Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Môn lãnh đạo và quản lý báo chí truyền thông lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí truyền thông – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.97 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Những từ lãnh đạo, quản lý thường được nói đến hàng ngày, tuy nhiên
ý nghĩa và nội dung của những từ đó khơng phải ai cũng chú ý và nắm chắc.
Trong giai đoạn trước mắt, khi đẩy mạnh thực hiện chương trình Cải cách
hành chính trong tình hình mới, cần phân định rõ chức năng quản lý nhà nước
của Chính phủ bên cạnh vai trị lãnh đạo của Đảng, vì vậy vấn đề tìm hiểu về
lãnh đạo và quản lý đã trở thành vấn đề thời sự. Mặt khác, chúng ta cũng
khơng thể trì hỗn việc nghiên cứu về thể chế tổng thể Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ để hồn thiện thể chế chính trị chung, làm
nền tảng cho tồn bộ cơng cuộc cải cách và đổi mới toàn diện cả về kinh tế,
văn hóa, xã hội, song song với cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đang
được khẩn trương đẩy tới.
Trong lĩnh vực báo chí – truyền thơng, cơng tác lãnh đạo và quản lý
cũng đang là vấn đề hết sức đáng quan tâm. Báo chí – truyền thơng hiện đại
đang đặt ra những thách thức với công tác quản lý nhà nước về báo chí của
các quốc gia. Để trả lời cho câu hỏi những vấn đề của báo chí – truyền thơng
đặt ra những thách thức gì cho cơng tác lãnh đạo và quản lý hiện nay, tác giả
đã lựa chọn đề tài “Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí truyền thơng –
Thực trạng và giải pháp”. Thơng qua việc điểm lại một số khái niệm về
quản lý báo chí, truyền thơng và cũng như chỉ ra những vấn đề của báo chí
truyền thơng đặt ra để rút ra bài học kinh nghiệm cũng như đề ra những giải
pháp cho cơng tác lãnh đạo, quản lý báo chí truyền thông hiện nay. Tác giả hy
vọng rằng tiểu luận có thể đóng góp một phần cho cơng tác nghiên cứu, hoàn
thiện và nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý đối với báo chí – truyền thơng
ở Việt Nam hiện nay. Tiểu luận với thời lượng và quy mơ cịn hạn hẹp nên
khơng tránh khỏi những sai lầm, tác giả mong nhận được sự nhận xét, đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và bạn đọc nhằm phục vụ cho những lần nghiên
cứu xong. Tác giả xin trân trọng cảm ơn!
1



NỘI DUNG
I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ
1. Định nghĩa về lãnh đạo, quản lý
Những nhà nghiên cứu lý thuyết về “lãnh đạo học” và quản lý học”
cũng chưa thống nhất được về một định nghĩa cho hai từ trên, song đều khẳng
định, lãnh đạo và quản lý là hai cơng việc khác nhau, thậm chí khác nhau rất
cơ bản. Tập hợp nhiều ý kiến phân tích lại, có thể nêu ra những điểm khác
nhau như sau:
Từ điển Tiếng Việt (Hồng Phê chủ biên) giải thích đơn giản và dễ
hiểu: “Lãnh đạo” là đề ra chủ trương và tổ chức động viên thực hiện, còn
“Quản lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu nhất định.
Từ điển Hán ngữ của Trung Quốc cũng cho những giải thích tương tự: Lãnh
đạo là sối lĩnh và dẫn đạo tiến lên theo một hướng nhất định, còn Quản lý là
tiến hành thuận lợi một loại việc được giao trách nhiệm, bảo quản và xử lý,
chăm sóc đồng thời có ràng buộc chặt chẽ.
Như vậy, có thể hiểu: Lãnh đạo là chỉ đường, vạch lối, nhìn xa trơng
rộng, hướng tới mục tiêu cuối cùng, cịn quản lý là tổ chức và điều khiển các
hoạt động theo các yêu cầu đó. Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối,
nguyên lý, sách lược, còn quản lý là tổ chức thực hiện. Lãnh đạo quan tâm
đến những vấn đề chiến lược, những mục tiêu lâu dài, còn quản lý chú trọng
những u cầu có tính chiến thuật, mục tiêu cụ thể và thường là ngắn hạn.
Lãnh đạo có thể gắn với các khía cạnh trừu tượng của cuộc sống, còn quản lý
thường phải xử lý những vấn đề rất thực tế. Lãnh đạo thuộc lĩnh vực chính trị,
người lãnh đạo là nhà chính trị, cịn quản lý thuộc lĩnh vực hành chính, người
làm quản lý là những “nhà hành chính”.
Lãnh đạo dùng biện pháp động viên, thuyết phục, gây ảnh hưởng dựa
vào đạo lý là chính, trái lại quản lý phải sử dụng các biện pháp tổ chức chặt
chẽ, dựa vào ràng buộc của pháp chế, thể chế. Lãnh đạo tác động đến ý thức
2



của con người, còn quản lý sử dụng con người như một nguồn lực, nguồn
nhân lực bên cạnh nguồn tài lực và vật lực. Lãnh đạo thuộc về phạm trù tư
tưởng, lý luận và đạo đức, khơng có tính cưỡng chế, còn quản lý lại thuộc
phạm trù luật pháp, pháp quy, có ý nghĩa cưỡng chế rõ rệt.
Quản lý giống như diễn viên xuất hiện dưới ánh đèn lung linh, huyền
ảo của sân khấu, còn lãnh đạo ẩn sau bức rèm hiện thực sử dụng bàn tay vơ
hình điều khiển hành động và lời thoại của nhân vật.
2. Điểm tương đồng và khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý
Lãnh đạo và quản lý vốn nằm trong một thể thống nhất. Nhưng nội
dung, chức năng của công việc lãnh đạo và quản lý khác nhau khá xa:
Lãnh đạo thường được hiểu là gồm có: xác định phương hướng, mục
tiêu lâu dài (cả trung hạn và dài hạn), lựa chọn chủ trương chiến lược, điều
hòa phối hợp các mối quan hệ và động viên, thuyết phục con người. Chức
năng quản lý bao gồm các việc: xây dựng kế hoạch ( bao gồm cả xác định
mục tiêu cụ thể, chế định kế hoạch, quy định tiêu chuẩn đánh giá và thể chế
hóa), sắp xếp tổ chức ( bố trí tổ chức, phối hợp nhân sự, phân công công việc
v.v.), chỉ đạo , điều hành (hướng dẫn, động viên v.v.), kiểm soát (bảo đảm
hoàn thành mục tiêu, quản lý kết quả, sửa chữa sai sót nếu có).
Như vậy, có thể nói lãnh đạo giống như một nghệ thuật, chắc chắn cần
có tài năng; còn quản lý thiên về mặt kỹ thuật, đòi hỏi phải có kỹ năng, có thể
thơng qua học tập mà trở thành thành thạo.
Trong những tình huống có nhiều biến động, thường cần có bàn tay
lãnh đạo để xử lý và ứng phó với những rủi ro có tính chiến lược. Cịn trong
những thời kỳ ổn định, biến động ít hoặc nhỏ, các quy luật hoạt động vẫn giữ
bình thường thì lại cần những nhà quản lý để tạo ra những năng suất và hiệu
quả cần thiết. Khi công việc phức tạp, đụng chạm đến nhiều người tham gia,
mục đích khơng thật rõ ràng, nhiệm vụ khó khăn, nhân tố ảnh hưởng nhiều thì
cần làm rõ mục tiêu, điều tiết các mối quan hệ, động viên thuyết phục nên
phải có bàn tay lãnh đạo. Cịn với cơng việc tương đối đơn giản thường ít

