Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Thương hàn - Bệnh lây qua ăn uống pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.24 KB, 6 trang )

Thương hàn - Bệnh lây qua ăn uống

Trong điều kiện thời tiết mưa lũ, các bệnh truyền
nhiễm đường tiêu hóa rất dễ bùng phát. Một trong
những bệnh lý nguy hiểm đó là bệnh thương hàn.
Việc phát hiện bệnh sớm sẽ làm giảm các biến
chứng, tỉ lệ tử vong mà còn góp phần hữu hiệu
nhằm ngăn chặn việc phát sinh và lan tràn của
các dòng vi khuẩn kháng kháng sinh.
Bệnh chủ yếu lây qua đường ăn uống

Viêm dạ dày - ruột do phó
Thủ phạm gây ra bệnh
thương hàn chính là vi
khuẩn salmonella typhi. Salmonelleae thuộc họ
Enterobacteriaceae với chỉ một dòng duy nhất là
Salmonella và được lấy từ tên nhà khoa học người
Mỹ, D.E. Salmon. Đây là trực khuẩn gram âm (-), hiếu
khí tùy nghi di động. Salmonella có ba loại kháng
nguyên bề mặt (kháng nguyên thân O, kháng nguyên
lông H và kháng nguyên độc).
Salmonella xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng
và hầu hết là do ăn phải thức ăn bị nhiễm như thực
phẩm, sữa, nước uống Sau khi xuyên qua hàng rào
acid dạ dày, vi khuẩn di động về phía ruột non và sinh
sản ở đó, tiếp tục chui qua màng nhày vào thành ruột
và đi vào máu. Vi khuẩn sẽ được chuyên chở bởi
những tế bào bạch cầu ở gan, lách và tủy xương. Khi
đó vi khuẩn sẽ sinh sôi nảy nở trong tế bào của
những cơ quan này và quay lại dòng máu. Vi khuẩn
xâm nhập vào túi mật, hệ thống ống mật và mô


limpho trong ruột. Tại đây, chúng sinh sôi nảy nở với
số lượng lớn. Khi vi khuẩn vào trong ruột, nó có thể
thương hàn.
được chẩn đoán bằng cách lấy phân đem đến phòng
xét nghiệm để cấy. Một xét nghiệm khác là xét
nghiệm Widal giúp phát hiện và lượng giá kháng thể
của vi khuẩn thương hàn trong máu và trong nước
tiểu.
Bệnh thương hàn là do lây truyền qua đường ăn
uống bởi nước hay thức ăn bị nhiễm. Bệnh nhân bị
bệnh cấp tính có thể lây ra môi trường nước xung
quanh qua phân, ở giai đoạn cấp các chất thải (phân)
có chứa nồng độ vi khuẩn rất cao.
Chỉ có 3-5% trở thành người mang trùng sau giai
đoạn bệnh cấp. Một số bệnh nhân bị bệnh nhẹ, có thể
họ không nhận biết được. Những người này về lâu
dài có thể trở thành người lành mang trùng. Vi khuẩn
thương hàn sinh sôi trong túi mật, ống mật hay trong
gan và đi vào trong ruột, chúng có thể sống sót vài
tuần trong nước hay chất thải khô. Những người
mang trùng mạn tính này thường không có triệu
chứng và là nguồn lây bệnh sốt thương hàn trong
nhiều năm.
Biểu hiện của bệnh thương hàn
Khi vi khuẩn Salmonellae typhi xâm nhập vào cơ thể
sẽ gây ra triệu chứng sốt cao, đau đầu, mệt mỏi, chán
ăn, nhịp tim chậm (dấu hiệu mạch nhiệt phân ly),
khoảng 25% có nốt hồng ban trên cơ thể. Người bệnh
đau bụng, nôn, táo bón hoặc tiêu chảy, phân đen
hoặc có máu. Bụng trướng, gan to, lách hơi to, có

dấu hiệu óc ách hố chậu phải. Nếu không được chẩn
đoán và điều trị kịp thời sẽ gây ra những biến chứng
nguy hiểm như chảy máu ruột, thủng ruột do các vết
viêm loét ở hạch Payer hoặc bị rối loạn chức năng
não và dễ gây ra tử vong.
Bệnh phó thương hàn (paratyphoid fever) cũng có
hình ảnh lâm sàng tương tự như bệnh thương hàn
nhưng nhẹ hơn và tỷ lệ tử vong thấp hơn nhiều.
Trường hợp bị nhiễm khuẩn thương hàn không có
biểu hiện toàn thân mà chỉ có biểu hiện viêm dạ dày -
ruột do vi khuẩn Salmonella typhimurium hoặc
Salmonella enteritidis từ động vật nhiễm vào thực
phẩm thì gọi là bệnh nhiễm khuẩn thức ăn do vi
khuẩn Salmonella hoặc bệnh Salmonella.
Tất cả mọi người đều có thể bị cảm nhiễm bởi vi
khuẩn gây bệnh thương hàn. Thời kỳ ủ bệnh phụ
thuộc vào số lượng vi khuẩn xây nhập, có thể từ vài
ngày tới vài tháng, nhưng thông thường từ 1-3 tuần.
Đối với vi khuẩn phó thương hàn gây bệnh viêm dạ
dày- ruột thì thời gian ủ bệnh từ 1-10 ngày.
Điều trị và phòng bệnh như thế nào?
Bệnh thương hàn được điều trị bằng kháng sinh
nhằm tiêu diệt vi khuẩn Salmonella. Trước khi sử
dụng kháng sinh, tỷ lệ tử vong của bệnh là 10%. Tử
vong xảy ra là do vi khuẩn thương hàn gây viêm phổi,
xuất huyết tiêu hóa (chảy máu đường ruột) hay thủng
ruột. Lựa chọn kháng sinh điều trị thương hàn phải là
những thuốc kháng sinh đặc hiệu với Salmonella như
ceftriaxon, ciprofroxaxin, pefloxaxin các thuốc này
có tính chất khuếch tán đến nhiều cơ quan trong cơ

thể. Bên cạnh điều trị kháng sinh phải chú ý đến cân
bằng điện giải, chế độ dinh dưỡng hợp lý (những
trường hợp nhịn ăn khi có xuất huyết tiêu hóa nặng
hoặc nghi ngờ thủng ruột), điều trị triệu chứng và các
biến chứng kèm theo.
Để phòng bệnh hữu hiệu cần kiểm tra nghiêm ngặt
các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, nguồn
nước sinh hoạt, chất thải của người và gia súc. Cách
ly bệnh nhân mắc bệnh thương hàn khi hết triệu
chứng lâm sàng và kết quả phân lập vi khuẩn 3 lần
cách nhau 24-48 giờ âm tính.
Trong vùng có nhiều người mắc bệnh hoặc vùng bị lũ
lụt, ô nhiễm môi trường nặng cần được sát khuẩn
bằng dung dịch Cloramin B, vôi bột. Ở những nơi
bệnh thương hàn thường xuyên xảy ra nên tiêm
phòng bằng vaccin, tùy từng hiệu lực của từng loại
vaccin có thể tiêm nhắc lại sau 2-5 năm.

×