, TP.HCM) là cơng dân VN, lấy chồng người nước ngoài, ra nước
ngoài sinh sống, năm 2002 sinh con tên A. tại nước ngoài. Sau đó bà T. ly hơn chồng,
đưa con về VN.Khi nhập cảnh VN, bà T. sử dụng hộ chiếu VN và con gái sử dụng hộ
chiếu nước ngoài. Tại TP.HCM, năm 2007 bà T. làm thủ tục đăng ký khai sinh cho con
tại Sở Tư pháp TP và được cấp giấy khai sinh có cha là người nước ngồi, mẹ là người
VN, bé A. có quốc tịch VN.
=> Vậy nhưng khi bà T. làm thủ tục xin cấp hộ chiếu cho con để tiện việc xuất nhập
cảnh thì bị từ chối. Theo cán bộ tiếp nhận hồ sơ, do bé A. nhập cảnh VN bằng hộ
chiếu nước ngồi nên khơng thể cấp hộ chiếu VN.

4. Cách khắc phục vấn đề pháp lý
7


 Giải pháp quốc tế
- Để khắc phục những vướng mắc pháp lý do hiện tượng song tịch hoặc đa quốc
tịch gây ra, các quốc gia đã ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa
phương trong quan hệ hợp tác của mình với mục đích ngăn ngừa, hạn chế và bắt
đầu loại bỏ các trường hợp song tịch hoặc đa quốc tịch.
- Các điều ước được chia thành hai loại:
 Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ quốc gia do một người có hai
quốc tịch trở lên.
 Ngoài hai quốc tịch hoặc nhiều quốc tịch, người có hai quốc tịch hoặc nhiều

quốc tịch có quyền tự do lựa chọn một quốc tịch trong số các quốc tịch mà
họ sở hữu theo các điều ước liên quan.
Ví dụ:
Cơng ước La Haye năm 1930 đã thiết lập nguyên tắc quốc tịch có hiệu lực. Điều
5: “Ở một nước thứ ba, một người có nhiều quốc tịch sẽ được coi là chỉ có một quốc
tịch. Nước thứ ba chỉ công nhận một trong các quốc tịch của người đó hoặc cơng
nhận quốc tịch của nước nơi thường trú và nơi cư trú chính của người đó. đang ở
hoặc quốc tịch tại thời điểm đó. Quốc tịch của quốc gia nơi bạn thực sự sống. Nó có
mối quan hệ gần gũi nhất. "
- Theo các quy định của Công ước La Haye năm 1930, khi xuất hiện trên thực tế,
cần phải xác định địa vị pháp lý cụ thể của những người có hai quốc tịch trở lên để
giải quyết các vấn đề như lựa chọn các quan hệ giữa các cá nhân áp dụng, luật vật
chất và tài sản. ; khi xác định quyền bảo vệ công dân Thẩm quyền ..., quốc gia thứ
ba nên xem xét rằng một người có hai quốc tịch hoặc nhiều quốc tịch có một quốc
tịch duy nhất tại quốc gia nơi người đó thường cư trú hoặc nơi cư trú chính hoặc
quốc gia có quan hệ gần gũi nhất với người đó.
- Các tiêu chí để xác định nơi mà họ gắn bó nhất như:
 Quan hệ nhân thân, tài sản, nghề nghiệp
 Nơi thực tế hưởng và thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân…
- Công ước La Haye thiết lập nguyên tắc bảo hộ ngoại giao đối với những người có
hai quốc tịch hoặc nhiều quốc tịch, theo nguyên tắc này, một quốc gia không thể
bảo hộ ngoại giao cho cơng dân của mình ở một quốc gia khác mà người này cũng
có quốc tịch và hiện đang cư trú (Điều 4).
- Công ước La Haye quy định các Quốc gia có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để
một người mang hai hoặc nhiều quốc tịch từ bỏ quốc tịch của mình (Điều 6) hoặc
8


không áp dụng nguyên tắc nơi sinh để xác định quốc tịch cho con của những người
được hưởng quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao lãnh sự (Điều 12).