3


người tham gia, mục tiêu rõ ràng, khó khăn ít, chỉ cần có kế hoạch chu đáo, tổ
chức chặt chẽ, nắm tình hình chắc là là có thể quản lý thành cơng được. Lãnh
đạo quan tâm đến hiệu quả tồn cục, còn quản lý thường chú ý đến hiệu suất
của mỗi cơng việc được giao.
Cịn có nhiều khía cạnh, ngồi chức năng và tính chất, có thể tiếp tục so
sánh những chỗ khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý như về phạm vi và mức
độ tác động, trọng tâm trọng điểm, yếu tố cấu thành, đức tính cần có của nhà
lãnh đạo và nhà quản lý v.v. song điều đáng chú ý nhất là lãnh đạo liên quan
đến mục tiêu dài hạn, đến những nhiệm vụ, chủ trương chiến lược, đến việc
động viên, thuyết phục con người, còn quản lý thường gắn với kế hoạch cụ
thể, tổ chức cụ thể, chỉ đạo cụ thể, nắm chặt tình huống cụ thể. Tuy nhiên,
lãnh đạo và quản lý cũng hoàn toàn không phải là hai khái niệm đối lập, trái
lại, giữa lãnh đạo và quản lý lại có nhiều chỗ tương đồng, gần như bổ sung
cho nhau, công việc quan trọng quốc gia hay chỉ của một doanh nghiệp cũng
cần cả lãnh đạo và quản lý.
Trong thực tế đời sống, giao tiếp, thuật ngữ lãnh đạo và quản lý ở nhiều
thời điểm thường được sử dụng thay thế cho nhau bởi hoạt động lãnh đạo và
quản lý cũng có những nét tương đồng, xuất phát từ đặc trưng hướng đích
trong việc đạt mục tiêu của tổ chức.
Lãnh đạo và quản lý đều phục vụ chung một mục đích cuối cùng, dù là
của một tổ chức kinh tế, văn hóa hay một địa hạt lãnh thổ, một quốc gia, mục
tiêu dài hạn hay ngắn hạn cũng đều là để đạt được mục đích cuối cùng mà
thơi. Các nhiệm vụ kế hoạch có đạt thì các chủ trương chiến lược mới có cơ
thực hiện, sự chỉ đạo thường xuyên có chặt chẽ, đúng quy phạm pháp luật, thì
sự nghiệp mới hồn thành, có hiệu suất cơng việc thì cuối cùng mới có hiệu
quả, Như vậy, lãnh đạo và quản lý chẳng qua chỉ là hai góc độ của một cơng
việc, một cơng vụ. Đương nhiên, lãnh đạo phải đi trước một bước, biết nhìn

xa trơng rộng, vạch đường chỉ lối và nói chung, khơng thể có sai lầm (đáng
kể); lại phải biết theo dõi tiến trình quản lý bằng con mắt chiến lược và cuối
4


cùng đánh giá kết quả chung, không chỉ của quá trình quản lý. Có người mơ
tả một cách nửa nghiêm túc, nửa không rằng nhân tài lãnh đạo là con người
có con mắt hơn người, có khí phách quyết đốn, tinh thần mạo hiểm, dũng khí
sát phạt và ma lực đặc biệt. Nhược điểm của họ là không chú trọng đến chi
tiết của quá trình và thiếu năng lực chuyên nghiệp. Cịn nhân tài quản lý là
người có năng lực chuyên nghiệp về tổ chức, chắp nối, thực thi, tổng hợp,
khơng khn sáo, dám hy sinh.
Trong tiến trình thực hiện một đường lối hay một chủ trương quan
trọng, hai quá trình lãnh đạo và quản lý thường bổ sung cho nhau, đan xen
nhau mà không cản trở nhau. Tuy phải đợi kiểm tra hồn thành mục tiêu cuối
cùng thì hai quá trình mới gần như cùng kết thúc, song quá trình lãnh đạo
( xác định mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, tổ chức động viên v.v.) vẫn phải đi
trước một bước và chiếm nhiều thời gian hơn về giai đoạn đầu, cịn q trình
quản lý (thể chế, kế hoạch, tổ chức, kiểm tra v.v.) chiếm nhiều thời gian hơn ở
giai đoạn sau. Nếu ta coi đơn giản tiến trình tiến hành một công việc lớn nhỏ
là bao gồm 3 khâu: ra quyết định, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết
quả thì khâu ra quyết định chủ yếu thuộc thẩm quyền của người lãnh đạo,
khâu thực hiện thuộc trách nhiệm của người quản lý, còn khâu kiểm tra đánh
giá thì thuộc cả hai chức năng, mỗi chức năng thực hiện theo các tiêu chí
riêng. Hoặc nếu đặt vấn đề đơn giản hơn nữa, chỉ có hai khâu quyết sách và
thực thi thì ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý đã quá rõ ràng.
Tuy nhiên, trong thực tế sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý không
phải lúc nào cũng rành rọt như vậy. Về lý thuyết, người ta phân biệt lãnh đạo
và quản lý theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng, lãnh đạo theo nghĩa rộng bao gồm cả
quản lý (nghĩa hẹp), và trong khái niệm quản lý theo nghĩa rộng lại bao gồm

cả lãnh đạo (nghĩa hẹp). Vì vậy, nhiều người ở nhiều chỗ vẫn cịn dùng lẫn
lộn hai từ lãnh đạo và quản lý. Vả chăng, đối với một quá trình dài thì lãnh
đạo đi trước để ra quyết định, quản lý đi sau thực hiện, song nếu tách q
trình quản lý thành nhiều khâu cơng việc cụ thể thì trong từng việc, người
5


quản lý vẫn phải lựa chọn và ra một số quyết định cụ thể để cấp quản lý dưới
thực hiện.
Ngay trong cơng việc quản lý quốc gia về hành chính, kinh tế, văn hóa,
xã hội và chính trị, Chính phủ vẫn phải luôn luôn ra những quyết định, hoặc
là để xử lý một số vấn đề cụ thể, hoặc là để ban hành một số quy định có tính
thể chế lâu dài, nghĩa là thực hiện một số nhiệm vụ lãnh đạo. Vì vậy vẫn
thường nghe nói Chính phủ lãnh đạo ngành này, ngành kia, địa phương này,
địa phương khác thực hiện nhiệm vụ này, nhiệm vụ nọ. Về phía Đảng lãnh
đạo cũng vậy, có những cơng việc hiện nay chưa cải tiến được, tổ chức lãnh
đạo vẫn phải kiêm quản lý như công tác khoa học xã hội. Rõ ràng là rất khó
tách bạch giữa lãnh đạo và quản lý. Hình thức gọi là lãnh đạo trực tiếp, tồn
diện và tuyệt đối cũng là một cách hòa lẫn lãnh đạo và quản lý, khơng nhiều
hơn, khơng ít hơn.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ BÁO CHÍ TRUYỀN THƠNG HIỆN NAY
Việc nhận diện bản chất và đặc điểm báo chí là việc khó khăn, bởi tính
phức tạp của hiện tượng xã hội nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
nhận thức và hoạt động nghề nghiệp để mang lại hiệu quả cho xã hội. Qua
bản chất và đặc điểm của báo chí truyền thông đặt ra những vấn đề trong công
tác quản lý nhà nước về báo chí, cụ thể là:
Một là, chậm trễ, thiếu kiên quyết và chưa có biện pháp cụ thể khắc
phục một số thiếu sót, sai phạm của báo chí – truyền thơng. Mặc dù đã phát
hiện ra các lệnh lạc của báo chí – truyền thơng từ sớm và đề ra các biện pháp

khắc phục, nhưng không thật sự có hiệu quả, hiệu lực. Nghị quyết Trung ương
5 khóa X(2008) đánh giá: "Trong hoạt động báo chí, một số yếu kém, khuyết
điểm được nhắc nhở nhiều lần nhưng chậm khắc phục, có mặt, có lúc, có nơi
cịn trầm trọng hơn. Một số cơ qụan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa
làm tốt chức năng tư tưởng văn hố, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thơng tin khơng
6


