Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Ths BCH báo CHÍ hải PHÒNG với vấn đề bảo vệ môi TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.73 KB, 117 trang )

MỤC LỤC
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị đẩy mạnh hiệu quả thông tin về vấn đề bảo vệ môi trường
trên báo chí Hải Phịng hiện nay...................................................................................................11
Chương 1: BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CƠ BẢN.........................................................................................................................................12
1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan..............................................................................12
1.2. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường........................................18
1.3. Cơ sở pháp lý của vấn đề bảo vệ mơi trường........................................................................23
1.4. Vai trị của báo chí với vấn đề bảo vệ mơi trường................................................................27
1.5. Những yếu tố tác động đến việc thông tin của báo chí đối với vấn đề bảo vệ mơi trường.37
2.2. Khảo sát thực trạng thông tin về bảo vệ môi trường trên 3 cơ quan báo chí Hải Phịng. .46


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường do các hoạt động
sản xuất công nghiệp và dân sinh đã và đang gây ra những ảnh hưởng tiêu cực
đến chất lượng mơi trường sống, làm suy thối đa dạng sinh học và gây ra
những tác động xấu đến sức khỏe con người. Trong q trình phát triển theo
hướng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, sự gia tăng các khu công nghiệp, nhà
máy sản xuất công nghiệp đang tạo nên những ảnh hưởng lớn về môi trường
khiến chất lượng không khí tại các khu đơ thị đang xuống cấp từng ngày, hệ
thống sơng ngịi, vùng biển ven bờ cũng dần dần bị ô nhiễm, chất lượng môi
trường sống tại nhiều vùng nông thôn cũng đã bị tác động nghiêm trọng. Sự
thay đổi này đã và đang tác động sâu sắc đến sức khỏe con người cũng như sự
phát triển bền vững – vừa đảm bảo phát triển kinh tế xã hội chất lượng cuộc
sống vừa bảo vệ được môi trường tự nhiên.
Vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng trở thành một trong những chính
sách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đại hội XI của Đảng đã nhận định:


“Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được
quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt
chưa phù hợp”. Đồng thời cũng ra quan điểm chỉ đạo: “Bảo vệ môi trường là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tồn xã hội và của mọi cơng dân. Kết
hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và
bảo vệ môi trường sinh thái”.
Thời gian qua, báo chí đã phản ánh hàng loạt các vụ việc vi phạm
nghiêm trọng về việc xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường như: việc xả
nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải của công ty Vedan, vấn đề ô nhiễm
nghiêm trọng kênh Tham Lương (Thành phố Hồ Chí Minh) do nguồn nước
thải từ khu cơng nghiệp Tân Bình, sự việc cá chết hàng loạt do xả thải ngầm


2

ra biển Vũng Áng của công ty Formosa Hà Tĩnh,… Những vụ việc trên được
đưa ra dư luận đã gióng lên hồi chng cảnh báo về tình hình ơ nhiễm môi
trường ở các địa phương, đe dọa trực tiếp đến điều kiện sống và sức khỏe của
con người.
Vấn đề ô nhiễm môi trường do việc xả thải chưa qua xử lý ngày càng
có xu hướng tăng. Lượng chất thải ngày càng lớn, tính độc hại và thành phần
biến đổi ngày càng phức tạp. Thống kê cho thấy, ở Việt Nam hiện nồng độ các
chất ô nhiễm tầng nước mặt thường cao như là các chất rắn lơ lửng, nhu cầu
oxy hoá, nitorit, nitorat…. gấp từ 2 – 5 lần, thậm chí tới 10- 20 lần trị số tiêu
chuẩn. Các khu dân cư gần khu vực các nhà máy xi măng, khu công nghiệp,
nhà máy sản xuất vật liệu,…bị ảnh hưởng ở mức nghiêm trọng hơn do các
điểm tồn lưu hóa chất, các bãi rác, nước thải trực tiếp chưa qua xử lý của các
nhà máy sản xuất. Hơn nữa, rất nhiều mương kênh rạch bị ơ nhiễm nguồn
nước, khơng khí lại thêm ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa cao,
trực tiếp xả rác thải sinh hoạt ngay gần nơi mình sinh sống.

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, cũng như các địa phương
khác, Hải Phòng cũng gặp phải vấn đề nguy cơ ô nhiễm môi trường. Một số
vụ việc ô nhiễm môi trường rất được quan tâm gần đây như xả nước thải chưa
qua xử lý của công ty cổ phần giấy Hapaco, bãi thải thạch cao chất thành núi
của công ty cổ phần DAP-Vinachem Đình Vũ, ơ nhiễm do bãi tập kết xỉ và tro
thải của các doanh nghiệp kinh doanh lại chất thải từ Nhà máy Nhiệt điện Hải
Phịng, ơ nhiễm rác thải ở mương An Kim Hải…. Hải Phòng là một khu vực
kinh tế năng động và có lợi thế phát triển kinh tế trong nhiều lĩnh vực như
khai thác cảng, công nghiệp đóng tàu, vật liệu xây dựng (xi măng, thép), chế
tạo máy, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản,… đồng thời là một đỉnh trong tam
giác trọng tâm phát triển kinh tế xã hội của miền Bắc cùng với Hà Nội và tỉnh
Quảng Ninh. Hơn nữa, Hải Phịng lại có môi trường sinh thái tự nhiên đa


3

dạng phong phú động thực vật nên sự phát triển kinh tế xã hội gắn với vấn đề
bảo vệ môi trường của Hải Phịng khơng chỉ có ý nghĩa cho riêng Hải Phòng
mà còn là động lực cho sự phát triển kinh tế của nhiều tỉnh lân cận.
Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại.
Bảo vệ môi trường không thể là một hoạt động rời rạc mà cần có sự phối hợp
liên tục của nhiều địa phương, nhiều cơ quan, đoàn thể và cả cộng đồng. Vì vậy,
việc thơng tin về vấn đề bảo vệ mơi trường trên báo chí Hải Phịng là một trong
những kênh quan trọng góp phần giảm thiểu những tác động của môi trường
đồng thời nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân về vấn đề mơi
trường, góp phần đạt được mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.
Trong những năm qua, ở Hải Phòng, cùng với sự phát triển của hệ
thống báo chí cả nước, báo chí Hải PHịng đã có những bước phát triển mạnh
mẽ cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay tại Hải Phịng có một số cơ quan
báo chí như: báo Hải Phòng, đài PT-TH Hải Phòng, báo An ninh Hải Phịng,

