Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Ths BCH báo in cộng hòa dân chủ nhân dân lào với vấn đề giữ gìn và quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc lào lùm (khảo sát hai tờ báo in paxaxon và viêng chăn mai năm 2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 116 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHDCNDL

: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

NXB

: Nhà xuất bản

HCMC

: Hồ Chí Minh City

UNESCO

: United Nations Educationai,
Scientific and Cultural Organization (Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên Hợp Quốc)

NDCM

: Nhân dân Cách mạng

CNH - HĐH

: Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa

ĐHQG


: Đại học quốc gia

AEC

: ASEAN Economic Community

TS

: Tiến sỹ

PGS

: Phó giáo sư


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG......................................8
1.1

Các khái niệm cơ bản...............................................................................8

1.2. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Lào về giữ gìn, quảng bá
bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm...................................................................19
1.3. Vài nét về dân tộc Lào Lùm...................................................................29
Chương 2. THỰC TRẠNG BÁO PAXAXON VÀ BÁO
VIENGCHANMAI VỚI VẤN ĐỀ GIỮ GÌN, QUẢNG BÁ BẢN SẮC
VĂN HĨA DÂN TỘC LÀO LÙM...............................................................37
2.1. Giới thiệu vài nét về hai tờ báo khảo sát................................................37
2.2. Thực trạng giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm của hai

tờ báo...............................................................................................................42
2.3. Hình thực gìn giữ, quảng bá văn hóa dân tộc Lào Lùm.........................59
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP VỚI VẤN ĐỀ GIỮ
GÌN, QUẢNG BÁ BẢN SẮC VĂN HĨA DÂN TỘC LÀO LÙM TRÊN
BÁO PAXAXON VÀ BÁO VIENGCHANMAI.........................................65
3.1. Những vấn đề đặt ra.................................................................................65
3.2. Một số giải pháp....................................................................................69
3.3. Một số kiến nghị....................................................................................79
KẾT LUẬN....................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89
PHỤ LỤC ......................................................................................................94


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Số lượng độc giả chọn đọc báo Paxaxon và báo Viengchanmai....42
Bảng 2.2: Số lượng tác phẩm báo Paxaxon về các khía cạnh bản sắc văn hóa
dân tộc Lào Lùm năm 2016............................................................42
Bảng 2.3: Độc giả đánh giá về hình thức thể hiện các bài tin về vấn đề giữ gìn
quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm...................................44
Bảng 2.5: Số lượng tác phẩm báo Viengchammai về các khía cạnh bản sắc
văn hóa dân tộc Lào Lùm năm 2016...............................................46
Bảng 2.6: Độc giả đánh giá về hình thức thể hiện các bài tin về vấn đề giữ gìn
quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm...................................47
Bảng 3.1: Số tin, bài trên báo Paxaxon viết về vấn đề giữ gìn, quảng bá bản
sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm..........................................................79
Bảng 3.2: Số độc giả quan tâm tới các đề tài văn hóa dân tộc Lào lùm..........80
Bảng 3.3: Số tin, bài trên báo Paxaxon viết về vấn đề giữ gìn, quảng bá bản
sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm..........................................................81
Bảng 3.4: Số độc giả quan tâm tới các đề tài văn hóa dân tộc Lào lùm..........82


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Biểu đồ về sự quan tâm của độc giả về các lĩnh vực của bản sắc
văn hóa dân tộc Lào Lùm................................................................43
Biểu đồ 2: Chất lượng thông tin......................................................................45
Biểu đồ 3: Biểu đồ về sự quan tâm của độc giả về các lĩnh vực của bản sắc
văn hóa dân tộc Lào Lùm................................................................46
Biểu đồ 4: Chất lượng thông tin......................................................................47


DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Trang nhất báo Paxaxon hàng ngày...................................................39
Hình 2: Trang nhất báo Viengchanmai............................................................41
Hình 3: Lễ hội Thạt Luổng khi rước Phạ Sạt Phơng.......................................49
Hình 4: Phật tử và người dân dâng cơm ngày lễ Thạt Luổng, một hoạt động
không thể thiếu của lễ hội...............................................................49
Hình 5: Lạp- món ăn đặc sản của Lào.............................................................52
Hình 6: Trang phục nữ và nam của dân tộc Lào Lùm trong ngày đám cưới...52


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế giới
có xu hướng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc càng trở thành trung tâm
của sự chú ý vì nó là sợi chỉ đỏ xun suốt toàn bộ lịch sử của mỗi dân tộc,
giúp cộng đồng dân tộc của mỗi quốc gia trong đó có Lào khơng ngừng phát

triển. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa Lào cũng không phải là ngoại lệ.
Dân số nước Lào khoảng 7 triệu người, gồm 49 dân tộc và bộ tộc trình
độ phát triển khơng đồng đều và văn hóa truyền thống rất đa dạng, phong phú
đã tồn tại từ rất lâu đời. Trong đó dân tộc Lào Lùm chiến 65% dân số là dân
tộc đơng người nhất và có nhiều đặc sắc văn hóa.
Cũng như ở Việt Nam và các nuối trên thế giới, Đảng và Nhà nước Lào
luôn coi “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [36, tr 1], kết tinh những giá
trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc có tính bền vững và trường tồn trong lịch sử của
dân tộc. Văn hóa phát triển nối tiếp từ nhiều thế hệ tạo nên giá trị bản sắc
riêng luôn được trao truyền phát triển, làm cơ sở nền cho sự định hướng phát
triển văn hóa dân tộc cũng như phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Việc xây dựng, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
của đất nước Lào là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu
của Đảng, nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào. Chủ tịch nước Kai Sone
Phomvihan của Lào từng cho rằng “Hết văn hóa là hết quốc gia” [36, tr,1] để
nói về tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển nhà nước và sự giữ gìn
văn hóa các dân tộc. Hiển nhiên, trong nhiệm vụ vẻ vang này, báo chí nói chung,
Báo in Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào nói riêng là lực lượng xung kích, tiên
phong, có vai trị đặc biệt quan trọng đối với cơng tác tun truyền, cổ vũ và
tham gia xây dựng, bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống đó của đất nước.