trung thực, thiếu chính xác..."1. Trở lại thời gian trước đó, Chỉ thị 22/CT-TW
ngày 17-10-1997, BCT khóa VIII đã nhận định: “Một bộ phận báo chí bị
khuynh hướng thương mại và cơ chế thị trường chi phối chạy theo thị hiếu
tầm thường đăng tải những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan
hoặc những chuyện vụn vặt. Một số sách, báo, tạp chí, nhất là các số phụ, số
chun đề, xa rời tơn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ, nhất là đối với công
nhân, nông dân; tính chiến đấu và định hướng tư tưởng chưa rõ nét” 2. Chỉ thị
08/CT-TW ngày 31-3-1992 của BBT khóa VII chỉ ra căn bệnh trong hoạt
động báo chí nước ta là khuynh hướng thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận
đơn thuần dẫn tới đua nhau đăng và phát những tin, bài, hình ảnh giật gân,
câu khách. Chỉ thị 63/CT-TW ngày 25-7-1990 được BBT khóa VI đã nêu rõ:
Một số cơ quan báo, tạp chí, nhà xuất bản khơng thực hiện đúng tơn chỉ, chức
năng của mình; một số cơ quan báo chí, truyền thơng, nhà xuất bản có khuynh
hướng "giật gân" câu khách kiếm tiền cho ra thị trường những ấn phẩm xấu,
gây hại lớn đến việc xây dựng con người mới, nền văn hóa mới, làm cho dư
luận bất bình; có báo, tạp chí đăng quảng cáo q nhiều, quảng cáo cả cho kẻ
lừa và làm hàng xấu. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII "Về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" và Nghị
quyết Trung ương 5 khóa IX cũng chỉ ra khuynh hướng "thương mại hóa" khá
phổ biến trên báo chí – truyền thơng.
Có thể thấy, một vấn đề phổ biến được nhắc đến trong các văn kiện của

Đảng đó là: Khuynh hướng thương mại hố trong báo chí, truyền thơng.
Khuynh hướng “thương mại hóa”thể hiện trên các mặt: nội dung, tổ
chức và phát hành. Về nội dung, biểu hiện rõ nhất của xu hướng thương mại
hóa chính là xu hướng phi chính trị, phi định hướng trong thơng tin, chỉ chú ý
đến lợi ích kinh tế, vụ lợi, phục vụ động cơ cá nhân của người làm báo. Khi
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khố X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007, tr.42.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007, tr.42.
1

7


đã bị thương mại hóa, trong nội dung thường là phản ánh sai lệch bản chất sự
việc, thông tin theo kiểu tự nhiên, hướng vào tính hiếu kỳ của người đọc; đặt
lợi ích kinh tế của lên trên hết, chỉ cốt bán được nhiều báo, tăng lợi nhuận
không tuân thủ đường lối của Đảng và Nhà nước; đưa nhiều tin tức từ bên
ngồi khơng phù hợp với bản sắc dân tộc Việt Nam, khoét sâu chuyện đời tư
của những người nổi tiếng, chuyện tình dục, tội ác được miêu tả chi tiết gây
tác hại xấu tới xã hội; không lường hết các tác hại.
Về mặt tổ chức và ý thức kỷ luật, “thương mại hóa” là việc khơng thực
hiện đúng tơn chỉ, mục đích của tờ báo đã được phê duyệt, chạy theo kinh
doanh, bán giấy phép cho tư nhân bất chấp Luật Báo chí đăng cả tin bài trái
với quan điểm của Đảng ta. Có báo liên doanh với nước ngoài, để người bên
ngoài can thiệp sâu vào nội dung nhằm phục vụ lợi ích của họ.
Thương mại hóa cịn thể hiện trong cơng tác phát hành: báo chí –
truyền thông chỉ tập trung ở đô thị - nơi tập trung số người có điều kiện mua
sách báo, cịn ở nơng thơn, vùng sâu, vùng xa báo chí – truyền thơng đến ít,

mà lý do căn bản vì người dân khơng có tiền mua sách báo.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, thương mại hóa báo chí vừa là vấn
đề thực tiễn đồng thời lại mang tính lý luận. Một mặt, báo chí phải bảo đảm
nhiệm vụ chính trị; mặt khác, phải cạnh tranh thông tin, lo tăng số lượng phát
hành để phát triển, duy trì sự ổn định của cơ quan báo chí. Thực tiễn cho thấy,
hoạt động báo chí vừa chịu sự tác động của hệ thống các quy luật phát triển
văn hóa - tư tưởng, vừa chịu tác động của hệ thống các quy luật kinh tế. Nếu
chỉ chú trọng tới lợi ích kinh tế sẽ dẫn tới thương mại hóa hoạt động báo chí,
làm báo chí xa rời nhiệm vụ chính trị. Do vậy, trong cơng tác quản lý nhà
nước về báo chí cần chú trọng hơn các quy định, biện pháp ngăn ngừa tác hại
từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm ảnh hưởng đến định hướng tư tưởng văn hóa. Tuy nhiên, nếu chỉ đề cao vai trị báo chí ở phương diện tư tưởng văn hóa thì báo chí sẽ khơng phát huy hết khả năng đóng góp của mình với xã
hội.
8


Có thể nói rằng, với nội hàm rộng như vậy, thương mại hóa lại trở
thành nguyên nhân của một số khuyết điểm khác trong hoạt động báo chí –
truyền thơng.
Một khuyết điểm tuy không phổ biến, nhưng cần được nêu lên là những
vi phạm về chính trị, đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp của một số cán bộ báo
chí – truyền thông. Những vi phạm ấy thể hiện qua những hiện tượng, những
khía cạnh khác nhau. Một số cán bộ thiếu ý thức chính trị, thiếu trách nhiệm
đã để xuất hiện trên mặt báo những thông tin tác động xấu về mặt chính trị và
dư luận xã hội hay lộ bí mật quốc gia. Nguy hiểm hơn, một số người làm báo
đã vì đồng tiền mà "bán linh hồn cho quỷ dữ", như lăng xê các giám đốc làm
ăn trái pháp luật thành người năng động, sáng tạo; viết bài bênh che cho các
hành vi trái pháp luật, vi phạm chính sách, thậm chí thanh minh cho tội phạm;
dựng chuyện, thổi phồng khuyết điểm của doanh nghiệp đang gặp khó khăn;
bịa đặt, tung tin bất lợi về các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp; nhân danh
cơ quan báo chí, hoặc tổ chức HNB để gửi công văn cản trở quá trình điều tra,

xử lý các sai phạm;… Mặc dù chỉ là một bộ phận nhỏ, là những "con sâu làm
rầu nồi canh", nhưng gây ảnh hưởng, tác hại rất xấu đến uy tín của báo chí,
làm cho dư luận xã hội và những người trung thực có lương tri và các tổ chức
làm ăn chân thật lo lắng, bất bình.
Tất cả những thiếu sót, khuyết điểm nêu trên thuộc trách nhiệm của các
cơ quan báo chí - xuất bản, của một số nhà báo, của các cơ quan chủ quản
báo,truyền thơng nhưng cũng có phần trách nhiệm của Đảng, trước hết là các
cấp ủy đảng đối với cơ quan báo chí, truyền thơng thuộc quyền.
Hai là, việc sắp xếp lại hệ thống báo chí – truyền thơng chưa đạt được
yêu cầu đề ra. Phải nói ngay rằng, tổng số báo chí – truyền thơng các loại so
với tổng số dân của nước ta thì chưa phải thuộc loại cao. Nhưng, từ khi đổi
mới, đã có tình trạng "thừa" tương đối báo chí – truyền thơng. Biểu hiện rõ
nhất là tình trạng trùng lắp nội dung giữa các báo; sự khác biệt giữa các báo,
giữa báo và tạp chí, giữa báo ngày với báo tuần, báo Thứ bảy, báo Cuối tuần,
9


