Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

Ths BCH vai trò của báo chí trong công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.08 KB, 121 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của

nhà nước, hiện hữu ở tất cả các quốc gia, khơng phân biệt chế độ chính trị, giàu
nghèo, phát triển hay đang phát triển hoặc kém phát triển.
Tham nhũng ngày nay đã trở thành căn bệnh mang tính phổ biến ở hầu hết
mọi quốc gia, khơng phân biệt chế độ chính trị, lịch sử văn hóa, là một trong những
vấn đề có diễn biến phức tạp và nguy hại nhất đối với sự phát triển của mỗi xã hội.
Ở nước ta, tham nhũng đã và đang tạo ra những hệ quả nặng nề không chỉ
với sự ổn định chính trị - xã hội, mà nó cịn đang ra tạo những sự cản trở lớn đối
với công cuộc xây dựng và sự phát triển đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng đinh “ Bốn
nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ, tụt hậu xã hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên tế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ
nạn xã hội, diễn biến hịa bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại
đan xen, tác động lẫn nhau không thể xem nhẹ nguy cơ nào…
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn xác định phải
kiên quyết trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng nhằm ngăn chặn, từng
bước đẩy lùi tham nhũng, coi đó là giải pháp giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Trong cuộc đấu tranh đó, Đảng ta cũng nhấn mạnh, việc đấu
tranh chống tham nhũng là yêu cầu, nhiệm vụ sống cịn của cả hệ thống chính trị,


của toàn dân; thực hiện đồng bộ bằng các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức
hành chính, kinh tế…
Đồng hành với cuộc chiến ấy báo chí ln thể hiện vai trị quan trọng của
mình với tư cách là một chủ thể chính trị, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh mà


không phải lực lượng nào cũng dám đương đầu.
Với sức mạnh của thơng tin và tính cơng khai, thời gian qua bên cạnh việc
tích cực thực hiện tốt chức năng thông tin tuyên truyền trên tất cả các lĩnh vực, báo
chí Việt Nam đã ý thức rất rõ trách nhiệm của mình trong cơng cuộc phịng, chống
tham nhũng của đất nước. Trong những năm qua, hàng loạt các đại án tham nhũng
đã được phanh phui, điển hình như vụ hối lộ quan chức của công ty PCI, liên quan
tới việc đấu thầu dự án Đại lộ Đông - Tây tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008.
Vụ án “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả
nghiêm trọng liên quan Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin)
hay Mới đây nhất là vụ khởi tố Trịnh Xuân thanh ( đại biểu Quốc hội) với tội danh
“Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” với khoản thua lỗ gần 3.300 tỷ tại Tổng công ty Xây lắp dầu khí Việt Nam
(PVC) thuộc Tập đồn Dầu khí Việt Nam… Điều này đã thể hiện quyết tâm đấu
tranh chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, qua đó cũng đã thấy rõ sự tích
cực của báo chí trong cơng cuộc chiến mang tính sống cịn này.
Hơn thế nữa, khơng ít vụ việc tham ô, tham nhũng gần đây đã thể hiện tính
tiến cơng tích cực của báo chí, khơng ít những việc làm sai trái của các cán bộ,
công chức nhà nước khi bị báo chí khui ra đã lộ rõ chân tướng sai phạm gây nguy
hại cho đất nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiện nay báo chí nước ta chưa thể hiện hết vai
trò và khả năng của mình, một số một số cơ quan báo chí đang có dấu hiệu hoạt


động sai tơn chỉ, mục đích, một bộ phận người làm báo thối hóa về đạo đức và có
khuynh hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vơ tình hoặc hữu ý tiếp tay cho các
thế lực thù địch chống chế độ và có một số biểu hiện vi phạm pháp luật.
Đáng chú ý là tình trạng báo chí câu kết với doanh nghiệp đưa ra những
thông tin không đúng sự thật hoặc sự thật bị bóp méo, bị cắt xén phục vụ việc cạnh
tranh khơng lành mạnh, làm méo mó môi trường kinh doanh, gây hại cho người
tiêu dùng.. điều này làm cho báo chí cịn gặp khơng ít khó khăn trong cuộc chiến