2

Những năm gần đây, việc các nhà hàng karaoke mọc lên như nấm và
chủ yếu trong đó là các bài hát tiếng nước ngồi, rất ít bài hát tiếng Lào. Sách
báo, phim ảnh, các rạp chiếu phim cũng chủ yếu chiếu phim nước ngồi kéo
theo đó là phong trào thanh niên sống, ăn mặc, nói năng học theo các thần
tượng, là những ngôi sao ca nhạc, diễn viên hiện nay… Vì vậy, hơn bao giờ

hết nhiệm vụ giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc Lào, giá trị truyền thống tốt
đẹp được đặt ra cấp bách cho báo chí Lào.Vì vậy, việc xem xét đánh giá về
vai trị của báo chí đối với giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa các dân tộc là
địi hỏi cấp thiết.
Báo Paxaxon là cơ quan ngôn luận của Đảng nhân dân cách mạng Lào
phát hành tồn quốc, là tờ báo có tầm ảnh hưởng lớn nhất ở Lào và báo
Viengchanmai là cơ quan ngôn luận của Thành ủy thành phố Viêng chăn, thủ
đơ của CHDCND Lào, là hai tờ báo có số phát hành lớn nhất cả nước. Với sự
nỗ lực của mình, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, báo in CHDCND Lào nói
chung, báo Paxaxon và Viengchanmai nói riêng đã có nhiều đóng góp đáng kể
trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là bảo vệ bản sắc văn hóa
Lào. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, báo in CHDCND Lào
vẫn còn nhiều hạn chế cần phải sớm khắc phục để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là việc tuyên truyền về giữ gìn, quảng bá bản
sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm. Cũng vì vậy, việc nghiên cứu những đóng góp
và hạn chế về giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm là một địi
hỏi khách quan cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Việt Nam đã có một số cơng
trình nghiên cứu về di sản văn hóa địa phương, kể cả văn hóa vật thể và phi
vật thể, gần gũi với đề tài như:
- Bounyor Phommabouth - Khun Phommaha (1998) ວວດທະນະທທທ
ສວງຄຄົມ, ພພມທທທໂຮງພພມສສກສທ (Văn hóa xã hội Lào, Nxb giáo dục). Cuốn sách có


3

8 chương nói về chính sách về văn hóa Lào lễ phép trong xã hội và nhiệm vụ
của nhân dân Lào đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa.
- TS. Phandoungchit Vongsa (2007), ພພູມໃຈໃນວວດທະນະທທທລທວ, ພພມທທທ

ໂຮງພພມວຽງຈວນ (Sẵn lòng trong Văn hóa Lào, Nxb Viêng Chăn). Cuốn sách
có 18 chương nói về lịch sử nước Lào từ ngày xưa đến ngày nay, tương lai về
văn hóa Lào.
- Sonethavi Sengdalasin - bounpheng nettavong (2009), ວວດທະນະທທທ
ສວງຄຄົມລທວ - ອທຊທຽນ, ພພມທທທໂຮງພພມຢທນຊທນກທນແຕຕມ (Văn hóa xã hội Lào –
Asian, Nxb Nhan Dan Printing House HCMC, Viêng chăn). Cuốn sách có 14
chương trong đó nói về lịch sử văn hóa Lào và Asian, phong tục cổ đại, ăn
mặc và sự chuyển đổi của văn hóa xã hội.
- Nhiều tác giả (2009), “Báo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật
thể ở Việt Nam”, Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam
- Học viện khoa học xã hội quốc tế (2009), ຊອກຮພູຕຊຄົນເຜຄົທທໃນລທວ,
ໂຮງພພມສທບບຸນເຮຮອງ (Tìm hiểu dân tộc Lào, NXB Sỉ Bún Hương)
- Của Đảng bộ Thông tin - Văn hóa và du lịch (2015), ເອກະສທນກອງ
ປະຊບຸມພວກຄວຕງທທ , ໂຮງພພມແຫທງຊທດ V (Tài liệu đại hội lần thứ tư, NXB Nhà
nước)
- Ở phương diện nghiên cứu sau đại học cũng đã có một số cơng
trình nghiên cứu về việc báo chí thơng tin, phản ánh những vấn đế
thuộc lĩnh vực văn hóa nói chung và giữ gìn quảng bá bản sắc văn hóa
Lào nói riêng.
Ngồi ra, đã có một số luận văn thạc sĩ mà học viên Lào đã thực hiện
bằng tiếng Việt tại Việt Nam có nội dung liên quan đến đề tài này ở các góc
độ khác nhau như:
- Luận văn Thạc sĩ Truyền thơng đại chúng, Học viện Báo chí và
tuyên truyền (2004) của Đa Von Phom My Sít, “Vai trò của báo Paxaxon Lào
trong sự nghiệp xây dựng nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”.


4

- Luận văn Thạc sĩ Truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và

Tuyên truyền (2007) của May Mặn Mun ty, “Nâng cao chất lượng hoạt động
báo chí ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”.
- Luận văn Thạc sĩ Truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tun
truyền (2008) của Phăn Kẹo Phơm Mi Xay, “Đài truyền hình quốc gia Lào với
cơng tác xây dựng và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống Lào”.
Những nghiên cứu trên đây đã ít nhiều cập đến vần đế về Báo chí tham
gia giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm và giá trị văn hóa
truyền thống nói chung, tuy chưa tồn diện nhưng là những kết quả bước đầu,
làm cơ sở cho những nghiên cứu có tính hệ thống hơn.
Ngồi ra trên các báo, tạp chí như báo văn hóa, tạp chí Văn hóa
Vannasin, tạp chí Văn hóa Lào, tạp chí phụ nữ Lào... trong những năm qua
cũng đã đăng tải khá nhiều bài viết đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm.
Tuy nhiên chưa có một cơng trình nghiên cứu sau đại học nào đặt vấn
đề nghiên cứu, khảo sát, đánh giá một cách đầy đủ về Báo in Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào với vấn đề giữ gìn và quảng bá bản sắc văn hóa dân
tộc Lào Lùm (Khảo sát hai tờ báo in Paxaxon và Viêng Chăn Mai năm
2016). Vì vậy, đề tài này của tơi là khơng trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hình thành quan niệm – khung lý thuyết về vai trị của báo
in với vấn đề giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm, luận văn
khảo sát, đánh giá thực trạng trên 2 tờ báo về việc tuyên truyền giữ gìn,
quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm, từ đó có những đánh giá khoa
học, khách quan và đề ra những giải pháp, khuyến nghị khoa học cho vấn
đề này.