- Các điều ước quốc tế song phương: Hội đồng Pháp-Bỉ năm 1949, Hội đồng PhápÝ năm 1953, Đan Mạch-Ý năm 1954 ... Phần lớn nội dung quy định công dân của
các nước ký kết có thể nhập quốc tịch của các nước ký kết khác. Khi đó cơng dân sẽ
mất quốc tịch ban đầu hoặc chỉ được lựa chọn một quốc tịch.
 Giải pháp quốc gia:
Các quốc gia sẽ cụ thể hóa trong luật Quốc tịch, các giải pháp giải quyết tình
trạng người hai hay nhiều quốc tịch. Từ đó giảm thiểu tình trạng người mang
hai hay nhiều quốc tịch để tránh gặp phải vấn đề khó khăn về pháp lý
Ví dụ 1:
Nếu Luật Quốc tịch của Trung Quốc, Hàn Quốc quy định người xin nhập
quốc tịch nước họ sẽ phải từ bỏ quốc tịch cũ thì Luật Quốc tịch Lào lại khẳng
định tại Điều 2: Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào không cho phép
công dân Lào cùng một lúc có nhiều quốc tịch.
Ví dụ 2:
Việt Nam: Điều 12 Luật quốc tịch việt nam; Điều 4: Nhà nước….công nhận
cơng dân việt nam có một quốc tịch việt nam, trừ trường hợp Luật có quy
định khác; Điều 19: Người nhập quốc tịch việt nam thì phải thơi quốc tịch
nước ngoài trừ những trường hợp đặc biệt được chủ tịch nước cho phép.

III. Thực trạng vấn đề bất cập tội phạm mang hai quốc tịch tại Việt Nam
và thực tiễn áp dụng nguyên tắc quốc tịch theo pháp luật Việt Nam
- Theo Khoản 1, Điều 5 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ
luật này được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) được quy định như sau: “Đối với người nước
ngồi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hịa XHCN Việt Nam thuộc đối tượng được
hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều
ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc
tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều
ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó khơng
quy định hoặc khơng có tập qn quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải
quyết bằng con đường ngoại giao”.


9


- Cụ thể, đối với người Việt Nam phạm tội mang hai quốc tịch thì nguyên tắc xử lý
là: trước hết người phạm tội vẫn là công dân Việt Nam nên áp dụng pháp luật Việt
Nam để xử lý hành vi phạm tội.
- Nếu họ mang quốc tịch nước thứ hai nhưng nước đó áp dụng hệ thống bảo hộ
cơng dân và nước đó có ý kiến can thiệp thì sẽ được giải quyết theo một trong hai
tình huống:
 Nếu người đó thuộc điều kiện miễn trừ ngoại giao thì sẽ do Tịa án cơng lý
quốc tế giải quyết, áp dụng quyền miễn trừ ngoại giao
 Nếu khơng có quyền miễn trừ thì vẫn bị xử lý bình thường, giống như người
nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam sẽ bị xử phù hợp với pháp luật
Việt Nam.
1. Mặt tích cực
 Dựa trên vai trị quan trọng của quốc tịch, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về quốc tịch của Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm, khẳng định
chủ quyền về quốc tịch của đất nước, đồng thời quốc gia điều chỉnh các vấn
đề liên quan đến quốc tịch thông qua các luật, quy định về quốc tịch, hình
thành khn khổ pháp lý vững chắc cho đất nước bảo đảm cư trú ở trong
nước.
 Quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân Việt Nam ở nước ngoài. Các văn
bản quy phạm pháp luật từng thời kỳ được sửa đổi, bổ sung, thay thế để hoàn
thiện phù hợp.
 Nhìn chung, các quy định của Luật Quốc tịch thể hiện chủ trương nhất quán
của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền nhập quốc tịch Việt Nam
của công dân, công dân Việt Nam được Nhà nước bảo hộ ở nước ngoài, được
hưởng các quyền hợp pháp, quyền công dân và thực hiện nghĩa vụ công dân
trên cơ sở điều kiện sống của họ ở xa đất nước., Hạn chế tình trạng khơng

