Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc giáy ở tỉnh lào cai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.43 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” được Đảng ta xác định là nhiệm
vụ cấp bách và lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Bước vào thời kỳ hội nhập đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan
hệ giữa dân tộc và quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn
minh, vấn đề xây dựng nền văn hoá mới đáp ứng yêu cầu phát triển chung của
đất nước, hòa nhập với khu vực và quốc tế lại càng có ý nghĩa quan trọng. Quá
trình hội nhập tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển, nhưng cũng đặt ra những
thách thức không nhỏ đối với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam.
Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và
giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa dân tộc đang bị mai một, pha
trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Do vậy khẳng định hệ giá trị văn
hoá các dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự, vừa lâu dài đảm bảo
cho quá trình hội nhập mà không bị hoà tan.Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương năm, khóa VIII. Đảng ta chủ trương: Phải tiếp tục cụ thể bằng
hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết để văn hóa các dân tộc
thiểu số phát triển trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Nước ta có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có những sắc thái, bản địa
riêng, chúng bổ sung cho nhau làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố
sự thống nhất dân tộc tạo nên nền văn hoá nước ta là nền văn hoá thống nhất
mà đa dạng. Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Giáy là dân tộc có số dân đứng
thứ 25 trong 54 dân tộc. Người Giáy là cư dân lúa nước. Họ cư trú ở nơi bằng
phẳng, có sông suối, hay ở thung lũng thuộc các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Hà
1
Giang, Cao Bằng. Riêng ở Lào Cai có 24.360 người Giáy cư trú tập trung thành
làng, thành bản. Sự phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến
đời sống của người Giáy ở đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá
phong phú. Nó biểu hiện ở thế giới quan, nhân sinh quan, phong cách tư duy, lối


sống, sinh hoạt, ứng xử, tình cảm v.v…của con người. Trước sự vận động và
biến đổi của thế giới luôn diễn ra không ngừng, sự tác động của cơ chế thị
trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, điều đó
không thể không ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt là bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số ở Lào Cai trong đó có dân tộc Giáy. Việc giữ gìn bản
sắc văn hoá từng dân tộc đang là chuyện thời sự của thời đại và cũng đang là
vấn đề được đặt ra với nước ta.
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần
nhỏ vào mục tiêu của cả nước nói chung, và tỉnh Lào Cai nói riêng, tôi chọn
“Vấn đề giữ gỡn và phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Tỉnh Lào Cai
hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học triết học của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ
khác nhau.
Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa dân tộc có những tác phẩm tiêu biểu:
Huy Cận "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994; Ngô Văn Lệ "Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam", Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1998; Hoàng Nam "Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt
Nam", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998;Nguyễn Từ Chi "Góp phần nghiên
cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2003; Hồ Bá Thâm
"Bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Văn hóa Thông tin, 2003; Nguyễn Khoa Điềm (chủ
biên), "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
2
dân tộc", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004 ; Vy Trọng "Bản sắc văn hóa hành
trang của mỗi dân tộc", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2005.
Kể từ khi Đảng ta chủ trương thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề về
văn hóa các dân tộc thiểu số được chú ý đặc biệt. Liên quan đến vấn đề này đã
có có nhiều tạp chí và nhiều cuốn sách nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau
như: Đề tài "Nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam", Ban chấp hành Hội Văn Hóa
các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hà Nội, 1992; , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,

1996; Lò Giàng Páo "Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số", Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội, 1997; Ngô Văn Lệ "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam",
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998. Đề tài của Lê Thị Mỹ Vân "Văn hóa truyền thống
của các dân tộc Jrai và Bahnar ở tỉnh Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải
pháp", Luận văn thạc sĩ Triết học, 1999, Đại học KHXH & NV - ĐHQG Hà
Nội; ; Nguyễn Khoa Điềm "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân
tộc thiểu số", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7/2000; Đỗ Văn Hòa "Vấn đề giữ
gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; Đinh Thị Hoa, "Nhân tố chủ quan với việc giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường Tỉnh Phú Thọ hiện nay", Luận
văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hà Nội, 2006;
Trần Văn Bính (chủ biên), "Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những
vấn đề đặt ra", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Viện Chủ nghĩa xã hội
khoa học "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số vùng tây bắc
nước ta", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2007, Học viện Chính trị –
Hành chính Quốc Gia HCM, Hà Nội, 01- 2008.
Đặc biệt những bài viết và công trình nghiên cứu về văn hoá dân tộc
Giáy có liên quan trực tiếp đến luận văn như:
3
Lò Ngân Sủn, Sần Cháng (sưu tầm, tuyển dịch), "Tục ngữ Giáy", Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 1994; Lù Dín Siềng "Truyện cổ Giáy", Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội, 1995; Sần Tráng "Văn học dân gian Tỉnh Lào Cai – Dân tộc Giáy
Lào Cai", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996; Sần Tráng “ Vươn chang hằm
( dân ca Giáy)”, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2000; Sần Tráng "Dân ca trong
đám cưới và trong tiệc rượu người Giáy", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2001;
Sần Tráng “ Giới thiệu Mo lễ tang dân tộc Giáy Lào Cai”, Hội văn học nghệ
thuật Tỉnh Lào Cai, 2003; Sần Tráng "Một số phong tục tập quán dân tộc Giáy
Lào Cai", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003.
Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc

điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân
tộc Giáy ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc
tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Giáy (nói chung),
người Giáy ở Lào Cai (nói riêng) nhằm giới thiệu về những nét đặc sắc - cái hay,
cái đẹp của văn hóa dân tộc Giáy. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn
đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy nhưng mới chỉ đề
cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể; chủ
yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Giáy ở góc độ văn hóa, chưa đi sâu vào
nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học. Mặt khác do tác động
của kinh tế thị trường, tác động của mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề
văn hoá dân tộc Giáy đang biến đổi và có những khía cạnh mới cần tiếp tục đi
sâu vào nghiên cứu thêm, từ đó có những giải pháp thiết thực để giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy hiện nay. Chính vì vậy đề tài “Vấn đề giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Tỉnh Lào Cai hiện nay” góp phần
vào thực hiện mục đích đó
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc Giáy, thực trạng của việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai, từ đó đưa ra phương hướng và
một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy tốt bản sắc văn hóa của
dân tộc Giáy ở địa phương này hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chính sau:
+ Làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc Giáy, những nhân tố tác động tầm quan
trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Việt Nam hiện
nay.
+ Phân tích thực trạng của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Giáy ở Lào Cai hiện nay và những vấn đề đặt ra.

+ Nêu phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn, phát huy
tốt bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở tỉnh Lào Cai hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác
định đối tượng nghiên cứu là bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai dưới
góc độ triết học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và
phong phú Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của
dân tộc Giáy mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học
5
những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Giáy ở Lào Cai
nhằm giữ gìn và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, về dân
tộc và chính sách dân tộc. Đồng thời có kế thừa các thành tựu một số công trình
liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết
hợp nhuần nhuyễn các phương pháp: Lịch sử và logic; phân tích và tổng hợp;
quy nạp và diễn dịch; điều tra, so sánh nhằm đạt mục đích và nhiệm vụ mà
luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của dân tộc Giáy, phân
tích thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Giáy ở Lào
Cai. Qua đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy tốt bản

sắc văn hóa của dân tộc Giáy ở Lào Cai trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý
luận về bản sắc văn hóa và vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Giáy ở Lào Cai hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy các bộ môn: Triết học, Văn hóa học, Dân tộc học ở các nhà trường,
đồng thời nó còn làm tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và
quản lý văn hóa ở Tỉnh Lào Cai
7. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
7
Chương 1
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC GIÁY HIỆN NAY
1.1. MỘT SỐ NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC, BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN
TỘC GIÁY
1.1.1. Một số nét về bản sắc văn hóa dân tộc
Để hiểu được bản sắc văn hoá dân tộc trước tiên chúng ta phải tìm hiểu
khái niệm văn hoá là gì?
Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, trên thế
giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống
nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các
chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực
đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động
trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người.
Theo quan điểm mác xít nền tảng của lịch sử là hoạt động lao động của con
người và quá trình con người sáng tạo ra lịch sử cũng là quá trình con người sáng tạo

văn hoá . Vì vậy lao động cũng được xem là nguồn gốc của văn hoá cho nên việc đưa
ra một quan niệm về văn hoá nhất thiết phải căn cứ vào hoạt động có tính đặc trưng
này của con người. Điều này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác quán triệt
trong toàn bộ các luận giải của mình.
Quan điểm mácxít cho rằng lao động là hoạt động mà ở đó xác lập và thể hiện
sâu sắc mối quan hệ giữa con người – tự nhiên, con người – xã hội và con người - văn
hoá. Nếu như loài vật chỉ kiếm sống bằng cách lợi dụng những vật có sẵn trong tự
nhiên và nhờ đó xác lập bản chất của chúng – bản chất của loài vật , thì ngược lại, qua
lao động – tức là hoạt động cải biến tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người
8
thì bản chất của con người cũng được xác lập và phát lộ mà C.Mác gọi là “ lực lượng
bản chất người”. Sở dĩ Mác quan niệm như vậy, bởi vì lao động là một đặc thù của
chính con người. Con vật hành động một cách bản năng, còn con người hành động có
mục đích, có đối tượng và trước khi hành động con người đã có mô hình được xác lập
trong óc. Tuỳ theo mô hình đó và phương thức thực hiện trong hoạt động mà con
người sáng tạo ra văn hoá ở những trình độ khác nhau. Mặt khác, qua lao động các
quan hệ của con người được xác lập, được biến đổi , kể cả quan hệ với tự nhiên. Vì
vậy con người cũng được hoàn thiện dần, vì anh ta với tư cách là chủ thể của mọi hoạt
động nhưng lại là khách thể chịu sự biến đổi của môi trường do chính anh ta tạo ra,
cho nên cái bản năng tự nhiên của con người cũng được biến đổi và ngày càng có “tính
người”. Nhờ vậy, văn hoá được quy định bởi phương thức để kiếm sống và phương
thức sử dụng các sản phẩm được tạo ra.
Bàn đến văn hoá và sự phát triển của văn hoá , chủ nghĩa Mác còn thừa nhận,
với tư cách là một hệ giá trị, văn hoá bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử, bởi năng
lực thực hiện “ lực lượng bản chất người”. Vì vậy, mỗi bước tiến của lịch sử là một
bước tiến tương ứng của văn hoá. Và mặc dù hệ giá trị văn hoá rất đa dạng, luôn luôn
biến đổi cùng lịch sử nhưng hệ giá trị đó bao giờ cũng dịch chuyển về phía chủ nghĩa
nhân đạo mà hằng số là chân - thiện – mỹ.
Khi so sánh hoạt động của con người và động vật, C.Mác cho rằng: cố nhiên
súc vật cũng sản xuất, nó xây dựng tổ, chỗ ở của nó như con ong, con hải ly, con