Tạp chí Cửa biển, báo Qn khu 3… và rất nhiều văn phịng đại diện phóng
viên thường trú của các cơ quan báo chí khác. Xác định là phương tiện thông
tin tuyên truyền hữu hiệu của Đảng, nhà nước và thành phố, báo chí Hải
Phịng ln giữ vững định hướng chính trị, tuyên truyền kịp thời các đường
lối, chủ trương chính sách nhằm bảo vệ mơi trường. Bên cạnh đó, báo chí Hải
Phịng cũng tham gia mạnh mẽ trong việc phản ánh những hành động gây ô
nhiễm môi trường đồng thời nêu gương những điển hình tiên tiến, mơ hình
hiệu quả trong cơng tác bảo vệ mơi trường. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền,
nâng cao ý thức người dân trong việc bảo vệ mơi trường cịn hạn chế, chưa
tác động được mạnh mẽ vào nhận thức của người dân để họ có hành động
thiết thực bảo vệ mơi trường sống.
Với những vấn đề nêu trên, tác giả luận văn chọn đề tài “Báo chí Hải
Phịng với vấn đề bảo vệ môi trường” để làm luận văn thạc sĩ của mình. Hy


4

vọng qua việc phân tích, khảo sát đánh giá có tính hệ thống thực trạng cơng
tác thơng tin về bảo vệ môi trường, luận văn sẽ đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nội dung và hình thức các tin, bài của báo chí Hải Phịng
trong thời gian tới, đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng, góp phần bảo
vệ mơi trường đi đơi phát triển kinh tế thành phố cũng như cả nước một cách
bền vững trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại.
Nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ mơi trường, trong thời gian qua, đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này
dưới nhiều góc độ khác nhau. Một số cơng trình nghiên cứu dưới dạng sách,
đề tài khoa học, bài viết, luận văn… được công bố, đăng tải trên sách báo tạp
chí, website chuyên ngành của trung ương và địa phương khi nghiên cứu về

vấn đề môi trường như:
- Báo cáo Việt Nam, môi trường và cuộc sống, Hội Bảo vệ Thiên nhiên
và Môi trường Việt Nam. Đây là một cơng trình của Hội Bảo vệ Thiên nhiên
và Môi trường Việt Nam tổ chức thực hiện Dự án Sida – VACNE về báo cáo
môi trường Việt Nam. Tài liệu nhằm giúp cho người đọc có thể nhìn nhận, tìm
hiểu các vấn đề mơi trường dưới góc độ của các nhà khoa học và các tổ chức
xã hội, đồng thời cung cấp một số kiến thức cần thiết về tài ngun và mơi
trường.
- Chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh cơng tác bảo vệ tài
ngun, môi trường: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hội đồng khoa học
các cơ quan Đảng Trung ương, NXB Chính trị quốc gia năm 2013. Nội dung
cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, các chuyên gia phân tích
về thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam, từ đó khơng chỉ đề ra những giải
pháp mang tính lý luận mà cịn cả những giải pháp thực tế nhằm giảm nhẹ tác
động đối với Việt Nam, bảo vệ tài nguyên, môi trường, phát triển bền vững.


5

- Môi trường và phát triển bền vững của tác giả Nguyễn Đình Hịe,
NXB Giáo dục năm 2009. Với cơng trình này, tác giả đã cung cấp những kiến
thức cơ bản về môi trường, gắn kết những vấn đề môi trường và phát triển
đồng thời chỉ ra thực trạng môi trường tồn cầu và Việt Nam, phân tích mơ
hình phát triển bền vững và mơ hình phát triển khơng bền vững, đưa ra những
định hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học “Báo chí với vấn đề biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện
nay” cấp Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS.TS Đinh Văn Hường chủ nhiệm
đã nghiên cứu thực trạng vai trị của báo chí nói chung và báo chí Việt Nam
nói riêng đối với vấn đề biến đổi khí hậu. Đồng thời chỉ ra những nội dung và
hình thức thơng tin của báo chí về biến đổi khí hậu cho cơng chúng Việt Nam

và đưa ra những giải pháp để báo chí nâng cao chất lượng, hiệu quả thơng tin,
tun truyền về vấn đề biến đổi khí hậu.
- Bài viết “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” của TS Bùi Thế Đức đăng trên Tạp chí Tuyên giáo số
10/2015 đã cho thấy quan điểm của Đảng và nhà nước ta về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bên
cạnh đó, bài viết cũng nêu lên những mặt hạn chế và một số giải pháp nhằm
đẩy mạnh công tác bảo vệ mơi trường.
- Bài viết “Thành phố Hải Phịng đẩy mạnh công tác tuyên truyền bảo
vệ môi trường” của TS Lê Văn Cường đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số
1-2017 đã khái quát những chủ trương, nghị quyết cũng như những kết quả
đạt được của thành phố Hải Phịng về vấn đề bảo vệ mơi trường.
Nghiên cứu về vai trị của báo chí đối với vấn đề bảo vệ mơi trường
trong những năm qua, có một số luận văn thạc sĩ như:
- Đánh giá tác động của báo chí đối với vấn đề bảo vệ mơi trường ở
Quảng Ninh của Trần Việt Phương, Luận văn thạc sĩ Truyền thơng đại chúng,
Học viện Báo chí và Tun Truyền, năm 2009. Luận văn đã tổng quát được


