Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Viêm kết mạc ở trẻ em Dùng thuốc gì? pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.72 KB, 6 trang )

Viêm kết mạc ở trẻ em -
Dùng thuốc gì?

Trẻ bị viêm kết mạc.
Viêm kết mạc ở trẻ em là một trong những tình trạng bệnh lý gây đỏ mắt do
nhiều nguyên nhân gây nên, bao gồm: vi khuẩn, virut, Chlamydia và viêm dị ứng. Cần
phân biệt viêm kết mạc ở trẻ em với tắc lệ đạo, chấn thương mắt, viêm loét giác mạc và
viêm mống mắt. Các bệnh này cũng gây đỏ mắt nhưng kèm theo giảm thị lực.
Viêm kết mạc do vi khuẩn
Viêm kết mạc do các loại vi khuẩn thông thường: Hay gặp nhất là các loại
vi khuẩn như tụ cầu, liên cầu, phế cầu, bạch hầu; Haemophilus influenzae, trực
khuẩn Weeks, Moraxella Bệnh thường xuất hiện đột ngột, lúc đầu ở một mắt,
sau lan sang mắt kia. Bệnh diễn biến cấp tính, trẻ kêu cộm mắt như có dị vật, bỏng
rát mắt, chảy nước mắt nhiều, trẻ hay dụi mắt. Mắt có nhiều dử kèm nhèm rất khó
mở mắt vào buổi sáng. Mi mắt sưng nề, đóng vảy khô do dử mắt, dử mắt dạng mủ
nhày. Kết mạc đỏ, có thể có những chấm xuất huyết ở kết mạc. Trường hợp nặng
có thể có màng giả (màng màu trắng xám) bám trên kết mạc (cần đưa trẻ đến các
cơ sở y tế để bóc màng giả, khi bóc màng giả có thể gây chảy máu). Thị lực của
trẻ có thể bình thường nếu bệnh không ảnh hưởng đến giác mạc.
Điều trị:
- Dội, rửa mắt thường xuyên bằng dung dịch NaCl 0,9% để loại bỏ tối đa
dử mắt và vi khuẩn.
- Đưa trẻ đến các cơ sở y tế chuyên khoa khám và làm xét nghiệm để xác
định tác nhân gây bệnh.
- Bóc màng giả hằng ngày hoặc cách ngày (nếu có màng giả).
- Thuốc: chủ yếu là dùng kháng sinh tra tại mắt, tra thuốc nước ban ngày,
tra nhiều lần trong ngày (10 đến trên 15 lần/ngày), thuốc mỡ tra buổi tối trước khi
ngủ, thời gian điều trị thường kéo dài 10 - 15 ngày.
Các loại kháng sinh tra mắt: tobramicin, tobrex, neomycin, cebemyxin,
erythromycin, polymyxin B Nếu nguyên nhân do bạch hầu cần dùng huyết thanh
kháng bạch hầu. Cho trẻ dùng thêm các vitamin nâng cao thể trạng.