5


3.2. Nhiệm vụ
-

Luận văn làm rõ khung lý thuyết báo in với vấn đề giữ gìn và

quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm.
-

Khảo sát và đánh giá thực trạng báo in với vấn đề giữ gìn quảng bá

bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm trong giới hạn khảo sát.
-

Rút ra những vấn đề từ thực tiễn và tìm kiếm những giải pháp,

khuyến nghị khoa học cho vấn đề nghiên cứu, nhằm phát huy hơn nữa vai trị
của báo in nói chung, báo Paxaxon, báo Viengchanmai nói riêng trong nhiệm
vụ giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm trong bối cảnh hội
nhập quốc tế và tồn cầu hóa...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các tin bài, ảnh liên quan đền vấn đề truyền thơng giữ gìn, quảng bá
bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm trên báo Paxaxon và báo Viengchanmai
năm 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các tin, bài trên báo Paxaxon và báo Viengchanmai ở các
mục thời sự và tập trung nghiên cứu vấn đề giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa
Lào trên các trang chuyên đề về văn hóa- xã hội.
Các tin, bài báo in trực tiếp về các cuộc thi, sự kiện về văn hóa, có nội
dung trực tiếp đề cập đến các vấn đề liên quan đến việc giữ gìn, quảng bá bản

sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm.
Do điều kiện thực tế về thời gian và cấp độ nghiên cứu của đề tài này,
chúng tôi giới hạn thời gian nghiên cứu, khảo sát trong năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề văn hóa
dân tộc, các chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà


6

nước Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào trong cơng tác giữ gìn, quảng bá bản
sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm.
Cơ sở lý luận trực tiếp của vấn đề nghiên cứu là vai trị, chức năng
của báo chí đối với vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa, nhất là trong thời kỳ
hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. Cơ sở lý thuyết này được sử dụng trong
nghiên cứu vai trị báo chí với vấn đề giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hóa
dân tộc Lào Lùm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Thứ nhất là, Phương pháp nghiên cứu tài liệu được dùng để nghiên

cứu các văn kiện và tài liệu liên quan nhằm hình thành khung lý thuyết.
-

Thứ hai là, Phương pháp thống kê.

-


Thứ ba là, phương pháp phỏng vấn sâu với các nhà quản lý báo chí,

các biên tập viên, phóng viên ở báo Paxaxon và báo Viengchanmai.
-

Phương pháp phân tích nội dung để phân tích các tác phẩm báo in

trong diện khảo sát.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là cơng trình đầu trên ở cấp độ Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về
vai trò của báo in (báo Paxaxon và báo Viengchanmai năm 2016) với vấn
đề giữ gìn và quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm. Vấn đề này nếu
được nghiên cứu thành cơng thì có ý nghĩa tạo sự đồng thuận trong xã hội,
đặc biệt là trong giới lãnh đạo quản lý nói chung, các cơ quan báo in nói
riêng về bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm và cách thức giữ gìn và quảng
bá văn hóa dân tộc Lào Lùm trong quá trình phát triển. Bởi vì văn hóa là
mục tiêu phát triển, văn hóa là nội sinh, tức là nếu biết giữ gìn và phát triển
thì nó có khả năng tự sinh ra giá trị và động lực mới, sản sinh năng lượng
mới cho sự phát triển bền vững.


7

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là cơng trình tổng kết những kinh nghiệm của báo in nói
chung, báo Paxaxon và BáoViengchanmai nói riêng để nhìn rõ hơn những
thành cơng và hạn chế đồng thời đưa ra những khuyến nghị khoa học có ý
nghĩa thực tiễn giúp cho q trình nâng cao năng lực và hiệu quả tác động
của báo in, nhất là trong vấn đề giữ gìn và quảng bá bản sắc văn hóa dân

tộc Lào Lùm.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 3 chương, 9 tiết.


8

Chương1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.

Các khái niệm cơ bản

1.1.1.

Khái niệm bản sắc văn hóa

1.1.1.1.

Khái niệm bản sắc

Đại từ điển Tiếng Việt giải nghĩa thì “bản sắc” là thuộc tính, tính chất
đặc vốn có, tạo thành phẩm cách riêng. Thuật ngữ “bản sắc” dùng để chỉ tính
chất, màu sắc riêng tạo thành phẩm chất đặc biệt của một sự vật tức là nói tới
sắc thái, đặc tính, đặc thù riêng của sự vật đó.
Trong thực tế, khi nói “bản sắc” thường là nói tới cái riêng, cái rất riêng
của một sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác trong thế giới khách
quan.Cách định nghĩa này có phần nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù, cái biểu
hiện ra bên ngoài của bản chất sự vật.

Xét từ phương diện từ ngun thì bản có nghĩa là cơ bản, bản chất; sắc
là màu sắc, sắc thái. Bản sắc chính là những gì đặc trưng nhất, căn bản nhất
của một sự vật, hiện tượng, nó chính là cơ sở để phân biệt sự việc hiện tượng
đó với những sự vật hiện tuợng khác khác loại và cùng loại. “Bản sắc” là từ
một ghép có gốc Hán - Việt nên có một cách tiếp cận khác là phân tích trên
ngữ nghĩa của hai từ“bản” và “sắc”. Theo đó, “bản” là cái gốc, cái căn bản,
cái cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; “sắc” là sự biểu hiện cái căn bản, cái
cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngồi. Cách tiếp cận thứ hai này có tính hợp lý hơn
bởi khái niệm “bản sắc” được nhận thức trên cả 2 mặt: mặt bản chất bên trong
và mặt biểu hiện bên ngồi và giữa hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Trong đó, mặt bên trong phản ánh tính đồng nhất, bản chất của một lớp
đối tượng sự vật nhất định và mặt bên ngoài phản ánh những dấu hiệu, những
sắc thái riêng của sự vật để làm cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa sự vật này
với sự vật khác.