quốc tịch ...
- Luật Quốc tịch 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết đã cung cấp đầy
đủ các điều khoản cơ bản để điều chỉnh các vấn đề về quốc tịch. Do đó, những mặt
tích cực sau đã đạt được:
 Việt Nam là một trong những quốc gia có số lượng lớn người không quốc
tịch và người không rõ quốc tịch. Họ di chuyển tự do từ các nước láng giềng
đến các tỉnh biên giới ở Việt Nam sinh sống. Tuy nhiên, hầu hết họ đều
khơng có giấy tờ chứng minh quốc tịch.
 Theo quy định tại Điều 22 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, Chính phủ Việt
Nam đã hướng dẫn rất đơn giản về quy trình, thủ tục, hồ sơ nhập quốc tịch
10


cho những người này, miễn giảm các điều kiện, lệ phí. Thủ tục thơng
thường… Cụ thể, “Luật Quốc tịch Việt Nam” đã tạo cơ sở pháp lý cho hơn
4.400 người không quốc tịch sinh sống ổn định lâu dài tại Việt Nam.
- Khoản 2 Điều 16 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Trẻ em sinh ra
ở Việt Nam mà cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam mà cha mẹ không thống nhất
được với nhau về việc chọn quốc tịch thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam. " Các
quy định này chỉ ra rằng pháp luật Việt Nam đã đảm bảo rằng trẻ em sinh ra ở trong
hoặc ngồi nước và có cha mẹ là cơng dân Việt Nam đều có quốc tịch Việt Nam. Từ
đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em và đảm bảo nguyên tắc tuyệt đối về
huyết thống sẽ giúp hạn chế tình trạng trẻ em khơng quốc tịch.
- Khoản 3 Điều 19 và khoản 5 điều 23 của Luật Quốc tịch 2008 chỉ rõ rằng Luật
Quốc tịch Việt Nam dựa trên nguyên tắc “một quốc tịch”, được cấu trúc theo
phương thức “linh hoạt”, có cơ sở pháp lý để chấp nhận và khuyến nghị. các trường
hợp. Xin nhập, tái nhập, thôi quốc tịch Việt Nam, và trong những trường hợp đặc
biệt, nếu chủ tịch nước cho phép, mong được giữ quốc tịch nước ngoài.
- Khoản 1 Điều 37 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã tạo cơ sở pháp lý để
cơng nhận tình trạng 2 quốc tịch của trẻ được người nước ngoài nhận làm con ni

thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
- Điều 9 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 qui định công dân Việt Nam kết hơn
với người nước ngồi mà pháp luật quốc gia đó quy định tự động có quốc tịch thông
qua hôn nhân (Thụy Sĩ, Pháp…) mà không bắt buộc phải thơi quốc tịch Việt Nam.

2. Khó khăn
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên của việc áp dụng Luật Quốc tịch
Việt Nam, việc thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam gặp nhiều khó khăn do một số
quy định của Luật Quốc tịch 2008 chưa rõ ràng cụ thể như:
 “Luật Quốc tịch Việt Nam” có quy định khá rõ ràng về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch Việt Nam nhưng không đưa ra
cơ chế thu hồi quyết định quốc tịch để đảm bảo nguyên tắc người Việt Nam
có một quốc tịch. Điều này cho thấy pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ
các biện pháp hữu hiệu để bảo đảm thực hiện nguyên tắc một quốc tịch mà
chỉ sửa đổi “linh hoạt” để phù hợp hơn với nhiệm vụ và điều kiện thực tế
của đất nước.
 Luật Quốc tịch Việt Nam" chưa giải quyết triệt để vấn đề quốc tịch của
công dân Việt Nam và con của người nước ngồi và vấn đề duy trì quốc tịch
nước ngồi. Vẫn có trường hợp trẻ là con của cơng dân Việt Nam của người
11


nước ngồi cư trú tại Việt Nam nhưng khơng có quốc tịch hoặc quyền được
nhập quốc tịch của công dân nước ngồi khơng được bảo đảm đầy đủ. Hầu
hết các hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam, trở lại quốc tịch Việt Nam, giữ
quốc tịch nước ngoài đều bị trả lại do các bên khơng chứng minh được
mình thuộc trường hợp “đặc biệt”.
- Khoản 2 Điều 37 Luật Quốc tịch năm 2008 quy định: "Trẻ em nước ngồi do
cơng dân Việt Nam nhận làm con ni thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cơng nhận việc ni con ni". Tuy