báo Chủ nhật…, giữa số chính và phụ trương, số chun đề khơng rõ. Các cơ
quan báo nói, báo hình lại có tạp chí, báo nói lại có báo in, báo hình. Từ khi
chia tách địa giới hành chính các tỉnh, nhiều tỉnh nhỏ cũng có đài phát thanh truyền hình, nhưng nội dung nghèo nàn, chủ yếu là tiếp sóng đài Trung ương.
Nhiều ấn phẩm khoa học chuyên ngành hẹp, số bản in rất ít, đáng ra chỉ là nội
san, thông tin khoa học… cũng được nâng lên thành tạp chí (đơn vị báo chí
cấp 2). Nhiều hội nghề nghiệp, sở thích ảnh hưởng xã hội hạn hẹp cũng ra tạp
chí.
Tổ chức quản lý các cơ quan báo chí cũng còn một số bất cập. Báo
Nhân dân trực thuộc BCHTW Đảng, cịn Đài Truyền hình Việt Nam và Đài
Tiếng nói Việt Nam lại là cơ quan trực thuộc Chính phủ. Ở các tỉnh, thành ủy,
báo của Đảng bộ tỉnh trực thuộc tỉnh, thành ủy, còn Đài phát thanh và truyền
hình lại trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh có Đài
Truyền hình riêng và Đài phát thanh riêng, còn ở các tỉnh, thành phố khác thì

ghép chung thành Đài phát thanh và truyền hình. Đài Truyền hình Việt Nam
và Đài Tiếng nói Việt Nam là cấp trên về mặt nghiệp vụ của các Đài phát
thanh và truyền hình tỉnh, thành phố, nhưng khơng có chức năng quản lý nhà
nước đối với cấp dưới. Chương trình truyền hình Qn đội nhân dân do Tổng
cục chính trị Quân đội nhân dân chỉ đạo, Chương trình truyền hình an ninh do
Tổng cục II Bộ Công an chỉ đạo, Đài Truyền hình Việt Nam chỉ làm nhiệm vụ
phát sóng. Một số quận, huyện có bộ phận truyền hình thực hiện cơng đoạn
ghi hình rồi chuyển về Đài truyền hình tỉnh, thành phố phát; nhiều quận,
huyện khác khơng có bộ phận này. Hệ thống đài truyền thanh quận, huyện
được coi là cơ quan báo chí, nhưng cán bộ, phát thanh viên các đài này không
được coi là nhà báo.
Hiện nay, vẫn còn sự chênh lệch lớn về sự hưởng thụ thơng tin báo chí
giữa các khu vực, địa bàn, vùng, miền. Mặc dù hầu hết các cơ quan, ban,
ngành trong hệ thống chính trị đều có cơ quan báo chí, nhưng chất lượng chưa
tương xứng, cịn trùng chéo về tơn chỉ, mục đích, nội dung, đối tượng phục
10


vụ. Ngồi ra, chưa có nghiên cứu, phân loại, xác định tính chất, nhiệm vụ của
báo chí để có cơ chế, chính sách phù hợp.
Ba là, chế độ, chính sách đối với hoạt động báo chí – truyền thơng
trong hồn cảnh mới chưa được xem xét để ban hành đầy đủ, đồng bộ và kịp
thời. Mặc dù hằng năm Đảng và Nhà nước dành một khoản ngân sách không
nhỏ để đầu tư và tài trợ cho báo chí – truyền thơng nhưng cơ chế thực hiện
các chính sách này chưa được quy định rõ ràng và hợp lý. Do đó, việc giải
quyết thường thiếu kịp thời, chưa thật đúng hướng, đúng địa chỉ, nên chưa
phát huy được hiệu quả.
Một số vướng mắc, bất cập trong chế độ, chính sách đối với báo chí
như tiền lương, thuế, nhuận bút, khen thưởng… chậm được giải quyết. Có
những quy định về thơng tin khơng cịn phù hợp, hoặc khơng đủ cụ thể, rõ

ràng (như những gì được phép cơng khai, những gì cần giữ bí mật; điều gì
cấm và điều gì khơng nên cấm) gây lúng túng cho cơ quan chỉ đạo, quản lý.
Với những thiếu sót và khuynh hướng tiêu cực trong hoạt động báo chí
– truyền thơng giai đoạn vừa qua, có thể thấy rằng, tất cả các thiếu sót đã
được chỉ ra nhiều lần (không riêng khuynh hướng thương mại hóa) nhưng
chưa có biện pháp hữu hiệu, hoặc có nhưng hiệu quả cịn thấp. Đó là những
hạn chế cơ bản trong lãnh đạo đối với báo chí – truyền thơng thời gian qua.
Bốn là, quản lý báo chí trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của truyền
thơng xã hội địi hỏi phải có phương pháp tiếp cận mới. Trên bình diện quốc
tế, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã làm thay đổi cách thức truyền tải
và tiếp nhận thông tin trên tồn cầu. Tồn cầu hóa thơng tin đang đặt ra cho
chúng ta nhiều vấn đề trong công tác chỉ đạo, quản lý thông tin. Thông tin ở
khắp mọi nơi trên thế giới được truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng tới
công chúng thông qua in-tơ-nét, với những dạng thức truyền thơng mới, trong
đó mạng xã hội đang chiếm ưu thế. Do vậy, quản lý báo chí trong bối cảnh
truyền thơng xã hội phát triển địi hỏi phải hồn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật để tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ
11


đạo trong việc chi phối, định hướng dư luận xã hội; là việc làm chủ thông tin
thông qua gia tăng cung cấp thơng tin chính thống cho báo chí, là làm rõ cơ
chế mở rộng tiếp cận thông tin và phát huy dân chủ trong thông tin.
Năm là, vấn đề phát huy sức mạnh của báo chí trong định hướng dư
luận xã hội, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ các giai tầng trong xã hội tích cực tiến
hành thắng lợi cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. u cầu
khách quan đó địi hỏi hoạt động báo chí phải nâng cao hơn nữa chất lượng
chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng giáo dục của báo chí, hướng báo chí
vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng
bước xây dựng con người mới, lối sống mới, làm cho những nguyên lý cách

mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Ngồi ra cịn cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan
báo chí và cơ quan quản lý để làm tốt hơn nữa chức năng quản lý nhà nước về
báo chí, kịp thời chấn chỉnh, xử lý những thiếu sót, khuyết điểm, tạo điều kiện
để báo chí phát triển.
III. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI BÁO CHÍ - TRUYỀN THƠNG THỜI GIAN QUA

Hơn 20 năm đổi mới đã cho chúng ta một số kinh nghiệm về sự lãnh
đạo của Đảng đối với báo chí – truyền thơng:
Một là, giữ vững quan điểm, tích cực đổi mới báo chí – truyền thơng,
song khơng xa rời các nguyên tắc. Đây là bài học kinh nghiệm cơ bản, hàng
đầu trong đổi mới lãnh đạo báo chí – truyền thơng. Nó bắt đầu từ bài học lớn
mà Đảng ta đã đúc kết. Đi vào kinh tế thị trường, mở cửa với bên ngồi, nhất
thiết khơng được xem nhẹ hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng. Trái lại, càng
đi vào kinh tế thị trường càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng. Đổi mới nhưng khơng xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc, không
phủ nhận thành tựu của quá khứ; đổi mới những chủ trương và bước đi hợp
lý, có tính đến các mối quan hệ biện chứng nhiều mặt.
12