9

Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn với văn hóa và dân
tộc.Nói đến dân tộc là nói đến văn hố, bản sắc văn hố và nói đến văn hố là
nói đến dân tộc, bản sắc dân tộc.
1.1.1.2.

Khái niệm văn hóa

Văn hóa là sản phẩm của con người; là hiệu quả của sự tiến hóa nhân
loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và
khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để
hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau, do đó
có những định nghĩa khác nhau về Văn hóa.

Hồ Chí Minh cho rằng:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa [13,tr431].
Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm tồn bộ những gì do con người
sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo
cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực
liên quan đến đời sống con người.
Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vơ
cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển,
quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị:
tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm
và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng
đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn
mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên
nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm
và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.


10

Riêng Nguyễn Đức Từ Chi xem văn hóa từ hai góc độ. Góc độ thứ
nhất là góc độ hẹp, mà ơng gọi là “góc nhìn báo chí”. Theo góc nhìn này,
văn hóa sẽ là kiến thức của con người và xã hội. Nhưng, ông không mặn
mà với cách hiểu này vì hiểu như thế thì người nơng dân cày ruộng giỏi
nhưng khơng biết chữ vẫn bị xem là “khơng có văn hóa” do tiêu chuẩn văn
hóa ở đây là tiêu chuẩn kiến thức sách vở. Cịn góc nhìn thứ hai là “góc

nhìn dân tộc học”. Với góc nhìn này, văn hóa được xem là tồn bộ cuộc
sống -cả vật chất, xã hội, tinh thần- của từng cộng đồng; và văn hóa của
từng cộng đồng tộc người sẽ khác nhau nếu nó được hình thành ở những
tộc người khác nhau trong những mơi trường sống khác nhau. Văn hóa sẽ
bị chi phối mạnh mẽ bởi sự kiểm soát của xã hội thơng qua gia đình và các
tổ chức xã hội, trong đó có tơn giáo.
Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Theo nghĩa rộng thì văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện
mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của
một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa
khơng chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín
ngưỡng…cịn hiểu theo nghĩa hẹp thì văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu
trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng
đồng đó có đặc thù riêng…
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định
nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn
hóa. Nói ngắn gọn : “Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất, tinh thần được
sáng tạo, tích lũy trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con
người. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống
xã hội và liên tiếp truyền lại cho thế hệ sau”. Văn hóa được chia làm hai loại:
Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể [36, tr1].


11

Văn hóa vật thể
Văn hóa vật thể là bộ phần có thể nhìn và được thơng qua các giác quan
như các cơng trình về: Chùa, nhà, trang phục, đồ thủ cơng, là những văn hình
thái biểu trưng, tồn tại ổn định trong khơng gian và thường trực theo thời gian

(có nghĩa là sản phẩm văn hóa sau khi được sáng tạo ra tồn tại ổn định cùng
với thời gian và khách quan đối với chủ thể sáng tạo ra nó.
Văn hóa vật thể là một bộ phận trong văn hóa tồn vẹn của một cộng
đồng. Một mảnh bình vỡ hoặc một chiếc vòng đeo tay của thời xa xưa mà các
nhà khảo cổ học đào được dưới lòng đất, hay những đồ vật còn mới hơn như
chiếc bát ta ăn, bộ quần áo ta mặc, ngôi nhà ta ở, chiếc xe ta đi, tóm lại là từ
các di tích sử đến các hiện vật đang được vận hành, tất cả những thứ đó đều
được gọi là văn hóa vật thể.
Nói một cách khái quát, văn hóa vật thể bao gồm các tư liệu sản xuất
và tư liệu tiêu dùng của con người. Từ nguyên vật liệu đến các công cụ lao
động và kết cấu hạ tầng; từ các phương tiện giao tiếp và giao thơng đến tịa
nhà các cơng trình sinh hoạt, nơi làm việc và giải trí; từ các vật phẩm tiêu
dùng đa dạng đến các quan hệ vật chất trong lĩnh vực kinh tế, tóm lại là
mọi giá trị vật chất, vật thể với tư cách là kết quả lao động mà con người đã
sáng tạo ra.
Văn hóa vật thể được sinh ra từ hai tiền đề lớn: Một là: Các nguyên liệu
có sẵn từ tự nhiên. Hai là: Do nhu cầu và thị hiếu của con người.
Gắn liền tiền đề thứ nhất, văn hóa vật thể bao giờ cũng giữ lại dấu vết
và bị quy định bởi những đặc điểm hoặc tính chất của các khách thể tự nhiên
ban đầu với tư cách là các nguyên vật liệu mà con người đã khai thác và sử
dụng (như vải vóc may mặc cịn giữ ngun tính chất của tơ tằm, tơ chuối, sợi
gai, sợi đay; các loại vòng tai, vòng cổ, vòng chân, ngọc trai, kim cương hay
các loại vỏ ốc, vỏ sò, ngà voi, vuốt hổ, v.v).


12

Bị quy định bởi tiền đề thứ hai, văn hóa vật thể chứa đựng trong nó
những ý nghĩa ý nghĩa khác biệt, thậm chí trái ngược từ nền văn hóa này sang
nền văn hóa khác. Chẳng hạn kim loại và hóa chất ở nơi này được dung làm