6

những khái niệm về môi trường và bảo vệ môi trường, đánh giá thực trạng tiếp
nhận thông tin của công chúng Quảng Ninh đối với vấn đề bảo vệ môi trường
thông qua việc khảo sát 2 tờ báo lớn là báo Tiền Phong, báo Lao động và 1 tờ
báo địa phương là báo Quảng Ninh. Đồng thời đã đi sâu vào phân tích vai trị
của báo chí cũng như đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin báo
chí về vấn đề bảo vệ mơi trường.
- Vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên trên báo in hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Phạm Thị Minh Thắm, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, năm 2011. Luận văn cũng đã đưa ra những khái niệm về môi

trường tự nhiên, tầm quan trọng của việc bảo vệ mơi trường tự nhiên cũng
như vai trị của báo chí trong việc báo vệ mơi trường nhưng tác giả lại chỉ
khảo sát trên báo in ở một số tờ báo viết về môi trường ở Việt Nam như báo
Tài ngun mơi trường, Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, báo Lao động.
- Báo in thành phố Hồ Chí Minh với vấn đề bảo vệ môi trường đô thị
(Khảo sát các báo: Sài Gịn giải phóng,Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh,
Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh, Người lao động Thành phố Hồ Chí Minh)
của Nguyễn Thị Vân, Luận văn Thạc sĩ báo chí học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, năm 2014. Tác giả đã đánh giá làm rõ thực trạng thông tin về
bảo vệ môi trường đô thị trên các tờ báo in lớn của thành phố Hồ Chí Minh để
từ đó có những giải pháp khuyến nghị làm căn cứ bước đầu cho việc định
hướng thông tin báo chí phù hợp hơn.
- Đài Phát thanh – Truyền hình Đồng Nai với vấn đề mơi trường, Luận
văn Thạc sĩ báo chí học của Thái Hồng Sơn, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, năm 2014. Việc nghiên cứu đánh giá làm rõ thực trạng các chương
trình phát thanh, truyền hình đã phát sóng về mơi trường tại tỉnh Đồng Nai
khiến tác giả đã có những phương hướng giải pháp cụ thể không chỉ cho việc
nâng cao hiệu quả thơng tin về mơi trường mà cịn cho các chương trình phát
thanh truyền hình nói chung.


7

Về tình hình nghiên cứu về báo chí Hải Phịng, gần đây nhất có 2 luận
văn thạc sĩ báo chí học là:
- Luận văn “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động
báo chí trên địa bàn thành phố Hải Phòng” của Trần Thị Hà Giang, Học viện
Báo chí tuyên truyền năm 2012. Luận văn đã nghiên cứu thực trạng quản lý
hoạt động báo chí Hải Phịng trên nhiều khía cạnh như: đối tượng quản lý; cơ
chế chính sách pháp luật quản lý báo chí, một số vấn đề đặt ra cho quản lý

báo chí Hải Phịng. Qua đó, luận văn đã khái qt tình hình quản lý báo chí và
đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động báo chí trên địa
bàn thành phố Hải Phịng.
- Luận văn “Báo chí Hải Phịng với vấn đề phản biện xã hội đối với
các quyết sách của thành phố” của Vũ Anh Thư, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Tác giả đã nghiên cứu, tập
hợp một số khái niệm về phản biện, phản biện xã hội trên cơ sở đó phác họa
những nét nổi bật của từng cơ quan báo chí, năng lực thực hiện và hiệu quả
hoạt động phản biện xã hội của bốn cơ quan báo chí đối với các quyết sách
của Thành ủy, chính quyền thành phố. Luận văn đi sâu phân tích thực trạng
phản biện xã hội của báo chí Hải Phịng trên các phương diện: tơn chỉ, mục
đích và đối tượng phục vụ; nội dung phản biện, phạm vi phản biện; tính chủ
động phản biện; cách tổ chức phản biện; cách trình bày và sử dụng thể loại.
Từ thực tiễn các hoạt động của báo chí Hải Phịng, tác giả nhận định một số
xu hướng và nêu lên các giải pháp – kiến nghị cụ thể để góp phần thúc đẩy
hoạt động phản biện xã hội của báo chí Hải Phịng.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề bảo
vệ môi trường ở nhiều cách tiếp cận khác nhau, ở địa phương khác nhau cũng
như vai trị của báo chí Hải Phịng trong một số vấn đề cụ thể. Nhưng chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu về các thể loại báo chí của một tỉnh thành phố,
gồm báo in và truyền hình tập trung về vấn đề bảo vệ môi trường ở địa


8

phương đó. Vậy nên việc nghiên cứu báo chí Hải Phịng với vấn đề bảo vệ
mơi trường là khơng trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hình thành khung lý thuyết – quan niệm về báo chí Hải

Phịng với vấn đề bảo vệ mơi trường và khảo sát thực tiễn, luận văn phân tích
đánh giá thực trạng đồng thời chỉ ra nguyên nhân thành cơng, hạn chế của các
tin bài viết, chương trình đã đăng tải, phát sóng của báo chí Hải Phịng về vấn
đề bảo vệ mơi trường. Từ đó, đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thông tin của báo chí Hải Phịng về vấn đề mơi trường, đáp
ứng nhu cầu thơng tin của cơng chúng, góp phần phát triển kinh tế Hải Phòng
gắn với bảo vệ mơi trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn thành khung lý
thuyết – quan niệm về báo chí trong việc thơng tin bảo vệ mơi trường.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng, nhu cầu tiếp nhận thông tin của độc giả
Hải Phịng về vấn đề thơng tin kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Khảo sát, thống kê, phân loại các tác phẩm báo chí liện đến vấn đềbảo
vệ mơi trường để từ đó phân tích, đánh giá thành cơng, hạn chế của báo chí
liên quan đến vấn đề này.
- Đánh giá nguyên nhân dẫn đến thành cơng, hạn chế của báo chí và đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của
cơng tác báo chí trong việc thơng tin bảo vệ mơi trường ở Hải Phịng đáp ứng
nhu cầu thông tin của công chúng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về báo chí Hải Phịng với vấn đề bảo vệ môi trường.