Trước hết, để quan điểm báo chí truyền thơng của Đảng được nắm
vững và quán triệt đầy đủ thì các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các
đồn thể từ Trung ương tới địa phương trước tiên là những cơ quan, đoàn thể
địa phương trực tiếp là cơ quan chủ quản; các cán bộ làm cơng tác báo chí –
truyền thơng phải nhận thức sâu sắc vai trị, nhiệm vụ của báo chí trong sự
nghiệp cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay, thực hiện cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Bài học đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí truyền thông, một lĩnh vực nhạy cảm, tác động sâu rộng đến toàn
xã hội và cả quan hệ quốc tế. Trong q trình đổi mới khó tránh khỏi những
lệch lạc, không quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng trong q trình đổi mới,
trong đó có lĩnh vực tư tưởng, báo chí. Chẳng hạn, đã có ý kiến phủ nhận vai
trị lãnh đạo của Đảng đối với báo chí – truyền thơng, địi "tự do báo chí",
"dân chủ vơ giới hạn", địi ra báo chí - xuất bản tư nhân…, hoặc phủ nhận
những đóng góp to lớn của báo chí - xuất bản cách mạng nước ta trong quá
khứ. Ở mức thấp hơn là tình trạng để tư nhân chi phối một số khâu trong hoạt
động của một vài tờ báo,Nxb, khuynh hướng xa rời tơn chỉ, mục đích…
Đảng ta đã sớm nhận thấy tác hại từ những sai phạm của báo chí –
truyền thơng đem lại. Đảng ta ln nắm vững quan điểm báo chí vơ sản, vừa
khắc phục quan điểm bảo thủ, quyết tâm đổi mới mạnh mẽ, không ngừng,
đồng thời không xa rời nguyên tắc:
Đảng lãnh đạo báo chí, truyền thơng là ngun tắc hàng đầu, bất di bất
dịch. Chính trong điều kiện mở cửa nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị
trường và mở cửa, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thông càng
cần thiết hơn bao giờ hết. Xã hội càng phát triển, thơng tin báo chí càng có vai
trị to lớn. Với nội dung thơng tin có định hướng đúng đắn chân thật, có sức
thuyết phục, báo chí – truyền thơng có khả năng hình thành dư luận xã hội,
dẫn đến hành động xã hội phù hợp sự vận động của hiện thực theo những
chiều hướng có chủ định. Báo chí – truyền thơng khơng chỉ là vũ khí tư tưởng
13


sắc bén, lợi hại mà còn là người cổ động tập thể, người tổ chức tập thể, điều
này càng đúng trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.
Hai là, phối hợp chặt chẽ giữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước theo một cơ chế rõ ràng.
Lãnh đạo và quản lý là hai công việc ít nhiều khác nhau, nhưng trong

điều kiện nước ta, chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như quản lý
của Nhà nước là bằng pháp luật và chính sách, vừa đảm bảo quyền tự do báo
chí, quyền được tạo điều kiện và được bảo vệ khi hành nghề của nhà báo, thì
lãnh đạo là định hướng mục tiêu, đề ra nguyên tắc thực hiện mục tiêu và kiểm
tra việc thực hiện những mục tiêu, những nguyên tắc đó của cơ quan quản lý.
Là Đảng cầm quyền, các tổ chức đảng (Đảng đoàn, Ban cán sự đảng, đảng bộ,
chi bộ…) nằm ngay trong cơ quan quản lý, cơ quan báo chí – truyền thơng,
trong tổ chức HNB; Đảng cử người của mình vào các chức vụ quan trọng
trong bộ máy quản lý báo chí – truyền thơng. Vì vậy, cả cơ quan lãnh đạo và
quản lý đều là các đảng viên của Đảng cơng tác tại đó; sự phối hợp chặt chẽ
giữa lãnh đạo và quản lý - xét cho cùng - là từ mục tiêu chung, từ ý thức
Đảng, từ các nguyên tắc tổ chức của Đảng và nhiệm vụ của đảng viên.
Tuy nhiên, cũng đã có tình trạng phối hợp chưa tốt giữa cơ quan chức
năng của Đảng và cơ quan chức năng của Nhà nước trong q trình lãnh đạo
báo chí – truyền thơng: Cơ quan chức năng của Đảng (BTTVHTƯ, BTGTW,
Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành ủy) giúp cấp ủy chỉ đạo về nội dung, phương
hướng tun truyền trên báo chí – truyền thơng theo đường lối của Đảng,
nhưng không trực tiếp tham gia bàn bạc và quyết định việc thực hiện luật
pháp, về phân phối ngân sách tài trợ, nội dung, chương trình đào tạo nhà báo,
chỉ tiêu, đối tượng tuyển sinh… Từ đó dễ nảy sinh hiện tượng tiêu cực và lộn
xộn trong hoạt động báo chí – truyền thơng. Đặc biệt, khi tham gia xây dựng
chế độ lương, do khơng có sự phối hợp giữa cơ quan lãnh đạo và quản lý, nên
thang lương nhà báo, biên tập viên có nhiều điểm không phù hợp đã được
kiến nghị nhiều lần nhưng chưa được giải quyết. Đó cũng là nguyên nhân dẫn
14


đến một bộ phận khơng ít nhà báo xa rời "Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo
chí", gây tác hại xấu đến uy tín báo chí, làm cho xã hội phiền lịng.
Có thể khẳng định rằng, khi nào và trên vấn đề gì sự phối hợp giữa lãnh

đạo và quản lý đối với báo chí – truyền thơng khơng chặt chẽ, theo một cơ chế
chặt chẽ sẽ gây nên sự chồng chéo, chậm trễ trong công việc, nhiều khi để trống
các vấn đề quan trọng khơng có cơ quan nào trực tiếp lo liệu, theo dõi, giải quyết.
Ba là, phải lãnh đạo, quản lý báo chí theo phương pháp dân chủ và
trên cơ sở luật pháp.
Trong công cuộc đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội vừa là mục tiêu
vừa là động lực của đổi mới. Đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới phương
thức lãnh đạo, quản lý đối với báo chí – truyền thơng theo phương pháp dân
chủ là bài học lớn trong nâng cao hiệu quả lãnh đạo báo chí – truyền thơng
của Đảng. Mặt khác, dân chủ chỉ có thể thực hiện trên cơ sở pháp luật.
Báo chí – truyền thơng thời kỳ đổi mới đã thực sự khởi sắc, nhất là từ
khi Luật Báo chí được ban hành. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí truyền
thơng được dân chủ hóa đã phát huy cao độ khả năng của báo chí – truyền
thơng theo Luật Báo chí.
Báo chí – truyền thơng khơng bị kiểm duyệt chi tiết trước khi in,
phát sóng. Giám đốc,Tổng biên tập được toàn quyền và tự chịu trách nhiệm
về nội dung, hình thức của sản phẩm báo chí – truyền thơng và các hoạt
động của cơ quan báo chí – truyền thông theo quy định của pháp luật. Các
kiến nghị của cơ quan báo chí - xuất bản được cấp ủy đảng, cơ quan nhà
nước xem xét, giải quyết theo thẩm quyền: Các phát hiện của báo chí về
những vấn đề mới trong đời sống, những bất cập trong quản lý của các
ngành, các cấp, những hiện tượng tiêu cực của một số tổ chức và cá nhân
đều được các cơ quan lãnh đạo, quản lý xem xét, yêu cầu các cơ quan và
người lãnh đạo trực tiếp phải giải quyết và trả lời báo chí, cơng luận. Mỗi
năm đã có hàng trăm lượt Thủ tướng Chính phủ u cầu các cơ quan, đơn
vị giải quyết các vấn đề báo chí nêu. từ đó, báo chí tích cực hơn trong thâm
15


nhập thực tế, phát hiện vấn đề; bạn đọc cũng tin tưởng báo chí và cộng tác

nhiệt tình hơn với báo chí. Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Trung ương
và các địa phương cũng thường xuyên gặp gỡ, lắng nghe ý kiến đóng góp,
trả lời chất vấn của các nhà báo, tiếp nhận kiến nghị của các cơ quan báo
chí, tạo nên khơng khí cởi mở, dân chủ giữa lãnh đạo và giới báo chí.
Mặt khác, Đảng cũng yêu cầu các sai phạm của cơ quan báo chí –
truyền thông, của nhà báo, cán bộ biên tập, của cơ quan chủ quản báo chí và
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí truyền thơng phải được xử lý nghiêm
theo đúng pháp luật, không được bao che, xử lý nội bộ. Việc này góp phần
tăng cường kỷ cương, đảm bảo sự cơng bằng trong lĩnh vực báo chí - mặt
khơng thể thiếu của dân chủ.
Quản lý báo chí – truyền thông bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở
luật pháp chỉ đạt hiệu quả tối ưu khi tìm ra và thực hành các hình thức lãnh
đạo, quản lý thực sự dân chủ, cởi mở, tôn trọng hoạt động nghề nghiệp của
báo chí – truyền thơng trong khn khổ pháp luật.
Bốn là, chọn đúng và quản lý chặt đội ngũ cán bộ phụ trách báo chí –
truyền thơng.
Đây là bài học về công tác cán bộ của Đảng, thực hiện đúng đắn
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ
chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Vấn đề lựa chọn, bố trí và quản lý cán bộ ln là bài học lớn trong suốt
tiến trình cách mạng, nhất là ở giai đoạn hiện nay, vì 'cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Đối với báo chí – truyền thơng, lĩnh vực địi hỏi người phụ trách phải
có lập trường, quan điểm vững vàng, nắm vững luật pháp, giỏi chun mơn
và có uy tín trong giới - bài học này đặc biệt quan trọng.