cày, cuốc hay các vật thể dụng sinh hoạt hàng ngày thì ở một nền văn hóa
khác người ta lại đem chúng chế tạo thành gươm đao, sung đạn phục vụ cho
cuộc chiến tranh chinh phạt. Cũng vậy, một mảnh vải màu có thể là biểu
tượng cho lá cờ tổ quốc của một quốc gia, được con người ở đấy tự hào và tơn
kính, sang, cũng mảnh vải đó lại có thể khơng có ý nghĩa gì nhiều ở một nền
văn hóa khác và con người này thì văn hóa vật thể nhiên đem cắt may quần
áo. Theo ý nghĩa này thì “văn hóa vật thể cũng chính là do nhu cầu, trí tuệ và
tình cảm của con người được đối tượng hóa, vật chất hóa mà thành”.
Văn hóa sinh hoạt tinh thần
Người Lào Lùm có nhiều phong tục đẹp, được lưu giữ như: Phong tục
cưới xin, lễ gọi hồn, lễ buộc chỉ cổ tay…
Theo phong tục truyền thống, gia đình người Lào Lùm theo
chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên
nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Hôn lễ
truyền thống của người Lào Lùm được tiến hành qua các nghi thức:
Lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ đón dâu và rể, đưa dâu đưa rể (từng gia đình
muốn dâu đến nhà hoặc gia đình muốn rể đến nhà), thể hiện bản sắc
văn hóa của một tộc người [28, tr.137].
Người Lào Lùm quan niệm, khi có người trong gia đình chết trong
năm muốn tổ chức hơn nhân thì phải hỗn đến năm sau vì trong năm đó
phải kiêng.
Người Lào Lùm có nhiều lễ hội mang đặc trưng của nền sản xuất nông
nghiệp; lúa nước; sinh sống hoạt động.
Tết Bunpimay (té nước) là lễ lớn nhất trong năm diễn ra từ ngày 14 đến
ngày 16 tháng tư hằng năm theo Phật lịch. Người Lào Lùm rất coi trọng ngày


13

Tết cổ truyền này, trước khi đến ngày lễ nhà ai cùng dọn dẹp nhà cửa. Sau đó,

buổi sáng của ngày 14 tháng 4 là ngày bắt đầu lễ té nước, các con cháu chuẩn
bị nước thơm ở tay để tạ lỗi với bố mẹ và té nước. Ngoài ra, người Lào đi
chùa để té Phật, buộc chỉ cổ tay. Ngày 17 mới là ngày rước Phật lên chùa và
có xây tháp cát theo phong tục. Đây là dịp con cháu về nhà đầy đủ sum họp,
bố mẹ là những người vui vẻ, hạnh phúc, may mắn nhất.
Vào đêm mùng 3 tháng 3 Phật lịch, là ngày tốt đẹp nhất của người
Lào Lùm vì ngày này là dịp buộc chỉ cổ tay cho người già trong gia đình
và làm nước thơm để té cột nhà, cột phòng. Mọi hoạt động vui chơi, ăn
uống đều diễn ra trong khơng khí sự quan tâm của con cháu dành cho
người già.
Hội đua thuyền là lễ hội được gọi là lễ Okphansa (lễ mãn
chay) diễn ra vào tháng 10 dương lịch hằng năm, đây là một trong
những lễ hội mang đậm nét văn hóa truyền thống của Lào. Theo
phong tục của người Lào sau ba tháng ăn chay, lễ mãn chay gồm có
3 hoạt động chính đó là: hành lễ (trong đó có cúng thực và rước nến
xung quanh chùa), thả thuyền đèn và quan trọng, sôi nổi nhất là hội
đua thuyền. Trước ngày lễ người dân đến các ngôi chùa trong thành
phố để làm lễ Tắc bạt (lễ khẩn Phật, xá tội). Đêm trước của ngày
hội đua thuyền họ tập trung ở bờ sơng Mê Kơng để thả đèn và
thuyền xuống dịng sơng cầu mong hạnh phúc và những điều tốt
đẹp. Lễ hội đua thuyền được xem như là một mốc khởi đầu cho
chuỗi hoạt động vui chơi, giải trí của người Lào [28, tr.157].
Ngồi ra, từng tháng và từng nơi cũng có lễ của địa phương mình như:
lễ tháp lớn (Thát Luổng) ở thủ đô Viêng Chăn được tổ chức trong tháng 12
Phật lịch, lễ Vắt Phu (lễ chùa núi) ở tỉnh Chăm Pa Sắc và lễ tháp
Sikhottabong (lễ tháp huyện cũ) ở tỉnh Khăm Muộn tổ chức trong ngày răm
tháng 3 Phật lịch…


14


Văn hóa phi vật thể
Văn hóa phi vật thể là phần khơng thể nhìn bằng giác quan, mà có giá
trị trong tâm lý của con người như: triết học, lễ phép, đạo đức, luật, tiếng nói,
phong tục, các lễ hội… “Văn hóa phi vật thể thì tiềm ẩn trong trí nhớ của con
người, chỉ khi nó được khách thể hóa (thông qua các hoạt động của con
người, xã hội trong một khoảng thời gian nhất định) thì người ta mới nhận
biết được các hình thái biểu trưng của nó”[30, tr.22].
Tương tự như văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể cũng được coi như
một bộ phận của văn hóa nói chung. Theo nghĩa hẹp, khái niệm này gắn liền
với đời sống tơn giáo của con người, nó thể hiện các lý tưởng trí thức, các giá
trị tâm linh bảo đảm cho mới liên hệ của con người với thượng đế.
Theo nghĩa rộng khái niệm văn hóa phi vật thể được hiểu như là tổng
thể kinh nghiệm tinh thần của nó nhằm bảo đảm sự phát triển của con người
với tư cách là một vật thể có văn hóa.
Văn hóa phi vật thể tồn tại dưới vô vàn các dạng thức khác nhau. Đó là
các tập quán, các chuẩn mực, các khn mẫu ứng xử đã hình thành trong điều
kiện lịch sử - xã hội cụ thể; là các lý tưởng đạo đức, tơn giáo,thẩm mỹ xã hội,
chính trị và tư tưởng; là các lý niệm, các trí thức khoa học, các hình tượng
nghệ thuật, v.v. trong những nền văn hóa phát triển, các thành tố này biến
thành cấc lĩnh vực hoạt động khác nhau và được thiết chế hoá trong đời sống
xã hội một cách độc lập, như đạo đức, tơn giáo, nghệ thuật, chính trị, khoa
học, v.v. điều cần lưu ý là, nếu như văn hóa vật thể có nguồn gốc từ thế giới tự
nhiên thì sự hình thành văn hóa phi vật thể lại khơng phải như vậy, khơng có
một cơ sở nào trên thế giới tự nhiên tạo điều kiện để con người làm việc đó.
Làm cơ sở cho sự ra đời văn hóa phi vật thể chính là đời sống xã hội.
Mặc dù người ta dễ dàng thống nhất với nhau là cơ sở cho sự ra đời
văn hóa phi vật thể là bản thân xã hội, song cho đến nay vẫn cịn có sự
tranh cãi. Vậy thì văn hóa phi vật thể đã xuất phát từ đâu trong xã hội? Có