9

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu đối tượng

khảo sát là các tin, bài viết đã đăng tải trên báo in của báo An ninh Hải Phòng,
báo Hải Phòng; trên báo điện tử Hải Phòng và trang tin điện tử báo An ninh
Hải Phòng. Và các tin, bài, chuyên đề đã phát sóng trên sóng truyền hình đài
Phát thanh – Truyền hình Hải Phịng có nội dung về vấn đề bảo vệ mơi trường
trên địa bàn thành phố Hải Phịng. Thời gian nghiên cứu, khảo sát giới hạn
trong các tin, bài viết chuyên đề đã đăng tải và phát sóng trong năm 2016.
Có thể nói, báo Hải Phịng và Đài PT-TH Hải Phịng là hai cơ quan báo
chí tiêu biểu của thành phố, là tiếng nói đại diện cho Đảng bộ và chính quyền,
nhân dân thành phố và có số lượng cơng chúng nhiều hơn so với các loại hình
báo chí khác của thành phố. Trong hệ thống cơ quan báo chí, chỉ có Đài PTTH là cơ quan báo hình, báo Hải Phòng là cơ quan báo in phản ánh nhiều lĩnh
vực cuộc sống, gắn bó chặt chẽ với đời sống người dân. Hai cơ quan báo chí
này thường xun có tin, bài viết về vấn đề bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, báo
An ninh Hải Phịng lại có những bài viết với một số nội dung chuyên sâu,
mang tính đột phá, theo dõi được cả quá trình một vụ việc. Vậy nên, bên cạnh
nghiên cứu trong phạm vi báo Hải Phòng, Đài PT-TH hải Phòng, tác giả lựa
chọn báo An ninh Hải Phòng để làm sáng tỏ vấn đề báo chí Hải phịng đối với
vấn đề bảo vệ mơi trường hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của học thuyết Mác –
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước, các văn bản luật, nghị định chỉ thị của Bộ Tài ngun & Mơi
trường, chính quyền thành phố Hải Phòng liên quan đến lĩnh vực: báo chí và
bảo vệ mơi trường. Cơ sở lý luận trực tiếp là báo chí với vấn đề bảo vệ mơi


10

trường. Cơ sở lý thuyết này được dùng để nghiên cứu trong thực tế báo chí
Hải Phịng với vấn đề thông tin về bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Một là, phương pháp nghiên cứu tài liệu được dùng để thu thập,
nghiên cứu, khảo sát các văn bản, tài liệu báo chí về vấn đề bảo vệ mơi trường
ở nước ta nói chung và Hải Phịng nói riêng được cơng bố trên sách, báo, tạp
chí của các bộ, ngành và thành phố Hải Phòng.
- Hai là, phương pháp thống kê, phân loại được dùng để khảo sát, đánh
giá các tin, bài viết, chương trình được đăng tải, phát sóng trên báo Hải
Phịng, báo An ninh Hải Phòng và Đài Phát thanh – Truyền hình Hải Phịng.
- Ba là, phương pháp điều tra xã hội học: tiến hành phát 300 phiếu
khảo sát cho đối tượng là công chúng đọc và xem các tin, bài viết, chương
trình về vấn đề bảo vệ mơi trường để thu thập ý kiến cơng chúng. Mục đích
của phương pháp này là nhằm thu thập thông tin về về thực trạng thông tin về
vấn đề bảo vệ môi trường trên các hình thức báo chí Hải Phịng hiện nay.
Cách thức công chúng tiếp nhận thông tin về vấn đề bảo vệ mơi trường trên 3
cơ quan báo chí Hải Phịng như thế nào? Những thơng tin trên báo chí Hải
Phịng hiện đã đáp ứng được nhu cầu của cơng chúng hay chưa? Công chúng
mong muốn, gợi ý như thế nào để nâng cao hiệu quả, chất lượng thông tin về
vấn đề bảo vệ ôi trường hiện nay trên báo chí Hải Phịng? ...
- Bốn là, phương pháp phân tích, đánh giá để phân tích hiệu quả thơng
tin về vấn đề bảo vệ mơi trường của báo chí Hải Phịng và rút ra những kết
luận khoa học cần thiết, phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn hệ thống lại những quan điểm, chính sách của Đảng và nhà
nước về vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và Hải Phịng nói riêng trong


11


thời gian qua, định hướng trong thời gian tới đồng thời đánh giá về chức năng
nhiệm vụ của báo chí về vấn đề bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn sẽ làm rõ hơn
thực trạng, khẳng định nhiệm vụ thông tin của báo chí Hải Phịng với vấn đề
bảo vệ mơi trường. Đồng thời góp phần bổ sung vào hệ thống tài liệu tham
khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập của sinh viên ngành báo chí.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích đánh giá thực tế, luận văn tổng kết những kinh
nghiệm của báo chí Hải Phịng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị khoa
học thực tiễn giúp nâng cao hiệu quả thơng tin báo chí về vấn đề bảo vệ mơi
trường. Mục đích cuối cùng là phục vụ, đáp ứng nhu cầu thông tin của người
dân, giúp người dân nhận thức được tầm quan trọng và có những hành động
thiết thực để bảo vệ mơi trường.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này là cơ sở để các cơ quan báo chí địa
phương có những định hướng mới phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế,
nâng cao chất lượng tin bài về vấn đề bảo vệ môi trường theo hướng phù hợp,
hiệu quả và đáp ứng hơn nữa nhu cầu thông tin của công chúng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản: Báo chí Hải Phịng với vấn đề
bảo vệ mơi trường
Chương 2: Thực trạng báo chí Hải Phịng thơng tin về vấn đề bảo vệ
môi trường
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị đẩy mạnh hiệu quả thông tin về vấn đề
bảo vệ môi trường trên báo chí Hải Phịng hiện nay.