kiến… nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến,
nó sản xuất một cách phiến diện; còn con người thì sản xuất một cách toàn diện ; con
vật chỉ sản xuất và bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất
ngay cả khi được giải phóng khỏi nhu cầu của thể xác, và chỉ khi giải phóng khỏi nhu
cầu đó thì con người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của chữ đó, con vật chỉ tái
sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ thế giới tự nhiên; sản
phẩm của con vật thì trực tiếp gắn liền với thể xác của nó, còn con người thì đối diện
9
một cách tự do với sản phẩm của mình. Con vật chỉ chế tạo theo kích thước và nhu cầu
của loài đó , còn con người có thể sản xuất theo kích thước của bất cứ loài nào và ở
đâu cũng biết vận dụng cái bản chất cố hữu của mình; do đó con người cũng chế tạo
theo quy luật của cái đẹp.
Như vậy có thể nói việc con người tạo ra “thiên nhiên thứ hai” theo quy luật của
cái đẹp là cái thuộc tính bản chất, quy định cái văn hoá trong hoạt động của con
người. Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển con người thì
văn hoá là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quyết định sự tồn tại của con người với
tư cách là một thực thể sinh vật thì văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những
năng lực bản chất người gắn liền với các hoạt động sống của con người.
V. I . Lênin trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, bảo vệ và phát triển các nguyên lý
của triết học Mác, V.I . Lênin đã phân tích sâu sắc thêm về mặt xã hội của văn hoá với
cách tiếp cận từ hình thái kinh tế xã hội. Chính Lênin đã đề ra nguyên tắc quan trọng
trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới. Đó là những nguyên tắc về tính đảng, tính
nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hoá ; xác định sự nghiệp văn hoá là
một bộ phận trong guồng máy cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Theo Lênin nền văn hoá vô sản có khả năng phát triển toàn diện năng lực bản chất của
con người cho nên nó phải là sự kế thừa có phê phán các giá trị văn hoá của dân tộc
và nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hoá và bản
chất người. Lênin viết: “Nền văn hoá vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó
không phải là do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản bịa đặt
ra…văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người

đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, địa chủ và của xã hội quan liêu” [47,tr.
402]
Nói đến bản chất của văn hoá, Hồ Chí Minh người học trò xuất sắc của C.Mác,
Ph. Ăngghen, V. I. Lênin , người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế
giới – có quan niệm về văn hoá rất rộng; xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ truyền
10
thống văn hiến ngàn đời của dân tộc Việt Nam, với tầm nhìn bao quát, Người đưa ra
khái niệm về văn hoá như sau : “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày
về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [26 ,tr.431]
Quan điểm đó của Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm
trù văn hoá, chỉ ra văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con
người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người cũng chỉ ra
nguồn gốc sâu xa của văn hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư
cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện sự thống nhất của
yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội trong con người,biểu hiện khả năng và sức sáng tạo
của con người.
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại
Pháp , Tổng thư kýý UNESCO định nghĩa:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc
tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã
hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố

nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội.
Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một
xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
11
Trong quan niệm của Đảng ta, văn hoá là một lĩnh vực thực tiễn của đời
sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân tộc
được coi là thuộc tính cơ bản của văn hoá, phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và
văn hoá trong điều kiện dân tộc đã hình thành. Tính dân tộc là nội dung quan
trọng luôn được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu. Trong bản đề cương văn hoá
(1943) Đảng ta khẳng định nền văn hoá mới, phải đảm bảo tính dân tộc, tức là
bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc. Quan điểm
này tiếp tục được khẳng định trong suốt quá trình tiến hành cuộc cách mạng tư
tưởng văn hoá. Tới hội nghị Trung ương 5 khoá VIII quan điểm đó được cụ thể
hoá trong nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Gần đây tại Đại hội IX, nghị quyết Đại hội một lần nữa
khẳng định:“Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội [17,tr.114]
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định
nghĩa khác nhau: “Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực
bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống
giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt
động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình”[24,tr.13-14]
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử
của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con
người trở thành Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con
người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn
hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể
hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất
tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất

tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất
12
hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ
cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong các
dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể,
nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực
đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán…
Từ một số khía cạnh đã trình bày ở trên có thể hiểu văn hoá là một hệ
thống các giá trị xã hội( giá trị vật chất và giá trị tinh thần) cũng như phương
thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của con người và
sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên văn hoá không phải là “cái chung trừu tượng” giống nhau ở mọi
xã hội, mọi cộng đồng- dân tộc. Nếu mỗi cộng đồng- dân tộc có đời sống xã hội
riêng biệt, đặc thù, một lịch sử hình thành và một hiện thực con người không
đồng nhất với các cộng đồng khác, thì tất nhiên văn hoá mang tính riêng biệt,
đặc thù của mỗi dân tộc. Một dân tộc tồn tại là tồn tại cùng với nền văn hoá do
chính mình tạo ra. Văn hoá in dấu mọi mặt của đời sống xã hội thuộc một dân
tộc nhất định, của một cộng đồng riêng biệt , chúng ta gọi là “bản sắc dân tộc của
văn hoá” hay “bản sắc văn hoá dân tộc”
Bản sắc văn theo nghĩa ban đầu “ bản của một sự vật” là cái gốc, cái căn
bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của sự vật; còn “sắc của một sự vật” là cái biểu hiện
ra bên ngoài của sự vật đó. Theo từ điển Tiếng Việt bản sắc là “màu sắc, tính
chất riêng tạo thành đặc điểm chính” [41,tr 31]
Có quan điểm cho rằng bản sắc là tính chất đặc biệt vốn có tạo thành phẩm
cách riêng…Như vậy theo quan điểm này bản sắc của một sự vật là những đặc
điểm riêng biệt chỉ có ở sự vật ấy.
Theo cách hiểu của chúng tôi, mỗi sự vật có nhiều thuộc tính( tính chất, đặc
điểm, dấu hiệu, nét…) trong đó có những thuộc tính chung và những thuộc tính
riêng, những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những tính cơ bản của một sự
13