15

người cho rằng lao động sáng tạo ra. Trên lập trường này, người ta cịn
khẳng định văn hóa phi vật thể chỉ tồn tại trong kho tàng văn hóa cổ truyền.
Những nếu tán thành với cách lập luận này thì các giá trị và chuẩn mực về
đạo đức, tôn giáo, thẩm mỹ của các nhà bác học và giới quý tộc trong các
xã hội truyền thống nên xếp vào đâu? Thêm vào đó, nếu coi nền văn hóa
phi vật thể chỉ là một bộ phận của văn hóa cổ truyền, vậy thì trong xã hội
hiện đại lẽ nào con người khơng cịn tiếp tục sáng tạo ra các giá trị mới
nữa?
Vậy văn hóa phi vật thể khơng chỉ bao gồm những dạng thức của văn
hóa dân gian, mà là những dạng thức của văn hóa bác học và cung đình,
chúng không được sản sinh từ trong các xã hội truyền thống, mà cả trong xã
hội hiện đại. Có điều, trong tình hình cụ thể hiện nay khơng chỉ ở Lào mà nói
chung trên tồn thế giới, khi mà khuynh hướng coi trọng các tiện nghi vật
chất đang chiếm phần ưu thế, trong khi các giá trị văn hóa cổ truyền, nhất là
văn hóa phi vật thể, đang ngày càng mai một và có nguy cơ bị qn lãng, thì
tất yếu cần phải ưu tiên mọi nguồn lực để phục nguyên, khai thác và sử dụng
các giá trị văn hóa đó. Như ví dụ: Lời nói của chủ tịch nước Kai Sone
Phomvihan đã cho rằng “Hết văn hóa là hết quốc gia”[36, tr.1].
Văn hóa sinh hoạt vật chất
Về ẩm thực: Nét ăn uống của người Lào Lùm khá đơn gian, món ăn ưa
thích của họ là những sản vật của núi rừng: rau rừng, măng, mây, cá sông
Mê Kông... và được chế biến hồn tồn đơn giản. Những món ăn như canh
măng, nộm đu đủ, lạp thịt, nướng gà, cơm lam... là những món phổ biến
trong cộng đồng. Ngồi ra, người Lào Lùm có món ăn đặc biệt khác nhau
trong địa phương.
“Ở mỗi vùng miền, mỗi dân tộc có văn hóa ẩm thực riêng và ẩm thực
của người Lào Lùm góp phần lớn làm phong phú thêm sự tinh túy về ẩm thực

của dân tộc ta” [30, tr.60].


16

Về trang phục truyền thống
Từ lâu trong mỗi bản mường, nhân dân có khả năng tự sản xuất được các
loại chăn, vải. Khi chưa có thuốc nhuộm, người Lào dùng các loại quả rừng, củ
rừng. Các cơ gái thích mặc vải hoa, vải kẻ có màu đậm, tươi tắn như màu cỏ cây
hoa là tự nhiên trong rừng núi bao la trùng điệp của quê hương mình. Kiểu áo
quần, màu sắc cũng được chú ý sao cho tiện lợi, phù hợp với từng mùa, từng
hoàn cảnh cụ thể khi lao động sản xuất, dự lễ hội, cưới xin, ma chay...
Phụ nữ Lào Lùm thường mặc váy. Theo tập quán cổ truyền, phụ nữ Lào
mặc váy có cạp, có gấu, khơng quá ngắn hoặc quá dài. Đi dự lễ hội, phụ nữ
Lào Lùm ăn mặc theo truyền thống. Đó là váy tồn tơ, chân váy có những
đường hoa văn mang màu sắc, chiếc áo tay ngắn được may cầu kỳ hơn, có
những đường viền hoặc thêu hình hoa lá, chim mng.
Hiện nay cách ăn mặc của người Lào Lùm có một số thay đổi theo xu
hướng hội nhập với thời đại nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của người Lào
Lùm. Chẳng hạn ở thành thị, thanh niên ưa thích ăn mặc âu phục, một số cơ
gái mặc quần, uốn tóc nhưng đa số phụ nữ vẫn mặc váy, riêng chiếc áo sơ mi
có nhiều kiểu mới mẻ hơn trước.
Tóm lại, bản sắc văn hóa là những nét đặc trưng, độc đáo và
cơ bản nhất để nhận diện một nền văn hoá và để phân biệt nền văn
hoá này với một nền văn hoá khác. Đây là hệ thống các giá trị đặc
trưng bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển
trong lịch sử và được biểu hiện thơng qua nhiều sắc thái văn hóa.
Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu
tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính
tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn [29, tr.58].

1.1.2.
1.1.2.1.

Khái niệm giữ gìn và quảng bá
Khái niệm giữ gìn

Giữ gìn là giữ cho được nguyên vẹn, không bị mất mát, tồn hại. Duy trì
về nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng. Giữ gìn dùng trong nhiều