16



Người Giám đốc, Tổng biên tập giữ vai trò quyết định đối với tờ báo, là
người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí về mọi
mặt, bảo đảm thực hiện tơn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách
nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động
của cơ quan báo chí – truyền thơng.
Quan điểm, bản lĩnh chính trị của Giám đốc, Tổng biên tập quyết định
tính chất, quan điểm của tờ báo. Hơn nữa, trong cơ chế mới, người giám đốc,
Tổng biên tập khơng những phải có phẩm chất chính trị, chun mơn giỏi, mà
cịn phải là người quản lý giỏi. Vói đặc thù nghề nghiệp báo chí, nếu khơng
bố trí đúng người đứng đầu thì sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí truyền
thơng trên thực tế khơng thực hiện được.
Một số hạn chế, sai phạm của báo chí – truyền thơng trong thời gian
qua có ngun nhân là việc bố trí, bổ nhiệm cán bộ quản lý các cơ quan báo
chí truyền thơng chưa được quan tâm đầy đủ, đơi khi thiếu cân nhắc, thận
trọng. Mặc dù đã có những quy định cụ thể về cán bộ phụ trách, song một số
cơ quan, địa phương vẫn bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí truyền
thơng khơng đúng tiêu chuẩn. Một số người không đảm nhận được công việc
gì lại được bố trí sang phụ trách. Việc thay đổi, bổ nhiệm Giám đốc,Tổng biên
tập, Phó tổng biên tập các báo, tạp chí của một số ngành, địa phương khơng
thực hiện đầy đủ quy trình, khơng có sự thỏa thuận trước của cơ quan quản lý
báo chí truyền thơng.
Bài học quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ phụ trách báo chí, truyền thơng
kiểm tra đội ngũ này thường xuyên và uốn nắn kịp thời sự lệch lạc của họ,
kiên quyết xử lý các sai phạm, khi cần thiết phải thay ngay… có ý nghĩa sâu
sắc với cơng tác lãnh đạo báo chí – truyền thơng trong giai đoạn hiện nay.
[_ Quản lý nhà nước về báo chí phải bắt kịp trình độ phát triển cao của
phương tiện kỹ thuật, công nghệ truyền thông hiện đại. Bản thân sự quản lý
phải chứa đựng hàm lượng công nghệ cao và đội ngũ cán bộ quản lý phải hiểu
và sử dụng được những cơng nghệ đó. Điều này kéo theo việc các văn bản

17


quy phạm pháp luật được ban hành có khn khổ pháp lý phù hợp với nhiều
yêu cầu, trong đó có yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ truyền thông.
_Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí phải phù hợp với cơ chế vận
hành trong điều kiện kinh tế thị trường. Nhiều cơ quan báo chí hiện nay đang
hướng tới mục tiêu tự hoạch toán kinh tế do vậy Pháp luật phải điều chỉnh kịp
thời những tác động của thị trường và quy luật cung cầu sao cho nền báo chí
vừa đảm bảo đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của quần chúng nhưng đồng thời
không được dẫn đến khuynh hướng thương mại hóa một cách tràn lan và sự
lũng đoạn của đồng tiền đối với báo chí.
_ Tăng cường thực lực của tồn bộ nền báo chí truyền thơng nói chung,
đặc biệt là thực lực của các đơn vị báo chí đầu đàn, để truyền thơng nhà nước
đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin của dư luận. Theo đó, hệ thống lãnh đạo
quản lý báo chí cần quan tâm tới vấn đề tăng cường chất lượng nguồn nhân
lực; nền tảng công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật; nguồn lực tài chính; xây
dựng cơ cấu hệ thống hợp lý; tạo hành lang quản lý nhà nước rõ ràng, thuận
tiện ...
Nếu công chúng không thỏa mãn những thông tin mà hệ thống báo chí
truyền thơng hiện có cung cấp, người ta sẽ có xu hướng tìm thêm thơng tin ở
hệ thống truyền thơng khác. Vì thế giải pháp tốt nhất là xây dựng được một hệ
thống báo chí truyền thơng nhà nước thật mạnh. Khi đó sẽ khơng cịn cơ sở,
hoặc ít ra là giảm thiểu lý do địi hỏi có thêm các đơn vị báo chí truyền thơng
ngồi khu vực nhà nước và đồn thể cách mạng, tổ chức nghề nghiệp.
_ Trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà xã hội có sự chuyển biến liên tục
thì các văn bản về quản lý báo chí cần có sự đồng bộ cần thiết cũng như phù
hợp với thực tiễn, nếu không sẽ dễ dẫn đến việc vấp phải sự phản ứng từ dư
luận xã hội.
VD: Vừa qua chúng ta đề xuất việc xử phạt nhà báo 100 triệu đồng, cơ

quan báo chí 200 triệu đồng khi đăng tải thơng tin sai, thiếu kiểm chứng về
lĩnh vực thống kê, thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên ngay khi
18


công bố quyết định này, công chúng đã ngay lập tức bày tỏ những suy nghĩ
khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng việc đưa ra mức phạt như vậy với báo chí
chỉ riêng trong lĩnh vực thống kê, thị trường, giá cả hàng hóa, dịch vụ dễ
khiên các ngành khác “tị nạnh”, cũng mong muốn có chế tài xử phạt báo chí
riêng cho mình, dễ tạo ra tiền lệ xấu cũng như làm hệ thống luật pháp thêm
phần rắc rối phức tạp.
_ Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người dân rất dễ dàng trong
việc tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó rất nhiều là khơng
chính thống. Từ đó đặt ra vấn đề cần xây dựng 1 hệ thống pháp luật nhằm
nhanh chóng phát hiện, hạn chế những thơng tin xấu, có tính chất phản động
của các tổ chức trong và ngoài nước ... đi ngược lại chủ trương phát triển
chung, đặc biệt là chú trọng vào những biện pháp tuyên truyền, nâng cao nhận
thức người dân khi đứng trước những thông tin kiểu này.
_ Cơng tác lãnh đạo quản lý báo chí cần xác định rõ bản chất của hoạt
động báo chí. Đây được xem là thứ quyền lực thứ 4, đứng độc lập với hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp, do đó báo chí cần có quyền được giám
sát, kiểm tra với các hoạt động trên. Báo chí cần được nói những gì mình cho
là đúng, về những mặt trái của xã hội mà không phải chịu sức ép từ các cơ
quan, đơn vị chủ quản của mình từ Trung ương tới địa phương. Do đó hệ
thống luật pháp cần được xây dựng rõ ràng, cung cấp đầy đủ quyền lợi và
nghĩa vụ của người làm báo 1 cách chi tiết trong mọi trường hợp. Làm được
điều này, nền báo chí nước nhà mới có cơ hội vươn lên trở thành nền báo chí
chuyên nghiệp, báo chí tự do đích thực.
VD: Hoạt động kiểm duyệt ở nước ta trong nhiều trường hợp q chặt
chẽ khiến cho báo chí vơ tình không bắt kịp sự vận động của xã hội, không

đáp ứng được nhu cầu thông tin từ dư luận.]