vật chính là bản sắc của sự vật ấy. Nói đến bản sắc của mỗi sự vật trước hết là
nói đến thuộc tính riêng của sự vật ấy, song thuộc tính riêng ấy gắn bó chặt chẽ
với thuộc tính chung. Do đó theo chúng tôi bản sắc của một sự vật nào đó là tập
hợp những thuộc tính cơ bản của sự vật ấy mà qua đó ta biết được sự giống và
khác nhau giữa sự vật ấy với sự vật khác.
Khái niệm bản sắc được hiểu như trên, còn khái niệm dân tộc thì được
hiểu như thế nào? Khái niệm dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa chính là
dân tộc quốc gia (naion) và tộc người (ethnic, ethnie). Dân tộc quốc gia là “
Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống
nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn
hoá và truyền thống đấu tranh chung”.[41, tr.247). Ví dụ dân tộc Việt Nam, dân
tộc Pháp…Một dân tộc quốc gia gồm nhiều tộc người với nhiều ngôn ngữ,
phong tục tập quán, nếp sống văn hoá khác nhau. Tộc người là “Cộng đồng
người có tên gọi, địa vực cư trú,, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt và văn hoá
riêng” [41, tr1008]; là “ Cộng đồng người có chung ngôn ngữ, lịch sử – nguồn
gốc, đời sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc”. [51, tr.7]. Ví dụ dân tộc Kinh,
dân tộc Giáy, dân tộc Tày…Một tộc người bao gồm nhiều nhóm địa phương
khác nhau. Trong một dân tộc quốc gia, ngôn ngữ của tộc người chiếm đa số
thường được coi là quốc ngữ (ngôn ngữ chính thức của dân tộc quốc gia).
Như vậy khi nói đến dân tộc chúng ta cần phân biệt hai nghĩa của khái
niệm dân tộc. Trong luận văn này khi nói đến bản sắc văn hoá dân tộc, thì khái
niệm dân tộc được hiểu theo nghĩa tộc người.
Trên cơ sở xác định nội dung cơ bản của các khái niệm bản sắc và dân tộc
như trên làm cơ sở cho việc xác định khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc
Khi tìm hiểu một dân tộc nào đó chúng ta có thể nhận ra chữ viết, ngôn
ngữ, phong tục tập quán, đặc biệt là những tính cách con người của dân tộc ấy,
cho dù dân tộc đó đã trải qua bao biến thiên của lịch sử. Xuất phát từ đó một số
14
quan điểm cho rằng, bản sắc của một dân tộc chỉ gồm có những đặc điểm riêng
của dân tộc ấy. Như vậy quan điểm này đã tuyệt đối hoá tính đặc thù dân tộc .

Một số quan điểm khác cho rằng, tuy có sự tồn tại khác biệt giữa các dân tộc,
nhưng sự khác biệt này không phải là quan trọng và càng ít quan trọng hơn trong
xu thế toàn cầu hoá, mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hoá. Đây là quan
điểm phủ nhận tính đặc thù dân tộc. Mỗi quan điểm trên đều có những khía cạnh
thực tế nhất định, nhưng tính cực đoan không bao giờ là chân lý. Vì thế bản sắc
của một dân tộc là thuộc tính cơ bản của dân tộc ấy mà nhờ đó chúng ta biết
được dân tộc ấy giống và khác dân tộc khác như thế nào.
Lịch sử loài người đã chứng minh rằng, loài người để được hoàn thiện
phát triển như hiện nay đã phải trải qua quá trình vận động và phát triển lâu dài,
với nhiều cộng đồng người khác nhau, ở những vùng miền khác nhau cả về địa
lý tự nhiên, cả về phương thức thoả mãn nhu cầu cuộc sống của con người. Như
thế về mặt lịch sử cái tự nhiên thứ hai – tự nhiên Người hay văn hoá không phải
là cái được tạo ra một lần cho tất cả và cho mãi mãi, mà ở các cộng đồng khác
nhau, với không gian khác nhau, nó đã được tạo ra theo những phương thức
không giống nhau và vì vậy diện mạo của nó cũng không hoàn toàn giống nhau
ở các cộng đồng khác nhau. Nói về sự không giống nhau ấy cũng chính là nói về
sự khác nhau trong bản sắc văn hoá của các cộng đồng. Nghĩa là khi nói bản sắc
văn hoá của mỗi cộng đồng, là người ta muốn nói rằng, mỗi cộng đồng đã hiện
hình bản chất Người của mình trong những sắc thái riêng, được quy định bởi
không gian sống với những điều kiện tự nhiên và lịch sử của cộng đồng ấy.
Như vậy bản sắc văn hoá dân tộc được hình thành và phát triển phụ thuộc
vào đặc điểm tộc người, điều kiện lịch sử, tự nhiên, môi trường cư trú, thể chế
chính trị, cũng như sự giao lưu với các nền văn hoá khác. Nói đến văn hoá là nói
đến việc dân tộc đã sáng tạo, đã vun trồng nền văn hoá đó; bản sắc dân tộc về
văn hoá cũng chính là bản sắc văn hoá của dân tộc ấy.
15
Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt
nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời
khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc luôn là chính mình: “Một dân tộc
qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị

người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được tiếng nói của mình, vẫn
giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của
mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của sự giải phóng, chìa
khóa của tự do, độc lập” . [14, tr.48]
Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa bản sắc văn hoá dân tộc là tổng thể
những giá trị bền vững, những tinh hoa văn hoá vật chất và tinh thần làm nên
sắc thái riêng của một dân tộc trong lịch sử và trong phát triển mà qua đó
chúng ta biết được dân tộc này với dân tộc khác trong đời sống cộng đồng
Những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất
và tinh thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với chính
điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai đoạn phát
triển khác nhau của một dân tộc. Những giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua
những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó không những không mất đi, mà cùng
với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái phù hợp của văn hóa
các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn hóa dân tộc mình, làm cho
nó là nó chứ không phải là cái khác. Bản sắc văn hoá dân tộc có ý nghĩa như “
tấm thẻ căn cước” của một dân tộc để nhận diện dân tộc đó trong vô vàn các dân
tộc trong một nhân loại chung. Vì vậy phải đứng trên quan điểm phủ định biện
chứng, để kế thừa, chọn lọc, loại trừ yếu tố lạc hậu, bổ sung yếu tố mới, tiến bộ,
phù hợp với sự phát triển của cuộc sống.
Một dân tộc nếu như đánh mất bản sắc văn hóa, thì thực chất dân tộc ấy đã
đánh mất chính mình. Một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy
đủ bản sắc của dân tộc. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
16
tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với
sự tồn vong của mỗi dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng thể những giá trị bền vững do
cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Nhờ nền văn hoá vững chắc và sức mạnh văn hoá to lớn dân tộc ta vẫn giữ
và phát huy được sức mạnh của mình, mặc dù nghìn năm Bắc thuộc dân tộc ta

chẳng những không bị đồng hoá mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập
tự do cho dân tộc. ở đây chứa đựng những tinh hoa mang đậm cốt cách, diện
mạo, tâm hồn của con người, của các tộc người. Nói cách khác là có những giá
trị tinh tuý nhất, quan trọng nhất, bền vững nhất, là những sắc thái gốc riêng biệt
của mỗi dân tộc, có thể làm căn cứ để phân biệt dân tộc này nới dân tộc khác. Đó
chính là bản sắc văn hoá của chính dân tộc ấy.
Trong chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, Đảng ta chỉ rõ:
“Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, ýý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ýý thức cộng đồng gắn kết
cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý dân tộc thực tế, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, tế nhị trong cư xử,
giản dị trong lối sống…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. [19, tr.56]
Sự đặc sắc trong văn hoá dân tộc Việt Nam là một nền văn hoá vừa đa dạng
vừa thống nhất, là sự đan xen, tiếp xúc, biến đổi, bổ sung lẫn nhau của văn hoá
các tộc người. Sự cố kết cộng đồng của 54 dân tộc anh em sống xen kẽ nhau
trong một lãnh thổ, chung một ngôn ngữ phổ thông. Quá trình dựng nước và giữ
17
nước đã hun đúc nên ý thức cộng đồng; cùng chung một cái nôi sinh thành, cùng
một dòng văn hoá chủ đạo. Các dân tộc Việt Nam có chung một khát vọng là
muốn cùng sinh sống, cùng chung một ý thức dân tộc, ý thức người Việt Nam.
Tuy nhiên mỗi một vùng văn hoá nước ta, do điều kiện tự nhiên, phương thức
canh tác, sự giao lưu văn hoá, tâm lý cộng đồng, nguồn gốc lịch sử mà có những
sắc thái văn hoá riêng thể hiện ở tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, lối
sống, lối ứng xử trong các sinh hoạt xã hội và trong giao tiếp văn hoá. Ở đây thể
hiện tính thống nhất và tính đa dạng phong phú không loại trừ nhau mà bổ sung

nhau. Trong quá trình giao lưu văn hoá, những yếu tố đặc trưng cốt lõi của mỗi
dân tộc vẫn được giữ lại, duy trì và phát huy nó làm nên sắc thái độc đáo không
chộn lẫn với các dân tộc khác làm cho nền văn hoá Việt Nam muôn vàn hương
sắc. Như vậy hoà hợp dân tộc không làm mất đi tính riêng biệt của bản sắc văn
hoá tộc người cùng với sự tiến bộ của cả cộng đồng dân tộc. Có thể nói, nền văn
hoá Việt Nam là một nền văn hoá thống nhất được biểu hiện rất đa dạng bởi sự
phát triển và bổ sung lẫn nhau giữa văn hoá của Tổ quốc và văn hoá của từng tộc
người
Từ khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam,
theo chúng tôi: Bản sắc văn hoá dân tộc Giáy là tổng thể những giá trị bền
vững, những tinh hoa văn hoá vật chất và tinh thần làm nên sắc thái riêng của
dân tộc Giáy trong lịch sử và trong quá trình phát triển của cộng đồng dân tộc
Việt Nam. Trong quá trình phát triển của mình dân tộc Giáy có một di sản các
giá trị văn hoá tinh thần vô cùng phong phú thể hiện tâm hồn, cốt cách độc đáo
của dân tộc Giáy trong lối sống, lối ứng xử với tự nhiên, ứng xử giữa con người
với con người.
1.1.2. Một số nét đặc trưng bản sắc văn hoá của dân tộc Giáy.
Trong cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự
nhận mình bằng tên riêng “ Pú Giáy” hoặc “ Hún Giáy” nghĩa là Người Giáy.
18
Dân tộc Giáy có tên gọi khác là Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Sa Nhân…
Ngoài ra còn một số tên gọi khác, đây là những tên gọi theo thổ ngữ hoặc theo sự
pha tạp ngôn ngữ của các tộc người khác như: dân tộc Tày, Thái gọi người
Giáy là “ Giẳng” hay “ Nhẳng”, dân tộc Mông gọi người Giáy là “ Xúa”(Hán);
vùng châu Hồng Hà(Vân Nam) Trung Quốc gọi người Giáy là Sa. ở Quảng Tây
Trung Quốc thì xếp người Giáy vào nhóm Choang. Tại Quảng Tây có một tộc
người phụ nữ mặc trang phục giống phụ nữ Giáy ở Việt Nam nhưng gọi là “Mao
Nam” thuộc nhóm Choang Thuỷ.
Dân tộc Giáy có số dân theo con số thống kê năm 1989 là 37.964 người,
đến năm 1999 là 49.098 người, địa bàn cư trú chủ yếu ở Lào Cai, Hà Giang, Lai