17

trường hợp như giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, giữ gìn đạo đức truyền
thống tốt đẹp hay giữ gìn vốn quý của dân tộc.
Giữ gìn trong vấn đề bản sắc dân tộc được hiểu là duy trì sự nguyên
gốc qua thời gian. Nguyên gốc ở đây không nhất thiết phải là nguyên gốc vật
chất mà có thể là nguyên gốc về mặt tinh thần tức là vị trí, vai trị chức năng
của nó trong đời sống tâm lý con người. Nó được hiểu tuỳ theo bản chất của
di sản văn hóa, bối cảnh văn hóa và sự vận động của nó qua thời gian mà
những sự kiểm định tính ngun gốc có thể được gắn với lượng giá trị của
một sự đa dạng lớn các nguồn thông tin. Các nguồn thơng tin này có thể bao
gồm các mặt như kiểu dáng và thiết kế, vật liệu và chất liệu, chức năng và tác
dụng, truyền thông và kỹ thuật, địa điểm và cảnh quan, tinh thần và tình cảm,
và các yếu tố bên trong và bên ngồi khác.
Ví dụ như ở Trung Quốc có hơn 350.000 di tích bất động sản được nhà
nước xác định mà chỉ có khoảng vài nghìn cơng nhân (kể cả kỹ thuật viên)
trực tiếp tham gia vào cơng việc bảo tồn thì tại Việt Nam với hơn 3400 di tích
thắng cảnh được Bộ Văn hóa Thơng tin cơng nhận, khoảng ngần ấy di tích
được các địa phương ra quyết định bảo vệ, số lượng người tham gia trực tiếp
vào công tác tu bổ di tích có tính chun nghiệp cịn ít hơn nhiều. Nên không

thể đáp ứng nổi nhu cầu tu bổ tôn tạo chống xuống cấp di tích ở khắp các địa
phương. Trước tình hình đó ở nhiều nơi nhân dân đã tự động đứng ra vận
động tu bổ tơn tạo di tích. Nhiều địa phương đã mời các cơ quan tư vấn thiết
kế vốn khơng chun về bảo tồn di tích xây dựng phương án thiết kế tu bổ tơn
tạo di tích. Tại những nơi này nhân dân địa phương thực hiện việc tu bổ tơn
tạo di tích chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống do người xưa truyền lại.
Tức tuỳ theo số kinh phí có được để sửa chữa, mở mang, hoặc xây mới làm
cho bộ mặt di tích trở nên khang trang. Đặc biệt tại những di tích tín ngưỡng
tôn giáo, do những nơi này không chỉ là di tích dưới dạng “hiện vật bảo tàng”
mà cịn là nơi linh thiêng, nhân dân địa phương vẫn tới thờ cúng thần, phật.


18

Trong mỗi làng thơn Việt Nam giờ đây vẫn cịn rất nhiều hiệp thợ nắm
vững kỹ thuật truyền thống xây dựng và tơ tượng đúc chng. Chính họ tham
gia tu sửa di tích tại quê nhà. Hơn thế nữa các di tích tơn giáo tín ngưỡng ở
Việt Nam hầu hết điều trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa trong quá khứ,
ngay cả các tháp Chàm trong khu vực Mỹ Sơn (Quảng Nam) cũng đã qua
nhiều lần tu bổ trong q khứ. Tình hình đó cho thấy nếu địi hỏi phải giữ gìn
tính xác thực của một thời kỳ nào đó của di tích là khơng thể thực hiện được,
mà cần phải tơn trọng q trình thay đổi của di tích. Một điều đáng quan tâm
nữa là các di tích này vẫn cịn là nơi thờ cúng vì vậy một số nơi bị mất tượng
phật người ta nghĩ ngay đến việc làm tượng mới thay vào (chùa Tây PhươngHà Tây), mất đầu tượng người ta cũng không thể không làm đầu tượng mới
(chùa Ngô Xá- Nam Định). Người ta không thể cầu khấn ở nơi khơng có
tượng hoặc trước pho tuợng mất đầu. Tượng Bà tại tháp Ponagar -Nha trang
bị mất đầu, lập tức người ta làm lại cho tượng một cái đầu mới. Người Việt
khơng có truyền thống thờ tượng bán thân, hoặc chiêm bái tượng khiếm
khuyết, việc này chỉ có từ khi Tây vào nước. Rõ ràng đối với các di tích này
nếu địi hỏi tính xác thực của di tích về vật liệu thì rất khó thực hiện mà phải

quan tâm đến tính xác thực về chức năng và tác dụng, truyền thông và kỹ
thuật, tinh thần và tình cảm của di tích, đây là một kiểu gìn giữ văn hóa rất
phổ biến hiện nay và ở Lào cũng không phải ngoại lệ.
1.1.2.2. Khái niệm quảng bá
Khái niệm quảng bá được hiểu theo nghĩa thông thường là phổ biến
rộng rãi bằng các phương tiện thông tin. Trong triết tự từ Hán Việt thì quảng
là rộng lớn, bá là làm bung ra, vung ra. Quảng bá từ tiếng Hán có nghĩa
khuếch tán, làm lan rộng ra một việc gì đó hay ý tưởng nào đó.
Theo nghĩa đó thì quảng bá trong lĩnh vực văn hóa hay cụ thể hơn là
quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc được hiểu là đem các giá trị văn hóa độc
đáo, riêng biệt, những nét đẹp của quốc gia dân tộc phổ biến rộng rãi ra toàn


19

thế giới. Mục đích là hướng các giá trị tốt đẹp của quốc gia mình đến với tồn
nhân loại, qua đó mọi người sẽ hiểu và trân trọng giá trị dân tộc mình hơn.
Hiện nay khái niệm quảng bá đi liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật
và công nghệ. Quảng bá diễn ra với quy mô lớn chưa từng có và tốc độ phủ
sóng cực kỳ nhanh. Các thiết bị truyền dẫn hay các phương tiện thông tin đại
chúng mang các giá trị văn hóa đến với đơng đảo cộng đồng người trên tồn
thế giới với các cách thức mới mẻ, qua đó giá trị văn hóa cũng được tô điểm
thêm, nâng cao mục tiêu quảng bá.
1.2. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Lào về giữ gìn,
quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm
1.2.1. Đường lối của Đảng nhân dân Cách mạng Lào về giữ gìn,
quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Lào Lùm
Thời gian qua, trước sự khủng hoảng sâu sắc của tình hình kinh tế - xã
hội, đặc biệt là những năm 1988 – 1991, sự tan rã của các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và sự sụp đổ của Liên Xơ dẫn đến tình hình thế giới có diễn