nhiên, khơng có hướng dẫn nào về việc công nhận / xác nhận quốc tịch Việt Nam
của những trẻ em này.
- Luật Quốc tịch 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết vẫn chưa xác định
rõ “nơi cư trú” để làm căn cứ xác định có chấp nhận đơn xin nhập quốc tịch hay
khơng. Điều này gây khó khăn cho Bộ Tư pháp trong việc yêu cầu các cơ quan liên
quan xác minh nhân thân và lịch sử cư trú của đương đơn trong một số trường hợp.
- Các thủ tục hành chính liên quan đến việc giải quyết các việc về quốc tịch
+ Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 20 và điểm d Khoản 1 Điều 24 của
Luật Quốc tịch thì một trong những giấy tờ mà người đề nghị nhập / trở lại
quốc tịch Việt Nam phải có trong hồ sơ nhập / trở lại quốc tịch Việt Nam có
thời hạn, nơi cư trú trong nước ,còn lại là Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có
thẩm quyền của nước ngồi cấp. u cầu này là rất khó đối với người bình
thường, và khơng thể đạt được trong nhiều trường hợp.
+ Quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch và Khoản 2 Điều 5 Nghị định số
78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ là quy định rất khó khăn cho
người xin nhập quốc tịch là người khơng quốc tịch. Vì để được cấp thẻ
thường trú, họ phải bảo đảm điều kiện theo quy định tại Khoản 4 Điều 39;
khoản 1 Điều 42 Luật Nhập cảnh, Xuất cảnh, quá cảnh các văn bản hướng
dẫn thi hành
=> Hiện tại cho đến nay, Việt Nam hầu như không ký kết các điều ước song phương
hoặc đa phương với bất kỳ quốc gia nào để giải quyết vấn đề quốc tịch của công
dân Việt Nam ở nước ngoài hoặc giải quyết các vấn đề liên quan đến cơng dân Việt
Nam ở nước ngồi. Điều này có nghĩa là Luật Quốc tịch năm 2008 đã không giải
quyết các vấn đề quốc tịch phát sinh từ cơng dân Việt Nam và quốc tịch nước ngồi.
Hiện Việt Nam còn thiếu cả cơ chế pháp lý và cơ chế vận hành để giải quyết hậu
quả của tình trạng người từ hai quốc tịch trở lên.
12


3. Một số giải pháp kiến nghị

 Đầu tiên phải tập trung vào giải pháp hài hòa giữa nguyên tắc một quốc tịch
với việc thừa nhận một số trường hợp ngoại lệ trong vấn đề song tịch, nhưng
việc áp dụng quốc tịch Việt Nam tại Việt Nam phải được ưu tiên.
=> Do đó, cần phải quy định cụ thể về trường hợp đặc biệt (Điều 19 khoản 3 Luật
Quốc tịch 2008), vì Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 và các văn bản hướng dẫn thi
hành chi tiết không quy định rõ “thế nào là hoàn cảnh đặc biệt” để được Chủ tịch
nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài khi xin nhập quốc tịch,xin trở lại quốc tịch
Việt Nam.
Điều 19 khoản 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Người đã nhập
quốc tịch Việt Nam thì trừ những người quy định tại khoản 2 điều này,trong trường
hợp đặc biệt nếu được Chủ tịch nước cho phép gồm:
a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ của công dân Việt Nam
b) Người có cơng đặc biệt trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam
c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khoản 5 Điều 23 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: "Người được trở
lại quốc tịch Việt Nam thì phải thơi quốc tịch nước ngồi, trừ những người sau đây
trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép:
a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của cơng dân Việt Nam;
b) Có cơng lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam;
c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
- Việc thiếu các quy định và giải thích rõ ràng về thế nào là “tình huống đặc biệt”
khiến luật khó áp dụng, dẫn đến lầm tưởng rằng nếu áp dụng một trong các trường
hợp trên thì việc xin visa / quốc tịch khi về Việt Nam sẽ được xem xét làm đơn xin
Chủ tịch nước giữ lại quốc tịch "Hoàn cảnh đặc biệt" quốc tịch. Vì vậy, hầu hết các
đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam đều bao gồm nguyện vọng được giữ lại quốc tịch
nước ngồi hiện có. Đồng thời, các hồ sơ nêu trên đều bị Bộ Tư pháp bác bỏ với lý
do vẫn giữ quốc tịch nước ngồi, buộc nhập lại quốc tịch Việt Nam, thơi quốc tịch
nước ngoài.