Viêm kết mạc do lậu cầu: Do lậu cầu gây nên, hay gặp ở trẻ sơ sinh, tiến
triển nặng, đặc biệt nguy hiểm với giác mạc. Bệnh cấp tính, xuất hiện vào ngày
thứ 2-3 sau sinh do bị nhiễm từ đường sinh dục của mẹ khi sinh qua đường dưới.
Mắt trẻ bị sưng húp, mi và kết mạc phù nề đỏ mọng, dử mắt dạng mủ vàng bẩn
dính chặt hai mi, mủ nhiều trào qua khe mi, càng lau mủ càng chảy nếu không có
biện pháp điều trị kịp thời bệnh sẽ lan vào giác mạc gây viêm giác mạc dẫn đến
mù lòa.
Điều trị: Cần tra dung dịch argyrol 3% cho trẻ ngay sau khi sinh để phòng
bệnh; cần lấy mủ làm xét nghiệm để xác định chính xác bệnh.
Rửa mắt liên tục bằng nước muối sinh lý 0,9%. Tra dung dịch kháng sinh
nhạy cảm với lậu cầu như các kháng sinh nhóm quinolone, cephalosporin tra liên
tục 10-15 phút/lần, sau đó giảm liều dần.
- Toàn thân: cần thận trọng khi chỉ định dùng thuốc và liều lượng thuốc sử
dụng. Phối hợp điều trị lậu cho bố và mẹ trẻ.
Viêm kết mạc do virut
Hay gặp là Adenovirus, Herpesvirus, ít gặp hơn là Enterovirus,
Coxsakievirus, Molluscum contagiosum, Varicella zoster
Viêm kết mạc do Adenovirus: Biểu hiện bệnh theo hai hình thái:
- Hình thái viêm kết mạc kèm theo sốt, viêm họng và nổi hạch trước tai: mi
sưng, cộm mắt, dử trong dính, kết mạc đỏ, phù, xuất huyết, màng giả và hột trên
kết mạc. Trẻ sốt nhẹ, đau họng, người mệt mỏi, hạch trước tai.
- Hình thái viêm kết mạc - giác mạc dịch: bệnh không kèm các triệu chứng
toàn thân, kèm theo tổn thương giác mạc gây nhìn mờ.
Điều trị: Chưa có thuốc chống Adenovirus đặc hiệu, điều trị triệu chứng và
nâng cao thể trạng là chủ yếu, bệnh có thể thoái lui trong khoảng 2 tuần, dùng
thuốc kháng sinh tránh bội nhiễm. Khi dùng các chế phẩm corticoid cần thận trọng
và dùng liều thấp.
Viêm kết mạc do Herpes virus: Da mi và vùng da quanh mi xuất hiện những
nốt mụn phỏng kèm theo phù đỏ. Dử mắt loãng như nước. Kết mạc đỏ, có hột trên
kết mạc.

Điều trị: Dùng thuốc chống virus Herpes, kháng sinh chống bội nhiễm,
uống thêm vitamin nâng cao thể trạng.
Viêm kết mạc do Chlamydia
Do một loại vi sinh vật có tên là Chlamydia trachomatis gây nên. Hay gặp ở
trẻ sơ sinh. Sự lây nhiễm xảy ra khi trẻ sinh qua đường dưới của mẹ bị bệnh nên
cần kiểm tra cả bố và mẹ trẻ. Xuất hiện nhú gai trên kết mạc. Dử mắt dạng mủ
nhày.
Điều trị: Dùng thuốc tra tetracyclin 1%. Toàn thân có thể uống
erythromycin.
Viêm kết mạc do dị ứng
Viêm kết mạc - mũi dị ứng: Bệnh khá phổ biến, tác nhân gây dị ứng có thể
gặp như phấn hoa, bụi nhà, nấm mốc, lông côn trùng, súc vật Bệnh cấp tính, trẻ
ngứa mắt nhiều, chảy nước mắt, đỏ mắt phối hợp ngứa mũi, hắt hơi sổ mũi, chảy
nước mũi trong. Mi mắt phù nề, kết mạc phù, nhợt màu, nhú viêm trên kết mạc.
Điều trị: dùng các thuốc dị ứng không có corticoid (cromoglycat,
lodoxamin, levocabasfin, patanol ), phối hợp với các thuốc tra có corticoid.
Viêm kết mạc mùa xuân: Là một thể bệnh dị ứng theo mùa với biểu hiện
lâm sàng và tiến triển riêng biệt. Thường khởi phát bệnh ở độ 5 tuổi, hay gặp ở
nam giới. Ngoài các triệu chứng của viêm dị ứng, trên kết mạc xuất hiện nhú viêm
điển hình có hình dạng như đá lá đường (hình đa giác) xếp cạnh nhau. Trường hợp
nặng các nhú phì đại dạng nhú khổng lồ. Bệnh có thể gây ảnh hưởng giác mạc dẫn
đến nhìn mờ.
Điều trị: Dùng các thuốc tra corticoid như dexamethason 0,1%, hoặc các
chế phẩm kháng sinh phối hợp corticoid như dung dịch maxitrol, tobradex,
decodex Cần chú ý, nếu dùng thuốc kéo dài có thể gây các biến chứng nguy
hiểm như: tăng nhãn áp, đục thể thủy tinh do vậy chỉ nên sử dụng thời gian ngắn,
trong đợt cấp. Các thuốc này chỉ dùng khi có chỉ định và sự theo dõi của thầy
thuốc. Ngoài ra có thể dùng các thuốc làm ổn định dưỡng bào: cromal, cromolyn,
alomid Những thuốc này có thể dùng kéo dài. Đối với nhú phì đại dùng tia beta
để điều trị.


×