biến phức tạp. Những mâu thuẫn cũ chưa giải quyết xong mâu thuẫn mới lại
phát sinh đan xen nhau, vừa có thuận lợi, vừa có những thử thách đối với các
dân tộc Lào nói chung Lào Lùm nói riêng. Do đó, nước Lào cũng phải phải có
sự điều chỉnh đường lối chiến lược cho phù hợp với các quan hệ quốc tế.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào có quan điểm chỉ đạo rõ ràng đối với các lĩnh
vực văn hóa: “Đảng ta coi văn hóa là cơ sở xã hội, bảo đảm cho sự tồn tại và
phát triển của dân tộc, vừa là động lực quan trọng thúc đẩy con người, vừa là
mục tiêu phát triển xã hội” [31, tr.27]
Quan điểm của Đảng về văn hóa: Đảng nhân dân cách mạng Lào
coi văn hóa là cơ sở của sự tồn tại của quốc gia. Bởi vì văn hóa làm cho
con người cả nước trở thành một khối đoàn kết, tạo thành sức mạnh để
bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Quốc gia nào không bảo hoặc bảo vệ không
được tốt phong tục tập quán, phong tục tập quán về văn hóa của quốc gia


20

mình, quốc gia đó sẽ mất đi, bị quốc gia khác chiếm lấy hoặc trở thành
người của nước khác. Vậy cơng tác bảo vệ văn hóa quốc gia cũng là bảo
vệ tổ quốc.
Phương hướng nhiệm vụ chung: tiếp tục thực hiện phương hướng xây
dựng nền văn hóa mang tính tính quốc gia và tiến bộ; tiếp thêm sức mạnh cho
người Lào tinh thần yêu nước, yêu chế độ dân chủ nhân dân, có quan điểm lập
trường chính trị vững vàng, có đạo đức, có phong cách sống lành mạnh tốt
đẹp và có tài năng, trình độ, sự hiểu biết rộng tương xứng với nhu cầu sự
nghiệp đổi mới, có khả năng nhận biết, tiếp thu những kết quả của sự tiến bộ
mọi mặt trong thới đại mới.
Thực hiện theo Nghị quyết Đại hội của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
lần thứ IX và hướng dẫn của Đảng ủy Bộ Thông tin và Văn hóa Lào về vấn đề
xây dựng nếp sống văn minh về tinh thần cho nhân dân Lào đến năm 2020,

trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước phải liên quan với công
việc bảo vệ tài sản về văn hóa và phong tục tập quán tốt đẹp của Nhà nước nói
chung, nói riêng là phải lập kế hoạch sinh sống văn hóa mới. Để giúp cho nhân
dân Lào có sự phát triển về tinh thần đi cùng với sự phát triển về kinh tế, sử
dụng khoa học công nghệ hiện đại vào trong cuộc sống hàng ngày.
Đối tượng phấn đấu: thúc đẩy khuyến khích, cổ vũ các phong trào hoạt
động về văn hóa, văn nghệ, làm cho càng ngày càng giàu thêm các màu sắc
văn hóa, đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ về đời sống thinh thần của nhân
dân; phấn đấu sản xuất các chương trình, làm ra những sản phẩm văn hóa, văn
nghệ có chất lượng tốt lên, cả về hình thức và nội dung. Phản ánh các tập thể,
cá nhân có những cống hiến cao cả, tốt đẹp và văn hóa chung của cộng đồng,
dân tộc, vì lợi ích quốc gia, nhất là trong thời kỳ nhân dân Lào đang tiến vào
sự nghiệp đổi mới, tiến bộ và tốt đẹp. Phải quan tâm và coi việc sản xuất sản
phẩm văn hóa có giá trị, có chất lượng phù hợp với trình độ và sở thích cũng
như địi hỏi đúng đắn của quần chúng.


21

Việc bảo tồn phải đi đôi với phát huy nét đẹp của văn hóa truyền thống
nói chung và dân tộc Lào Lùm nói riêng. Biết phát hiện và khơi đậy các tiềm
năng, tính sáng tạo của tồn dân, phát triển nó hịa vào dịng chảy của nền văn
hóa đất nước. Đấu tranh không khoan nhượng với những biểu hiện của lối
sống xa hoa, trụy lạc; quan điểm, suy nghĩ, hành động lệch lạc; tẩy chay và
chống lại mọi hành động phá hoại nền văn hóa và những phong tục tập quán
tốt đẹp của các bộ tộc, của quốc gia. Chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật và tạo
điều kiện thuận lợi phục vụ cho mục tiêu phát triển mạnh mẽ về văn hóa ngay
từ thập niên đầu của thế kỷ 21.
Phương hướng lãnh đạo: Cơng tác văn hóa trong những năm tiếp theo
sẽ thực hiện theo phương hướng lãnh đạo chung mà Đảng nhân dân cách

mạng Lào đã chỉ ra là: vừa bảo vệ, vừa xây dựng và phát huy di sản và giá trị
văn hóa quốc gia; chống lại luồng văn hóa độc hại và những hành động làm
băng hoại nền văn hóa tốt đẹp của nhân dân các bộ tộc Lào.
Muốn đạt được mục tiêu đó, Đảng, Nhà nước cần có chính sách ưu
tiên phát triển và có hành lang pháp lý chặt chẽ, thống nhất và đồng bộ để
tạo điều kiện thuận lợi cho quấn chúng nhân dân, đặc biệt là những người
sáng tác, người biểu diễn cống hiến hết tài năng cho sự nghiệp phát triển
chung của các dân tộc.
Bảo vệ, xây dựng và phát huy văn hóa phải gắn với sự nghiệp đổi mới
tồn diện của Đảng. Cùng với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó, mọi
hoạt động văn hóa phải được định hướng một cách rõ ràng, có cơ sở và nền
tảng vững chắc dựa trên những nét văn hóa truyền thống nhằm phục vụ sự
nghiệp bảo vệ độc lập, xây dựng đất nước giàu mạnh phát triển hiện đại cho
nhân dân các dân tộc.
Việc bảo vệ, xây dựng và phát huy văn hóa quốc gia phải gắn với việc
mở rộng quan hệ trao đổi với văn hóa với các nước anh em, bạn bè quốc tế
nhằm học hỏi kinh nghiệm, biện pháp quản lý và tiếp thu văn hóa tinh hoa


×