12

Chương 1: BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ liên quan
1.1.1. Một số khái niệm
- Báo chí
Trong xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới
như hiện nay, hoạt động thơng tin nói chung và báo chí nói riêng ngày càng đóng
vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Báo chí ra đời do nhu cầu thơng tin giao
tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Từ khi xuất hiện đến nay, báo chí ln
phản ánh hiện thực một cách đa dạng, sinh động và phong phú.
Báo chí là một hiện tượng xã hội phổ biến, phát triển từng ngày, tác
động và chi phối đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Trong q trình đó, báo
chí có những tác động to lớn đối với xã hội loài người được thể hiện trên
nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hố. Do vậy, việc nhận thức vai trị
của báo chí là một vấn đề bức thiết trong mọi thời đại, mọi hình thái Nhà
nước. Nó có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc điều hồ các mối quan hệ
xã hội theo định hướng chung của Nhà nước, tạo ra một môi trường ổn định
để phát triển kinh tế, xã hội. Chính vì thế, trong q khứ cũng như hiện tại có
nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra những khái niệm khác nhau về báo chí
dưới những góc độ khác nhau.
Theo PGS.TS Lê Thanh Bình, khi tìm hiểu khái niệm báo chí trong mối
quan hệ giữa “Báo chí và thơng tin đối ngoại” đã chỉ ra rằng báo chí thuộc
truyền thơng đại chúng nhưng chỉ là những bộ phận cấu thành của truyền
thông đại chúng. Quan niệm của tác giả đưa ra dựa trên cơ sở khái niệm về
phương tiện truyền thông đại chúng: Phương tiện truyền thông đại chúng là
các thiết chế nhà nước hay tư nhân, được thừa nhận về mặt pháp lý, có đầy
đủ phương tiện và cơng nghệ để sản xuất, nhân rộng và truyền tải các thông


13

điệp đến đông đảo quần chúng, đồng thời phải hoạt động tuân thủ những

nguyên tắc về quản lý kinh tế được quy định theo pháp luật hiện hành.[5,tr11]
Trong cuốn “Báo chí và mạng xã hội” của tác giả Đỗ Chí Nghĩa và
Đinh Thị Thu Hằng, đã đưa ra định nghĩa về báo chí như sau: “Báo chí là loại
hình các phương tiện truyền thông đại chúng được cơ quan thẩm quyền cấp
phép hoạt động, có nhiệm vụ chuyển tải thơng tin nhanh nhất, mới mẻ nhất
đến đông đảo công chúng, nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn” [30, tr 41].
Quan niệm này của tác giả muốn nhấn mạnh vai trị, chức năng, nhiệm vụ của
báo chí đối với cơng chúng. Bởi trong thời đại bùng nổ thông tin và các ứng
dụng của công nghệ internet như hiện nay, nhu cầu tiếp nhận thơng tin một
cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác của cơng chúng ngày càng tăng cao
khiến yếu tố định kỳ của báo chí đã bị phá vỡ vậy nên trách nhiệm của báo
chí là phải đáp ứng nhu cầu đó của cơng chúng.
Một quan niệm về báo chí khác trong “Cơ sở lý luận báo chí truyền
thơng” của PGS.TS Dương Xn Sơn là: Báo chí là loại hình hoạt động
thơng tin chính trị xã hội. Tác giả đã nhấn mạnh đến chức năng, vai trị của
thơng tin trong hoạt động báo chí. Bởi tác giả cho rằng: Để xã hội loài người
tồn tại và phát triển, con người cần nhiều loại hoạt động như sản xuất của cải
vật chất, sáng tạo nghệ thuật,… mà một phần hoạt động đó là hoạt động báo
chí nhằm cung cấp cho công chúng những thông tin, sự kiện, hiện tượng diễn
ra hằng ngày trong đời sống xã hội. Nhưng thông tin báo chí cung cấp là
thơng tin chứa đựng giá trị xã hội hay chính trị.
Xuất phát từ bản chất của báo chí truyền thơng, PGS.TS Nguyễn Văn
Dững cho rằng báo chí là hoạt động thơng tin - giao tiếp xã hội trên quy mô
rộng lớn nhất, là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là
công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối quan hệ với
công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và với các nhóm lợi ích, với các


14


nước trong khu vực và quốc tế… Quan niệm báo chí này được nhận định theo
nghĩa rộng, ở bình diện vĩ mơ của nền báo chí cũng như nhìn nhận báo chí và
hoạt động báo chí trong hoạt động thực tiễn với các mối quan hệ ràng buộc
như: quan hệ với cơng chúng – thị trường, các nhóm xã hội và nhóm lợi ích,
quan hệ với quyền lực chính trị và các thể chế trên nền tảng hiện thực đời
sống xã hội.
Trên cơ sở tìm hiểu những quan niệm báo chí khác nhau của các tác giả
trên, ta có thể thấy được phần nào đặc điểm và bản chất của hoạt động báo
chí. Tuy nhiên, trong khn khổ luận văn, tác giả xin được nhìn nhận báo chí
với góc tiếp cận là các loại hình báo chí để thấy được sự đa dạng trong cách
thức truyền tải thông tin đến với cơng chúng theo như Luật Báo chí năm 2016
đã giải thích: Báo chí là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề trong đời
sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất
bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đơng đảo cơng chúng thơng qua các
loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
- Mơi trường
Mơi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau, đặc biệt sau hội nghị Stockholm về môi trường 1972.
Một định nghĩa nổi tiếng của S.V.Kalesnik trong Các quy luật địa lí
chung của trái đất. M.1970 "Mơi trường (được định nghĩa với mơi trường địa
lí) chỉ là một bộ phận của trái đất bao quanh con người, mà ở một thời điểm
nhất định xã hội loài người có quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là
mơi trường có quan hệ một cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản
xuất của con người".
Trong Tuyên ngôn của UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là
"Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung
quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã


15


khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu
cầu của con người".
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng) do Hoàng Phê chủ biên năm
2003, khái niệm môi trường được định nghĩa như sau:
- Là nơi xảy ra một hiện tượng hoặc diễn ra một quá trình trong quan
hệ với hiện tượng, quá trình ấy.
- Tồn bộ nói chung điều kiện tự nhiên, xã hội, con người hay một sinh
vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy.
Môi trường sinh thái là tồn bộ các điều kiện vơ cơ và hữu cơ của các hệ
sinh thái ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội
lồi người.
Nói chung, mơi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều
kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao
quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng.
Môi trường sống của con người được chia làm nhiều loại như :
- Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố tự nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học, tồn tại ngồi ý muốn của con người nhưng cũng chịu nhiều tác
động của con người. Đó là sơng ngịi, biển cả, khơng khí, động thực vật...
- Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con
người. Đó là luật lệ, thể chế, cam kết, quy định ở các cấp khác nhau. Môi
trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo khuôn khổ nhất định,
tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển.
- Môi trường nhân tạo là tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội do con người
tạo nên và chịu sự chi phối của con người.
Các khái niệm chung về môi trường trên đây được cụ thể hoá đối với
từng đối tượng và mục đích nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn, chúng ta sử dụng định nghĩa tại điều 1 trong "Luật
Bảo vệ môi trường" đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi và
thông qua năm 2014 về khái niệm môi trường như sau: “Môi trường là hệ



16

thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại
và phát triển của con người và sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật
chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, khơng khí, âm thanh, ánh sáng,
sinh vật và các hình thái vật chất khác”.
- Bảo vệ mơi trường
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng) do Hoàng Phê chủ biên năm
2003, bảo vệ được định nghĩa là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn
được nguyên vẹn: bảo vệ đê điều, bảo vệ đất nước…
Điều 3 của Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2014 định nghĩa:
“Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ gìn, phịng ngừa, hạn chế các
tác động xấu đến mơi trường; ứng phó sự cố mơi trường; khắc phục ô nhiễm,
suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành”.
Bảo vệ môi trường là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển các
quốc gia. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân. Bảo vệ mơi trường gắn kết hài hịa với phát
triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát
triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm
quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành. Bảo vệ môi trường
phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu chất thải. Bảo vệ
môi trường quốc gia gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực và tồn cầu; bảo
vệ mơi trường bảo đảm không phương hại chủ quyền, an ninh quốc gia. Bảo
vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.2. Một số thuật ngữ liên quan
- Biến đổi khí hậu:

Trong Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu,
biến đổi khí hậu được định nghĩa là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với


17

trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian
dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
Thực tế, sự gia tăng phát thải khí nhà kính cùng với việc suy giảm diện
tích rừng đã gây hiện tượng nóng lên của khí hậu tồn cầu. Sự nóng lên tồn
cầu làm thay đổi chế độ thời tiết: tan băng khiến nước biển dâng cao gây chìm
ngập vùng đất thấp, mưa lụt gia tăng vùng ven biển trong khi sa mạc hóa tăng
cường vùng sâu trong lục địa...
- Phát triển bền vững:
Phát triển bền vững thực chất chính là sự kết hợp giữa phát triển với
duy trì môi trường. Quan niệm phát triển bền vững được Hội đồng Môi
trường và Phát triển thế giới đưa ra năm 1987 trong báo cáo “Tương lai chung
của chúng ta”. Từ đó đến nay, phát triển bền vững được các quốc gia, tổ chức
trên thế giới trong đó có Việt Nam đã chọn làm mục tiêu, phương hướng cho
hoạt động bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xã hội. Trong Luật Bảo vệ
môi trường nêu rõ: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu
của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các
thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ mơi trường”.
- Ơ nhiễm mơi trường:
Theo khoa học mơi trường, ơ nhiễm mơi trường là sự tích luỹ trong mơi
trường các yếu tố (vật lý hố học, sinh học) vượt quá tiêu chuẩn chất lượng
môi trường, khiến cho môi trường trở nên độc hại với con người, vật nuôi, cây
trồng. Ơ nhiễm mơi trường là yếu tố có thể định lượng được, thường có ơ
nhiễm khơng khí, nguồn nước, tiếng ồn,.. Trong Luật Bảo vệ môi trường, ô

nhiễm môi trường được định nghĩa: “là sự biến đổi của các thành phần môi
trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi
trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật”.


18

- Suy thối mơi trường
Luật Bảo vệ mơi trường định nghĩa “Suy thối mơi trường là sự suy
giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng
xấu đến con người và sinh vật”.
Các biểu hiện của suy thối mơi trường là: mất an tồn nơi cư trú (do
sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường và mất ổn định xã hội ; cạn kiệt tài
nguyên (do khai thác quá mức, sử dụng không hợp lý và do biến động :điều
kiện tự nhiên) ; xả thải q mức, ơ nhiễm. Suy thối mơi trường thường là q
trình chậm, khó định lượng chính xác nên địi hỏi phải được can thiệp bằng
một chiến lược, bằng các chương trình phát triển bền vững.
1.2. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường
1.2.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường
Trong những năm gần đây, Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề
phức tạp về môi trường như: ơ nhiễm, suy thối mơi trường, đơ thị hóa, khai
thác tài ngun q mức... Tình trạng mơi trường của nước ta ngày càng diễn
ra theo chiều hướng xấu, gây ảnh hưởng tới chất lượng sống của con người.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định bảo vệ môi trường là nhiệm vụ
quan trọng trong phát triển bền vững của đất nước theo hướng cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đồng thời ban hành nhiều chủ trương chính sách về bảo vệ
môi trường.
Ngay từ chỉ thị số 36/CT-TW (năm 1998) đến nghị quyết số 41-NQ/TW
(năm 2004) của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, quan điểm xun suốt các văn bản chỉ đạo

của Đảng và nhà nước ta về bảo vệ môi trường là: “Bảo vệ môi trường là một
vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu
sắc, là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp


19

phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”.
Xuyên suốt các kỳ đại hội, Đảng và nhà nước luôn khẳng định: “Bảo vệ
môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội. Đưa nội
dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển từng
ngành, từng địa phương. Khẩn trương hồn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
mơi trường; xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm; kết hợp chặt chẽ giữa kiểm
sốt, ngăn ngừa, khắc phục ơ nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh
thái.”[46, tr 42 – 43]
Phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức là bước đi đúng, phù hợp với thực tiễn nước ta và phù hợp với
xu thế phát triển của thế giới. Thực tế, việc phát triển kinh tế đi kèm với khai
thác tài nguyên thiên nhiên đã thải ra một lượng lớn chất thải độc hại gây ô
nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến chất lượng sống của con người. Trước tình
hình đó, phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với bảo vệ môi trường, không
thể phát triển kinh tế bằng mọi giá mà coi nhẹ công tác bảo vệ môi trường.
Những năm tới tiến hành đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phải gắn với phát triển bền vững – đảm bảo phát triển cân bằng về mọi mặt
trong hiện tại cũng như tương lai: tăng trưởng - bảo vệ môi trường - bảo đảm
an sinh xã hội.
Bên cạnh việc ban hành luật quy định cụ thể những vấn đề liên quan
trực tiếp đến việc bảo vệ môi trường, nước ta cũng ban hành nhiều chiến lược,
kế hoạch hành động nhằm thúc đẩy các hoạt động cụ thể, thiết thực trong

công tác bảo vệ môi trường như: Định hướng chiến lược phát triển bền vững
ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam); Kế hoạch xử lý triệt để
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; Kế hoạch quốc gia kiểm sốt
ơ nhiễm mơi trường đến năm 2010; Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước


20

Stockholm về các chất hữu cơ khó phân hủy; Kế hoạch quốc gia khắc phục
hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử trụng trong chiến tranh Việt Nam;...
Đặc biệt, để thúc đẩy công tác bảo vệ môi trường, ngày 2/12/2003, Thủ
tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chiến lược đã đề ra những định
hướng lớn về bảo vệ môi trường thông qua 5 nội dung nhiệm vụ cơ bản, 8 giải
pháp thực hiện và 36 chương trình, dự án, đề án nhằm đạt được các mục tiêu
cụ thể đến năm 2010 và năm 2020. Triển khai thực hiện Chiến lược tuy đã đạt
được những thành quả quan trọng nhưng vẫn còn nhiều tồn tại trong quá trình
thực hiện, nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết. Vì vậy, trong giai đoạn
2011 – 2020, Chiến lược quốc gia về Bảo vệ môi trường đến 2020, định
hướng đến 2030 tiếp tục xây dựng dựa trên chính sách của Đảng và nhà nước
nhằm xác định lại những định hướng, ưu tiên trong công tác bảo vệ mơi
trường gắn với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chiến lược Bảo vệ mơi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 đã đưa ra các định hướng lớn cho công tác bảo vệ môi trường giai
đoạn 2020, bao gồm: Phịng ngừa và kiểm sốt các nguồn ô nhiễm môi
trường; Cải tạo phục hồi môi trường các khu vực đã bị ơ nhiễm, suy thối;
đẩy mạnh cung cấp nước sạch và dịch vụ vệ sinh môi trường; Khai thác, sử
dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên
nhiên và đa dạng sinh học; Xây dựng năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu,
giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Dựa trên những định hướng tổng thể và tồn

diện về bảo vệ môi trường mà chiến lược đưa ra, các ngành, các cấp, địa
phương sẽ xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm và hàng năm về vấn đề bảo
vệ mơi trường, góp phần thực hiện thành cơng mục tiêu phát triển bền vững
của đất nước trong những giai đoạn tiếp theo.


21

1.2.2. Quan điểm của thành phố Hải Phòng về vấn đề bảo vệ mơi
trường
Hải Phịng là đơ thị loại một cấp quốc gia, là một đỉnh trong tam giác
trọng tâm phát triển kinh tế xã hội của miền Bắc cùng với Hà Nội và tỉnh
Quảng Ninh. Sự phát triển kinh tế xã hội của Hải Phịng khơng chỉ có ý nghĩa
cho riêng Hải Phòng mà còn là động lực cho sự phát triển kinh tế của nhiều
tỉnh lân cận. Tận dụng những điều kiện tự nhiên sẵn có và nguồn lực con
người để phát triển nền kinh tế xã hội là chủ trương của Đảng bộ và Chính
quyền thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên những năm qua, bên cạnh những
thành tựu kinh tế - xã hội đạt được, Hải Phòng phải đối mặt với tình trạng suy
giảm mơi trường, ơ nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Mỗi ngày, tồn thành phố Hải Phịng phát sinh hàng nghìn tấn rác thải
công nghiệp và sinh hoạt cần được xử lý. Chỉ tính riêng 7 huyện ngoại thành,
mỗi ngày có trên 700 tấn rác sinh hoạt của người dân, ước tính đến năm 2020,
con số này có thể lên đến hơn 1.000 tấn/ngày. Theo kết quả quan trắc môi
trường năm 2016, mơi trường khơng khí, bụi, tiếng ồn tại các làng nghề này
đều vượt quy chuẩn cho phép, đặc biệt tại các khu vực làng nghề tái chế phế
liệu Tràng Minh, đúc cơ khí Mỹ Đồng, chế biến vật liệu xây dựng tại Lại
Xuân, An Sơn... và các khu vực khai thác đất đá, nhiệt điện, xi măng.
Vậy nên, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước
về môi trường, bên cạnh việc triển khai, thực hiện các chính sách về bảo vệ
mơi trường của các cơ quan Trung ương, Ủy ban nhân dân thành phố Hải

Phòng đã ban hành nhiều chính sách, văn bản quan trọng về bảo vệ môi
trường như nghị quyết số 22/NQ-TU ngày 24-3-2005 của Ban Thường vụ
Thành ủy Hải Phịng về cơng tác bảo vệ môi trường đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020; quyết định 571/QĐ-UBND ngày 22/3/2006 về công tác
bảo vệ môi trường thành phố thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế,… đồng thời cũng ban hành nhiều quyết định về