19


IV. GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ BÁO
CHÍ – TRUYỀN THƠNG
1. Những u cầu đặt ra của quản lý báo chí - truyền thơng hiện
nay
Thứ nhất, quản lý báo chí truyền thơng cần chủ động, khơng nên bị ngập
vào xử lý tình huống. Nếu nhìn lại tồn bộ hoạt động báo chí - truyền thơng
trong những năm gần đây, có thể thấy rằng các sai sót chính trị nghiêm trọng,
tức là cơng khai đối lập, đi ngược lại với lợi ích tồn cục, lợi ích chung, hầu
như khơng có. Các sai sót, khuyết điểm phần nhiều là hệ quả của cái nhìn thiên
lệch, khơng tồn diện. Theo cách nói thơng thường, thì có khuyết điểm ở dạng
" đúng - sai", nhưng còn nhiều hơn là dạng khuyết điểm nhìn theo khía cạnh
"nên - khơng nên". Ngun nhân sâu xa của các khiếm khuyết loại này trong
hoạt động báo chí - truyền thơng nằm trong sự thiếu hụt khả năng nhìn nhận và
phản ánh đúng đắn, hài hịa các nhóm lợi ích trong xã hội, nghiêng về nhóm lợi
ích này mà khơng thấy các lợi ích khác, nhất là khơng thấy những lợi ích cịn
lớn hơn đối với tồn xã hội. Một số khuyết điểm có ngun nhân do bị nhóm
lợi ích tiêu cực mua chuộc. Các khuyết điểm này khơng nhiều, nhưng khó phát
hiện, khó chứng minh, và điều đáng nói nhất là khuyết điểm loại này có thể gia
tăng khi xung đột lợi ích từ nay ngày càng nhiều trong xã hội.
Trong bối cảnh các nhóm lợi ích nảy nở nhanh chóng, đan xen phức
tạp, hoạt động báo chí - truyền thơng khó tránh khỏi các sai sót. Và điểm yếu
nhất của quản lý báo chí thời gian qua (bên cạnh các ưu điểm lớn) là: Chạy
sau tình huống, sa vào xử lý tình huống, thường xun phải xử lý khắc phục
các tình huống khơng tốt đã xảy ra trong thông tin. Tất nhiên, không bao giờ
có thể lường hết được các tình huống, vì vậy việc chỉ đạo để xử lý các tình

huống ln luôn là công việc cần thiết và là phần công việc hàng ngày của
công tác lãnh đạo, quản lý báo chí - truyền thơng. Tuy nhiên, nếu việc xử lý
tình huống lấn át công việc khác trong chỉ đạo, quản lý, thì rõ ràng là có vấn
đề cần suy nghĩ.
20


Cần nâng cao tính chủ động khơng chỉ trong chỉ đạo nội dung thông tin,
mà cả trong quản lý nhà nước đối với báo chí - truyền thơng. Quản lý nhà
nước chưa theo kịp với các thay đổi trong lĩnh vực truyền thông.
Thứ hai, cần đầu tư, quan tâm đúng mức hơn đến việc nhanh chóng
tăng cường tiềm lực, năng lực của hệ thống báo chí truyền thơng hiện có, để
hệ thống này có thể đáp ứng được các thách thức trên mặt trận thông tin.
Tất nhiên, với hệ thống báo chí - truyền thơng, vấn đề quan trọng nhất
là phẩm chất chính trị của hệ thống đó. Do vậy, công tác định hướng và chỉ
đạo nội dung là công việc hàng đầu. Mặt khác, giờ đây cần nhìn nhận hệ
thống này như một ngành công nghiệp thông tin xã hội có những điểm đặc
thù, nhưng cũng có những điểm chung với các ngành công nghiệp khác.
Ngành công nghiệp thông tin xã hội này chỉ có tiềm lực mạnh nếu: Có nhân
lực chất lượng cao; Có nền tảng cơng nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt; Có
nguồn lực tài chính mạnh; Có cơ cấu hệ thống hợp lý; Được vận hành trong
hành lang quản lý nhà nước rõ ràng, thuận tiện. Nếu các khía cạnh trên khơng
đạt u cầu, thì điều tất yếu dẫn đến là ngành cơng nghiệp thông tin xã hội
này không theo kịp sự phát triển nhanh của xã hội, sẽ tăng nguy cơ xuất hiện
và vận hành một hệ thống truyền thơng khác khơng hồn toàn đi theo định
hướng xã hội như hệ thống hiện có.
2. Các cơ hội đi kèm thách thức trong quản lý hoạt động báo chí truyền thơng.
Khi nói đến những yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng rất mạnh đến
hoạt động báo chí - truyền thơng, chúng ta dự báo các thách thức nảy sinh từ
các yếu tố khách quan đó. Khơng coi thường các thách thức, cũng khơng nên

cường điệu chúng. Quan sát sâu hơn, ta có thể thấy vào thời điểm hiện tại và
trong một thời gian nữa, các thách thức này chưa hẳn đã gay gắt, vì những lý
do sau:
- Hiện nay các mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc. Các thành tựu của công
21


cuộc đổi mới đã được khẳng định. Đồng thuận xã hội lớn, lợi ích chung áp
đảo, các nhóm lợi ích tiêu cực khơng có nhiều cơ hội, nhất là khơng có cơ hội
cơng khai đối địch với lợi ích chung. Cũng chính vì vậy ít có khả năng các
nhóm lợi ích tiêu cực nắm được phương tiện báo chí và không thể tác động
mạnh đến công chúng, dư luận.
- Năng lực hoạt động báo chí - truyền thơng trong xã hội mạnh lên là
điều tốt. Nó chỉ trở thành vấn đề quan ngại nếu như chúng ta không chi phối,
sử dụng các tiềm lực đó, mà để các tiềm lực đó bị lợi dụng vào các hoạt động
truyền thơng tiêu cực. Hiện nay, năng lực hoạt động truyền thông trong xã hội
đang theo đuổi mục tiêu cộng tác với hệ thống truyền thơng chính thống để
đạt được lợi ích kinh doanh, chưa có biểu hiện tham gia vào các hoạt động
nhằm mục đích chính trị - xã hội.
- Dù chưa thật sự chủ động, chưa đi trước được tình hình, nhưng cơng
tác quản lý truyền thơng bước đầu đã có những kinh nghiệm. Nền Báo chí Truyền thơng chính thống phát triển khá nhanh và cịn có tiềm năng phát triển
mạnh nếu được tạo các điều kiện tốt hơn về cơ chế hoạt động.
3. Một số giải pháp cho công tác quản lý báo chí – truyền thơng
Thứ nhất, tăng cường "pháp trị" trong quản lý báo chí - truyền thơng. Ở
đây ý nói đến việc chỉ đạo, lãnh đạo, nắm giữ hoạt động báo chí - truyền
thơng thơng qua các cơng cụ luật pháp. Điều này hồn tồn khơng có nghĩa
giảm nhẹ sự chỉ đạo chính trị thường xun với hoạt động báo chí - truyền
thơng. Các cơng cụ pháp lý khơng thể thay thế chỉ đạo chính trị, nhưng là
công cụ chủ yếu, cơ bản của lãnh đạo chính trị đối với báo chí - truyền thơng

trong bối cảnh mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực ngôn luận.
Tăng cường công cụ này cũng là tăng cường sự lãnh đạo chính trị đối với hoạt
động truyền thông. Các quy định pháp lý đối với hoạt động báo chí - truyền
thơng càng đầy đủ, chi tiết, thì càng có tác dụng khuyến khích hoạt động hữu
ích, đồng thời ngăn ngừa các sai phạm của hoạt động báo chí- truyền thơng.
Cả khi cần chấn chỉnh sai sót thì cũng thuận tiện và hiệu quả hơn vì đã có các
22