Châu, Cao Bằng.
Người Giáy thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. thuộc hệ tiếng nói Thái-
Kađai. Theo các nhà nghiên cứu, tộc người Giáy di cư vào Việt Nam từ thế kỷ
XVI do: “Sự chèn ép của các tộc người phương Bắc đối với các ngành Dao ( từ
thế kỷ XIV đến nay) và các tộc người Sán Chay, Sán Dìu, Giáy…( từ thế kỷ
XVI đến gần đây) và nạn đói kém, loạn lạc, áp bức đã khiến họ di cư vào Việt
Nam”
[35, tr.32]
Đồng bào Giáy sống định cư và họ gọi đơn vị cư trú của mình là làng
“Luổng”, bản “ Bán”. Địa vực cư trú chủ yếu của người Giáy là ven sông, suối,
thung lũng và những bãi bằng , cho nên dân tộc Giáy là cư dân lúa nước từ rất
sớm. Trong tục ngữ Giáy có câu: “ Xịp ba rì - tý bỏ đáy xì ná” có nghĩa là
( Mười đám nương không so được một góc ruộng). Người Giáy cư trú quần tụ
với hàng trăm nóc nhà và thành từng làng, làng người Giáy thường nằm xen kẽ
các làng của tộc người khác như: Tày, Nùng, Thái Người Giáy tự cho là không
có quốc gia riêng của dân tộc mình và người Giáy không có vua ( Giáy bỏ mý
pướng, Giáy bỏ mý vướng), cho nên trong cuộc sống luôn hoà đồng với các tộc
19
người khác.Trải qua mấy thế kỷ sinh sống trên các địa bàn trên lãnh thổ Việt
Nam, dân tộc Giáy đã cùng các dân tộc anh em tham gia đấu tranh chống giặc
ngoại xâm rất dũng cảm. Cũng như các tộc người khác ở Việt Nam, người Giáy
mặc dù sống xen cư và trải qua bao biến thiên của lịch sử nhưng vẫn gìn giữ, bảo
tồn được những giá trị văn hoá độc đáo, riêng có của dân tộc mình. Những giá
trị văn hoá vật thể và phi vật thể được kết tinh trong ăn, ở, trang phục, lễ hội,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tri thức dân gian… của đồng bào Giáy góp phần
tạo nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Dân tộc Giáy ở Lào Cai trước đây có khoảng 3.800 người( theo tài liệu
điều tra dân số 1-1-1930 của Pháp để lại), đến 1963 qua tài liệu điều tra dân số
có 9.671 người. Hiện nay ở Lào Cai Dân tộc Giáy có 24.360 người, là dân tộc
có số dân khá đông đứng thứ 5 trong 25 dân tộc thiểu số ở Lào Cai.

Mặc dù có những đặc trưng cơ bản nhưng người Giáy ở Lào Cai chia ra
một số nhóm địa phương sau: Giáy Nắm còn gọi là “Pú Nắm” nói tiếng nặng
hơn phát âm hơi trầm và chênh âm của từ, nghiêng sang tiếng Nùng ở vùng Thái
Niên, Xuân Quang - Huyện Bảo Thắng; Giáy Nóng là người Giáy xen với người
Nùng ở vùng Bản Lầu- Huyện Mường Khương; Giáy Táy là xen với người Tày
ở vùng Cam Đường, Tả Phời thành phố Lào Cai; Giáy Ca Đí tiếng nói nhanh,
phát âm nhanh cao và thanh. Những nhóm này về đại thể, có những đặc trưng
văn hóa thống nhất như: cùng một vùng thổ ngữ, cùng một loại hình sinh hoạt
phong tục tập quán, một loại hình văn nghệ dân gian,
Người Giáy sống đông nhất dọc theo sông Hồng từ thành phố Lào Cai
ngược đến A-mú-sung( Bát Xát), sau đến các huyện Bảo Thắng, Mường
Khương, và sống xen kẽ ở hai huyện, Sa Pa, Bắc Hà.
Trải qua những năm tháng bị bọn đế quốc, phong kiến chia rẽ…Nhưng lịch
sử người Giáy ở Lào Cai vẫn phát triển thành một khối. Đến nay, người Giáy
vẫn có các nhóm địa phương nhưng tựu trung lại chỉ là một dân tộc mà tên
20
thường gọi là Người Giáy,mặc dù từng nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự nhiên
và chịu ảnh hưởng của các dân tộc xung quanh rồi xa dần cái nguyên gốc của
mình. Tuy vậy, người Giáy ở Lào Cai vẫn mang trong mình những nét văn hóa
riêng, độc đáo cần được giữ gìn, và phát huy.
Khi nói đến văn hóa của một tộc người là nói đến tổng thể các yếu tố :
Tiếng nói, chữ viết, lối sống , cách ứng xử với môi trường tự nhiên; các mối
quan hệ tự nhiên; các mối quan hệ xã hội, các sắc thái tâm lý, tình cảm, những
phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng…Những yếu tố này được hình thành
trong lịch sử, nó có tính đặc thù, bền vững và ổn định, được chuyển giao và phát
triển không ngừng từ thế hệ này qua thế hệ khác, được hoàn thiện dần cùng với
sự phát triển của tộc người. Hay nói cách khác: Văn hoá tộc người là tổng thể
những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của một dân tộc- tộc người cụ thể ,
được hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển tộc người đó.
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và