 Thứ hai cần làm là giải pháp nhằm nâng cao quản lý nhà nước liên quan đến
giấy tờ chứng minh quốc tịch như:

13


+ Bổ sung quy định hủy bỏ giá trị Giấy chứng nhận quốc tịch Việt Nam của người
bị thu hồi quốc tịch, thu hồi quốc tịch, quyết định nhập quốc tịch (Điều 11 Luật
quốc tịch).
+ Cần thiết lập cơ chế liên thông giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an để hủy đăng ký
thường trú, thu hồi hộ chiếu Việt Nam và giấy chứng minh nhân dân của người bị
mất, bị tước quốc tịch, quyết định nhập quốc tịch Việt Nam đã bị hủy bỏ
 Thứ ba là phải tiến hành rà sốt, thống kê và có biện pháp xử lý đối với việc
cấp sai quốc tịch Việt Nam cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam
 Thứ tư là, tiến hành tổ chức đào tạo chuyên sâu về luật cơng dân cho các cán
bộ tư pháp, người có trách nhiệm cấp văn bản xác nhận quốc tịch Việt Nam
cho công dân
 Cuối cùng, Việt Nam nên xem xét gia nhập các Điều ước về quốc tịch nhằm
đảm bảo quyền cần thiết của cá nhân…

C. KẾT LUẬN
Quốc tịch là mối quan hệ chính trị và pháp lý ràng buộc một người với một quốc gia
có chủ quyền. Đó là cơ sở pháp lý đầu tiên để xác định một người là công dân của
14


một quốc gia và trên cơ sở này để xác định quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và
công dân của quốc gia đó. Chỉ trên cơ sở quyền cơng dân, người dân mới được
hưởng các quyền và lợi ích mà nhà nước dành cho cơng dân của mình. Ví dụ như
quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền của người lao động, ... Do đó, chỉ có cơng dân

Việt Nam mới được hưởng những quyền và lợi ích mà nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam dành cho cơng dân của mình.Ngược lại, về phía nhà nước, xác
định quyền của công dân cũng quan trọng như bảo vệ quyền và lợi ích của mình
như bảo vệ chủ quyền quốc gia. Nói chung, một người sinh ra chỉ có một. Tuy
nhiên, có những trường hợp một người có thể có hai quốc tịch vì nhiều lý do khác
nhau. Do quy định khác nhau về quyền công dân trong pháp luật của các nước.
Nguyên nhân nằm ở chủ quyền quốc gia của đất nước. gắn với dân cư, đồng thời
gắn với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội dẫn đến mâu thuẫn về luật pháp của
các nước.
Trong bối cảnh quốc tế hội nhập sâu rộng về chính trị, kinh tế, văn hóa thì vai trị
của dân tộc ngày càng trở nên quan trọng.Xu hướng đa quốc tịch đang được nhiều
quốc gia đẩy mạnh. Vì vậy, chúng ta cần nhắc lại nguyên tắc quốc tịch hay nguyên
tắc ngoại lệ đối với một quốc tịch, hợp pháp hơn nguyên tắc “linh hoạt” hay nguyên
tắc đa quốc tịch, để nghiên cứu, xử lý các vấn đề liên quan và hoàn thiện pháp luật
cho phù hợp với định hướng đã chọn. Bởi lẽ, việc xác định quốc tịch có ý nghĩa
pháp lý vô cùng quan trọng đối với mọi người. Tuy nhiên, việc thay đổi nguyên tắc
quốc tịch phải xuất phát từ khả năng của bộ máy nhà nước, và sự thay đổi này sẽ
ảnh hưởng đến nhiều quy định khác có liên quan như cư trú, dân sự, hình sự.

15


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)
2)
3)
4)
5)

Công ước Lahaye 1930 về xung đột quốc tịch

Công ước năm 1963 về giảm các trường hợp có nhiều quốc tịch
Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, sửa đổi 2014
Luật căn cước công dân 2014
Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam
2014
6) Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009
7) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, NXB. CAND, Hà Nội ,
2007;
8) TS. Nguyễn Thanh Long, ThS. Nguyễn Thị Kim Ngân,Vấn đề hai hay nhiều
quốc tịch trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia

16



×