quy định pháp lý cụ thể, chi tiết để vận dụng. Hồn chỉnh các quy định luật
pháp khơng những mang lại thuận lợi cho người quản lý, mà còn thuận lợi
cho bản thân hoạt động bị quản lý, bởi có sự minh bạch trong xử lý các vấn đề
của hoạt động đó. Khi đó sự chỉ đạo báo chí sẽ chủ động hơn, chủ yếu là định
hướng, cung cấp thông tin, phát huy năng lực sáng tạo của báo chí. Ví dụ: nếu
danh mục các bí mật nhà nước được cụ thể hóa từ sớm, và sát với thực tế,
đồng thời các quy định pháp luật về quyền được thông tin, được khai thác
thông tin, được nhận thông tin của báo chí thật rõ ràng... sẽ tránh được nhiều
trường hợp phải xử lý các tình huống báo chí thơng tin khơng có lợi.
Hiện nay Luật Báo chí và các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt
động báo chí - truyền thông, dù đã sửa đổi, bổ sung đáng kể, vẫn cịn mang
tính chung chung của luật khung, nhất là các điều khoản quy định các việc
báo chí khơng được làm. Với tình hình hiện nay, rất khó thơng qua luật để
điều chỉnh có hiệu quả các hoạt động của báo chí - truyền thơng. Ví dụ: việc
thơng tin khơng chính xác về chứng khốn có thể gây các tác hại lớn cho bộ
phận này, lợi lớn cho bộ phận khác. Nhưng nếu áp dụng các chế tài của quy
định pháp luật về báo chí đối với việc thơng tin khơng chính xác thì chỉ là cải
chính và có thể phạt tiền ở mức nào đó. Như vậy mất cân đối giữa khả năng vi
phạm và mức độ răn đe. Có nhiều trường hợp khơng có quy định luật pháp
nào để xử lý, kể cả quy định dưới luật. Ví dụ: việc phát triển ào ạt các dịch vụ
gia tăng trên báo chí hiện nay (nhắn tin, dự đốn, dịch vụ văn hóa, giải trí...)

làm nảy sinh nhiều lệch lạc, nhưng khơng dễ xử lý vì khơng có những quy
định tương ứng để áp dụng. Cần cố gắng sao cho các quy định pháp luật có
thể bao trùm đa số các dạng sai phạm của hoạt động báo chí - truyền thơng.
Trước mắt cần dồn sức để hồn chỉnh Luật Báo chí và các luật liên quan đến
báo chí - truyền thông, chuyển từ dạng luật khung sang luật chi tiết. Khi có
những hiện tượng mới của báo chí thì cần có các quy định dưới luật thật sát
và kịp thời.

23


Báo chí - truyền thơng ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì
vậy, song song với các quy định pháp luật cần xây dựng và hoàn chỉnh các
quy chế lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với hoạt động báo chí - truyền
thơng, chi tiết hóa các quy định và kỷ luật trong Đảng đối với các sai lầm,
khuyết điểm của đảng viên làm công việc báo chí - truyền thơng.
Thứ hai, cần tăng cường thực lực của tồn bộ nền báo chí - truyền
thơng nói chung, đặc biệt là thực lực của các đơn vị báo chí đầu đàn, để
truyền thơng nhà nước nhất định đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin, nhất định
chi phối được dư luận.
Có những quy luật rất khách quan. Trong thơng tin khơng thể có
khoảng chân khơng, mà vận hành ngun tắc bình thơng nhau. Nếu cơng
chúng khơng thỏa mãn những thơng tin mà hệ thống báo chí - truyền thơng
hiện có cung cấp, người ta sẽ có xu hướng tìm thêm thơng tin ở hệ thống
truyền thơng khác. Vì thế nếu nhìn nhận tồn cục thì giải pháp tốt nhất là xây
dựng cho được một hệ thống báo chí - truyền thơng nhà nước thật mạnh. Khi
đó sẽ khơng cịn cơ sở, hoặc ít ra là giảm thiểu lý do địi hỏi có thêm các đơn
vị báo chí truyền thơng ngồi khu vực nhà nước và đồn thể cách mạng, tổ
chức nghề nghiệp.
Có thể thấy dù có các tiến bộ to lớn của báo chí - truyền thơng ở nước

ta thời gian qua, các đơn vị báo chí hiện nay vẫn có những thiếu hụt rất lớn.
Nhiều đơn vị báo chí thiếu đội ngũ nhà báo giỏi và có bản lĩnh, cơ sở vật chất
- kỹ thuật và cơng nghệ có khi yếu kém. Cơ chế tài chính của các đơn vị báo
chí hiện khơng đồng nhất, có nhiều bất hợp lý. Đa số các đơn vị báo chí yếu
về tài chính, nhất là báo chí địa phương. Hệ thống báo chí có cơ cấu chưa hẳn
hợp lý, có lĩnh vực như phát thanh - truyền hình khá cồng kềnh, phân tán.
Chúng ta ln có một số cơ quan báo chí - truyền thơng tầm quốc gia
có vị thế chủ chốt. Nhưng vị thế mới chỉ là một yếu tố thuận lợi, thực lực mới
là quyết định. Cần xây dựng các đơn vị này thực sự mạnh về thực lực. Trong
tồn bộ hệ thống báo chí - truyền thơng, các đơn vị giữ vị thế đầu tàu, có vai
24


trò là người chi phối dư luận xã hội , giữ nhịp cho cả hệ thống. Cần phải nhìn
nhận thực tế hiện nay chưa đạt được yêu cầu đó.
Cần xây dựng một số tập đồn báo chí - truyền thơng nhà nước mạnh.
Mạnh cả về con người, cả về kinh tế, kỹ thuật. Các tập đoàn mạnh này sẽ đáp
ứng phần cơ bản nhu cầu chính đáng về thơng tin của xã hội. Tránh hoặc giảm
thiểu nhu cầu có hệ thống báo chí "khác". Hiện nay có lo ngại về việc nếu các
đơn vị báo chí lớn chuyển sang cơ chế tập đồn, có nguy cơ bị sa vào mục
đích lợi nhuận, sao lãng nội dung. Nguy cơ này có thật, nhưng nếu có đội ngũ
cán bộ lãnh đạo vững và cơ chế quản lý chặt chẽ thì hồn tồn có thể xử lý
được mối quan hệ giữa kinh tế báo chí và tơn chỉ của cơ quan báo chí. Nếu
các đơn vị hàng đầu này không mạnh về tài chính, nhân lực, kỹ thuật, tất yếu
sẽ dẫn đến sa sút về thực lực, không theo kịp với nhu cầu xã hội. Khi đó có
nguy cơ bị mất bạn đọc, mất khán giả, mất công chúng. Nguy cơ này lớn hơn
nhiều so với nguy cơ lệch hướng vì quá coi trọng lợi ích kinh tế.
- Hệ thống báo chí truyền thông phải sử dụng để chi phối, chi phối để
sử dụng các năng lực hoạt động truyền thơng ngồi khu vực nhà nước.
Như trên đã nói, hiện nay năng lực hoạt động báo chí - truyền thơng

trong xã hội đã và đang tích lũy ngày càng nhiều, địi hỏi "đầu ra". Rất cần
giải tỏa năng lực đó thơng qua việc các đơn vị truyền thông nhà nước sử dụng
các năng lực bên ngồi phục vụ cho cơng việc của mình. Có thể có những
quan hệ hợp tác, đặt hàng trong khâu thực hiện sản phẩm. Hiện nay, mục đích
chủ yếu của các đơn vị ngoài quốc doanh trong lĩnh vực truyền thông là lợi
nhuận. Nhưng trong hoạt động cụ thể họ vẫn có thể gây sức ép để nội dung
sản phẩm mà họ hợp tác với đơn vị nhà nước để làm sẽ phù hợp với nhu cầu
lợi nhuận của họ. Do đó cần phải có sự chọn lọc, phải có tính ngun tắc cao
khi hợp tác. Điều này phụ thuộc vào người lãnh đạo đơn vị báo chí - truyền
thông nhà nước.

25


×