phong phú Như đã trình bày ở phạm vi nghiên cứu, Luận văn không trình bày
toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Giáy mà chủ yếu khai thác một
cách có hệ thống, những giá trị văn hóa đặc trưng thuộc về văn hoá dân tộc
Giáy.
Bên cạnh những nét chung mang đậm nét đặc sắc của bản sắc văn hoá dân tộc
Việt Nam, đó là tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình thương yêu con
người tôn trọng cuộc sống và đề cao nhân phẩm con người, tinh thần đoàn kết
cộng đồng, tương thân, tương ái, ham học hỏi, khả năng thích ứng nhanh…văn
hoá dân tộc Giáy còn có những nét riêng mang dấu ấn độc đáo của tộc người Giáy
có thể khái quát một số nét đặc trưng như sau
Thứ nhất, Văn hoá dân tộc Giáy là một loại hình văn hoá lúa nước thể
hiện trong nhà ở, trang phục,văn hoá ẩm thực….
21
Trước hết, nói đến văn hóa của dân tộc Giáy là phải nói đến một loại hình
văn hoá lúa nước Bởi lẽ, Người Giáy lựa chọn vị trí địa lý để lập làng bao gồm
các vùng tự nhiên như: những thung lũng bằng phẳng, ven sông, suối, những bãi
bằng …Là những nơi thuận tiện cho việc sản xuất, gieo trồng cây lúa nước, cho
nên dân tộc Giáy là cư dân lúa nước từ rất sớm. Một đặc điểm của loại hình văn
hoá này là tất cả các ngày tết, lễ hội trong năm đều theo mùa vụ của cây lúa
nước, với những đặc thù như vậy đã hình thành nên một nền văn hóa tương
ứng, đó là loại hình văn hóa lúa nước. Những nét văn hoá đặc trưng của tộc
người Giáy thể hiện trong nhà ở, trang phục,văn hoá ẩm thực…
+ Nhà ở: Người Giáy dựng nhà theo hai kiểu cấu trúc nhà trệt và nhà sàn.
Trong đó cấu trúc nhà sàn chỉ thuộc về một số nhóm người Giáy sống ở Hà
Giang, Cao Bằng. Còn cấu trúc nhà trệt phổ biến hơn, là kiểu giáng của tất cả các
nhóm người Giáy sống ở Lào Cai, Lai Châu và được xem như là mô hình đại
diện của ngôi nhà người Giáy.
Ngôi nhà trệt điển hình của người Giáy là nhà khung gỗ lợp hai mái gianh
cao vút. Hai đầu hồi trên nóc nhà có thể được trang trí hoa văn gỗ hoặc để thông
thoáng. Tường nhà 4 bức được nện bằng đất hoặc làm bằng gỗ tấm hay phên tre

nứa, cách mặt đất gần 20cm.
Trong nhà gian chính giữa đặt bàn thờ và làm nơi tiếp khách. Gian bên trái
gồm 2 phần: buồng trong khép kín là buồng ngủ của ông bà chủ nhà, buồng
ngoài làm nơi ngủ của các con trai và khách nam. Gian bên phải cũng gồm 2
phần: Phía trong là buồng dành cho con gái và khách nữ, phía ngoài gian bên
phải để thông thoáng, có thể kê thêm giường cho người già hoặc bỏ trống. Gian
bên phải thường có cửa ngách thông ra bếp và gian bếp đó có một cửa thông ra
phía trước. Trên trần nhà gian chính giữa người Giáy treo một tấm vải đỏ, ghi lại
giờ, ngày, tháng năm dựng ngôi nhà đó và nó được lưu giữ đến khi nào chủ nhân
dựng nhà mới hoặc dời ngôi nhà đó sang một thế khác. Phía trên gian bên trái và
22
bên phải người ta kê gỗ tấm làm gác xép để cất giữ thóc giống, lương thực và
các vật dụng gia đình khác.
Nếp nhà là một đơn vị không gian chứa đựng tế bào của xã hội. Đó có thể
là một gia đình nhỏ gồm một cặp vợ chồng và con cái chưa đến tuổi trưởng
thành, cũng có thể là tổ hợp gia đình lớn có từ hai cặp vợ chồng trở lên và đàn
con cháu của họ. Dù gia đình nhỏ hay lớn, đều có một sự thống nhất cộng đồng
tộc người trong giải pháp nội thất xử lý phân chia mặt bằng như đã trình bày ở
trên.
+ Công cụ lao động và sinh hoạt:
Công cụ lao động của người Giáy đa số là tiếp nhận công cụ của các dân tộc
khác. Chỉ có một vài công cụ của riêng của người Giáy như chiếc bừa đôi; đôi
dậu gánh thóc. Công cụ thu hoạch gồm có: liềm, nép, ván thùng đập lúa ( gọi là
táu).
Là cư dân lúa nước cho nên trong sáng tạo văn hóa trên cánh đồng ven
sông, suối và thung lũng , dân tộc này chỉ có công cụ lưỡi kim loại là: Dao (phạc
sá), cày (phạc xay), cuốc (phạc dạc),
Con dao được coi là công cụ lao động quan trọng bậc nhất trong việc tạo ra
những giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa vật chất. Người ta dùng nó để lấy gỗ,
tre dựng nhà ở, tạo ra các công cụ và vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày, dùng để