22

quản lý nhà nước quy hoạch bảo vệ tài nguyên thành phố tới năm 2020, tầm
nhìn năm 2030.
Năm 2012, UBND thành phố tiếp tục ra chỉ thị số 32/CT-UBND về
“Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
trên địa bàn thành phố Hải Phịng thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế” khẳng định sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố phải
gắn chặt với bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững.
Ngày 02/10/2014, UBND thành phố đã ban hành Quy chế phối hợp
trong công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ mơi trường trên địa bàn thành phố
Hải Phịng. Quy chế này quy định mục đích, nguyên tắc, nội dung và trách
nhiệm phối hợp quản lý Nhà nước về bảo vệ mơi trường trên địa bàn thành
phố Hải Phịng giữa Sở Tài nguyên và Môi trường với các Sở, ngành, cơ
quan, tổ chức có liên quan. Trong đó, nội dung phối hợp thực hiện là tuyên
truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật về bảo vệ mơi trường; phịng ngừa
ơ nhiễm, suy thối mơi trường trong phát triển kinh tế xã hội của thành phố,
hướng tới phát triển bền vững; kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường và cải thiện mơi
trường, bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Trong thời gian gần đây, nguy cơ điểm nóng về mơi trường trên địa bàn
thành phố tăng, đặc biệt tại các cụm công nghiệp, làng nghề. Với việc phát
sinh những trọng điểm ô nhiễm môi trường công nghiệp cuối năm 2016 như

bãi thải thạch cao của công ty cổ phần DAP-Vinachem Đình Vũ, xả nước thải
chưa qua xử lý của công ty cổ phần giấy Hapaco, ô nhiễm do bãi tập kết xỉ và
tro thải của các doanh nghiệp kinh doanh lại chất thải từ Nhà máy Nhiệt điện
Hải Phòng, gang thép Vạn Lợi… Ủy ban nhân dân ra quyết định số
1685/UBND-MT về việc “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường, xả nước thải vào nguồn nước” nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo là:
khơng đánh đổi mơi trường lấy lợi ích kinh tế bằng mọi giá.


23

Trong Quyết định số 3002/QĐ-UBND ngày 1/12/2016 về Kế hoạch
hành động về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách bảo vệ mơi trường trên địa
bàn thành phố Hải Phịng, quan điểm chỉ đạo của UBND thành phố Hải
Phòng là: Bảo vệ môi trường là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển,
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, ngành, tổ chức và cá nhân về
công tác bảo vệ môi trường và các quy định của pháp luật về bảo vệ môi
trường trên địa bàn thành phố; hướng tới tăng trưởng xanh, phát triển bền
vững, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển thành phố tới năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
1.3. Cơ sở pháp lý của vấn đề bảo vệ môi trường
Trong những năm gần đây, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của
nước ta đã đem lại những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn, góp phần nâng cao
đời sống vật chật, tinh thần của nhân dân, ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đem lại, q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa cịn tạo ra những tác động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ
đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Trong đó, mơi trường sống
của con người đnag phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Chất lượng khơng khí,
nguồn nước, tài ngun, hệ sinh thái,... nhiều nơi ô nhiễm ở mức báo động.
Nhận thức được tầm quan trọng của mơi trường trong q trình phát triển

kinh tế - xã hội, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và ban
hành hệ thống văn bản pháp lý nhằm thực thi những hoạt động bảo vệ mơi
trường.
1.3.1. Hiến pháp Nước CHXHXN Việt Nam
Nhìn lại lịch sử phát triển của các chế định được ghi nhận trong Hiến
pháp từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời đến nay, có thể thấy
các quy định về bảo vệ môi trường ngày càng được khẳng định mạnh mẽ với
cách tiếp cận ngày càng mới, thực chất hơn. Cụ thể, Hiến pháp 1946 và Hiến


24

pháp 1959 chưa có một quy định nào về bảo vệ môi trường. Song đến Hiến
pháp năm 1980 mặc dù vẫn trong thời kỳ bao cấp, chưa phát triển kinh tế
hàng hóa, nhưng Đảng và Nhà nước ta cũng bước đầu đã quan tâm đến vấn đề
môi trường và ghi nhận vào Hiến pháp, cụ thể: “Các cơ quan Nhà nước, xí
nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và cơng dân đều có nghĩa vụ
thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống” (Điều 36).
Mặc dù vậy, thời kỳ này chúng ta vẫn chưa ban hành một đạo luật
chuyên ngành nhằm cụ thể hóa những ghi nhận trong Hiến pháp 1980 về bảo
vệ môi trường. Năm 1986, nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, mở cửa phát
triển kinh tế, để tạo hành lang pháp lý cho thay đổi này Hiến pháp năm 1992
đã ra đời, bên cạnh một loạt các quy định mới để đẩy mạnh hội nhập và phát
triển kinh tế, Hiến pháp vẫn tiếp tục ghi nhận cụ thể hơn về sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà
nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm
cấm mọi hành động làm suy kiệt tài ngun và huỷ hoại mơi trường (Điều 29)
và Chính phủ phải có trách nhiệm bảo vệ mơi trường (khoản 5, Điều 112)”.

Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp năm 2013, quyền con người đối với bảo
vệ môi trường mới được ghi nhận. “Mọi người có quyền được sống trong mơi
trường trong lành. Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ mơi trường” (điều 43).
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 cũng lần đầu tiên đưa ra biện pháp khắc
phục hậu quả, bồi thường thiệt hại bằng kinh tế trong bảo vệ môi trường, dùng
lợi ích kinh tế tác động vào chính hành vi người gây thiệt hại môi trường tại
khoản 3, điều 63. Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ mơi trường cũng được chú
trọng, đặt ngang tầm với các lĩnh vực khác, là nhiệm vụ ưu tiên, trước cả cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước “Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt


×