chế biến thức ăn, phát cây cỏ Trong cung cách làm ăn ấy, dao được xem như
công cụ vạn năng hầu như lúc nào cũng được người chủ mài sắc cho vào bao dao
được làm bằng ống tre, hoặc vầu, có dây buộc và luôn đeo bên hông.
+ Trang phục
Nam giới mặc quần ống rộng nhưng ống lại được thắt chéo( lá toạ), áo
ngắn cổ tròn có chân, mở giữa cúc cài khuy bằng vải, đầu đội khăn vải bông
nhuộm chàm với những nút thắt, chít để khi nhuộm nước chàm không thấm tạo
23
thành những chấm trắng như sao với các hình vuông, chữ nhật, tam giác, quả
trám, hình cây, hình lá Màu sắc quần áo của nam giới là màu đen và chàm
thẫm.
Phụ nữ Giáy mặc áo ngắn xẻ nách phải cài khuy vải hoặc bạc, cổ đứng viền
vải khác màu, tay áo và tà áo cũng viền vải khác màu. áo nữ đủ các loại màu
nhưng tuyệt đối không có màu trắng. Các cô gái trẻ thường mặc áo màu xanh lá
cây và trang trí áo với chiếc cúc cài đầu tiên phía cổ áo, được tết bằng vải nhiều
mầu thành hình hoa. “Nụ hoa” duy nhất này cùng với các viền cổ viền tà áo khác
màu làm cho áo của các thiếu nữ Giáy tuy giản dị nhưng trông lại nổi bật, hấp
dẫn. Quần của phụ nữ Giáy màu đen, cạp quần dùng vải màu thường là vải đỏ
khâu luồn dây thắt (giải rút). Phụ nữ Giáy thường vấn tóc tròn quanh đầu, các cô
gái trẻ thì cuốn vòng thêm quanh vòng tóc vấn của mình những sợi chỉ hoặc len
đỏ để trang trí gọi là piêm máo. Đầu đội khăn vuông( trước kia là màu chàm, nay
là khăn len kẻ ô nhiều màu) gấp chéo, hai đầu góc khăn được thắt về phía sau
thành kiểu đuôi én. Đeo túi vải thêu hoa văn, ở đáy túi thêu hình răng chó( hẻo
ma), đi giày vải thêu hoa văn nhiều loại.
+Văn hoá ẩm thực:
Trong tiếng Giáy, lương thực gọi là Háu( lúa, gạo, cơm). trong bữa ăn hàng
ngày người Giáy ăn cơm tẻ đồ( gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ
đồ). Nước luộc gạo được dùng làm nước uống. Đây là một nét đặc trưng và in
đậm trong văn hóa tộc người Thức ăn là các món xào và canh. Các bữa ăn có
khách có thể thêm món luộc, rán. Nếu là bữa tiệc thì có thịt quay, món khẩu

nhục(thịt lợn ba chỉ rán, tẩm ướp gia vị rồi cho vào hấp cùng dưa cải chua cay),
xá xíu và thịt nạc nấu canh. Các ngày lễ tết có xôi nếp, và các loại bánh trái khác,
người Giáy hay chế biến xôi nhiều màu( xôi ngũ sắc). Người Giáy quan niệm
rằng năm màu của xôi là tượng trưng cho ngũ hành, năm nguyên tố cơ bản tạo
nên đất trời theo quan niệm của đạo Lão và Kinh Dịch,
24
Trong bữa ăn người Giáy không phân biệt mâm trên, mâm dưới, trẻ con,
người lớn đều ngồi trung mâm, phía đầu mâm( tính phía cùng với bàn thờ) thì
chỉ người có tuổi mới được ngồi. Trong khi ăn những miếng nạc, ngon phải dành
gắp cho người già, trẻ nhỏ hoặc khách. Chân gà, đầu gà dành cho nam giới. Khi
bắt đầu ăn chỉ mời một câu chung nhất “ mời ăn cơm thôi”, không mời từng
người, nhưng khi ăn cơm xong thì phải phép cơm từng người.Trước khi ăn nếu
có khách bao giờ cũng có chậu nước ấm cho khách rửa tay.
Ngoài ra, cá thịt thường được chế biến bằng cách tẩm ướp với các loại gia
vị riêng như hạt dổi, củ “ xa chiêng” (địa liền )tạo nên mùi vị thơm ngon, độc
đáo riêng có của món ăn dân tộc Giáy mà ai đã thưởng thức một lần thì khó có
thể quên hương vị của nó.
Nước uống hàng ngày của người Giáy là nước luộc cơm, luộc rau, có
khách mới uống trà. Uống trong bữa ăn là rượu. Rượu là thức uống trong các
dịp vui buồn và là vật tượng trưng của các nghi thức. Họ dùng rượu khi đón tiếp
bà con và tiếp khách, nghi thức và cúng lễ, cưới xin và hội hè, ngâm thuốc để
uống tăng lực, cuối cùng là dùng trong tang ma. Người Giáy không bắt ép nhau
uống rượu nhưng lại uống quay vòng, người xuất phát đầu tiên uống bao nhiêu
thì những người tiếp theo tự phải uống bấy nhiêu, nếu không thì phải nhờ người
khác uống giúp. Trong uống rượu người Giáy không bao giờ uống cạn chén
rượu, không úp chén xuống bàn hoặc cất chén sang chỗ khác. Mình uống được
bao nhiêu thì uống, không uống được thì xin phép và cứ cầm chén lên nhấp môi
hưởng ứng là được. Người rót rượu chỉ khi thấy cạn chén mới rót, chứ không
phải cứ rót là uống. Người Giáy thường nói là “rót cho đẹp”
Thứ hai, Thế giới quan thần bí, sơ khai, tín ngưỡng vạn vật hữu linh ăn sâu bám

rễ vào trong mọi khía cạnh đời sống của tộc người Giáy
Theo người Giáy có 3 thế giới chính: Thế giới người đang sống; thế giới
trên trời nơi tiên phật, ông bà tổ tiên, Ngọc Hoàng ở; thế giới ở dưới âm ty nơi ai
25

×