nhiều cam go, phức tạp này.
Vì vậy, việc đánh giá thực trạng vai trị của báo chí trong cơng tác phịng
chống tham nhũng, từ đó có những cơ chế tạo hành lang pháp lý vững vàng cho
hoạt động báo chí, có chính sách đúng đắn để phát huy hơn nữa vai trị của báo chí
trong cơng tác phòng chống tham nhũng là một vấn đề cấp thiết giúp xây dựng một
nền chính trị trong sạch vững mạnh.
Chính vì lý do đó em chọn đề tài “Vai trị của báo chí trong cơng tác phịng
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu, đánh giá đồng thời đề
xuất một số giải pháp giúp nâng cao hơn nữa vai trị của báo chí trong đấu tranh
phịng chống tham nhũng ở nước ta hiện này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trong những năm gần đây, vấn đề đấu tranh chống tham nhũng cũng như
những nội dung liên quan tới vai trị của báo chí trong lĩnh vực đấu tranh chống
tham nhũng đã được rất nhiều nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đề cập, trong
những năm gần đây, đề tài chống tham nhũng cũng như vai trị của các chủ thể
chống tham nhũng, trong đó có báo chí trở thành chủ đề nóng được cả xã hội quan
tâm.


Khi mới tiếp cận, đề tài gợi tưởng về một vấn đề cũ, đã có ít nhiều cơng trình
nghiên cứu, đây cũng được đánh giá là những vấn đề mang tính thời sự, chưa được
khai thác đầy đủ. Và nếu đã được khai phá thì mới chỉ đề cập đến những nội dung
chung nhất, hoặc là những khía cạnh đơn lẻ mà chúng ta có thể tìm thấy trong các
cơng trình nghiên cứu về báo chí, về đấu tranh phịng chống tham nhũng đã được
công bố khá phong phú ở trong nước và trên thế giới.
Do vậy, để có bức tranh tổng thể về tình hình nghiên cứu các lĩnh vực thuộc đề
tài này, chúng ta phải tìm hiểu kỹ thực trạng nghiên cứu những vấn đề liên quan;
trước nhất cần tập trung vào hai lĩnh vực chủ yếu, cơ bản, có liên quan trực tiếp
đến các nội dung nghiên cứu của đề tài là lĩnh vực tham nhũng và lĩnh vực báo chí,
trong số đó phải kể đến:

Trong lĩnh vực tham nhũng có:
Luận án tiến sĩ Triết học của tác giả Lê Văn Cương (1992): “Chống tham
nhũng ở nước ta hiện nay”, trong đó đã trình bày quan niệm về tham nhũng trong
các chế độ xã hội, tính chất, hậu quả của của tham nhũng ở Việt Nam và đề ra các
giải pháp chống tham nhũng. Những giải pháp này có tính thực tiễn cao có thể áp
dụng được trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.
Tác phẩm “Một số bài nghiên cứu về tham nhũng và phòng, chống tham
nhũng” của Ban Nội chính Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, 2005. Tác phẩm
này đã tập hợp nhiều bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và một số
nhà khoa học về đường lối, chính sách phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam qua
các giai đoạn khác nhau.
Tác phẩm “Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới” của nhóm tác giả
GS, TS Nguyễn Xuân m, PGS, TS Nguyễn Hịa Bình, TS Bùi Minh Thanh
(2007), Nxb Cơng an nhân dân. Cơng trình đã nghiên cứu tham nhũng dưới góc độ


tội phạm học. Trong cơng trình này, tham nhũng được coi là một loại tội phạm liên
quan đến chức vụ và tội phạm kinh tế. Các tác giả đã phân tích chi tiết các hành vi
cấu thành tội phạm tham nhũng và cách nhận dạng tộ phạm đó. Ngồi những kiến
thức chung về tham nhũng, tác phẩm còn cung cấp những kỹ năng điều tra, đấu
tranh với tội phạm nguy hiện nay.
Tác phẩm “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng chống ở Việt Nam
hiện nay” của các tác giải Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2010), Nxb CTQG, Hà
Nội. Cơng trình đã làm rõ nguồn gốc của tham nhũng, bản chất của tham nhũng,
cách tiếp cận và phân loại tham nhũng, bản chất của tham nhũng, cách tiếp cận và
phân loại tham nhũng, nhận diện tham nhũng theo các cấp độ hành vi (tội phạm và
chưa tội phạm) và hiện tượng, những tác hại của tham nhũng…Từ đó đưa ra các
quan điểm, giải pháp nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ Chính Trị Học của tác giả Đinh Thị Hạnh – Học Viện Báo
chí và Tuyên Truyền (2012) “Đảng lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng

ở Việt Nam hiện nay” Trong luận văn, trên cơ sở lý luận chung về tham nhũng và
thực tiễn tình hình tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, cũng như hệ quả chính trị của
tham nhũng gây ra, tác giả làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng thời gian qua. Từ đó, tác giả có đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện
nay, góp phần làm trong sạch bộ máy Đảng, nhà nước, làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội, khơi phục lịng tin của dân chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng, tạo
điều kiện để phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Cuốn sách : “Một số kinh nghiệm quốc tế về công tác phịng chống tham
nhũng” – Thanh tra Chính phủ, - Nxb Lao Động (2014) : Cuốn sách đã giới thiệu


các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng ở nhiều nước trên Thế giới, trong đó
báo chí là một cơ quan quan trọng trong cuộc đấu tranh này.
Ngồi ra cịn có rất nhiều tài liệu liên quan tới lĩnh vực tham nhũng và đấu
tranh phòng chống tham nhũng đã giúp chúng ta hiểu sâu sắc các vấn lý luận về
tham nhũng cũng như thực tiễn chống tham nhũng ở nước ta và các nước trên thế
giới.
Trong lĩnh vực báo chí có:
Các tác phẩm như: “Báo chí Cách mạng Việt Nam (1925 - 1945)” của
Nguyễn Thành – Nxb Khoa học Xã hội xuất bản năm 1984; “Lịch sử báo chí Việt
Nam (1865-1945)” của Đỗ Quang Hưng do Nxb Đại học quốc gia xuất bản năm
2000. Nhìn chung, các cơng tình nghiên cứu nói trên đều tiếp cận báo chí ở góc độ
lịch sử từ khi báo chí Việt Nam ra đời, hồ nhập trong dịng chảy chung của lịch sử
ở những giai đoạn khác nhau. Tất cả đều phản ánh một cách tổng quan về lịch sử
báo chí nước nhà, qua đó cho thấy dù trong thời kỳ phát triển nào thì báo chí, đặc
biệt là báo chí cách mạng Việt Nam ln thể hiện vai trị chính trị của mình.
Giáo trình “Cơ sở lỹ luận báo chí” do GS, TS Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), Nxb
Văn hóa Thơng tin (1999), Nội dung cuốn sách gồm 7 chương trình bày những
quan niệm chung về báo chí; tính giai cấp của báo chí; tự do báo chí; các chức

năng của báo chí; luật pháp, nguyên tắc hoạt động và lao động sáng tạo trong báo
chí nói chung.
Tác phẩm “Báo chí – những điểm nhìn từ thực tiễn” của Nguyễn Văn
Dững (chủ biên), Nxb VHTT (tập 1- 2000, tập 2- 2001). Nội dung cuốn sách đề
cập những vấn đề phong phú của nghề nghiệp báo chí, từ vấn đề lịch sử lý luận báo
chí, khái niệm, các vai trị xã hội của báo chí, đạo đức nghề nghiệp - trách nhiệm
xã hội... đến những vấn đề về thể loại, kỹ năng tác nghiệp của nhà báo…


Giáo trình “Cơ sở lý luận của báo chí” của E.P. Prôkhôrốp (Đào Tấn Anh,
Đới Thị Kim Thoa dịch), Nxb Thơng tấn (2004). Cuốn sách phân tích những vấn
đề chung về lý luận nghiệp vụ và đặc thù của hoạt động báo chí; q trình xuất
hiện và phát triển của báo chí; bản chất của báo chí, quan điểm, nguyên tắc hoạt
động của báo chí và nhà báo; phương diện pháp lý của tự do báo chí; báo chí trong
hệ thống các thiết chế xã hội; báo chí trong khơng gian thơng tin; sáng tạo báo chí;
vai trị chủ thể của nhà báo trong hoạt động thông tin đại chúng…
Đề tài khoa học cấp bộ về “Vai trò của báo chí và dư luận xã hội trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” do PGS, TS Lương Khắc Hiếu
chủ biên – Nxb Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2009). Đề tài nghiên cứu một
số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về báo chí, dư luận xã hội với cuộc đấu tranh
chống tham nhũng; khảo sát, đánh giá thực trạng về vai trò của báo chí trong việc
tạo lập dư luận xã hội đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta; từ đó đã đề xuất một
số giải pháp nhằm phát huy vai trị của báo chí trong việc tạo lập dư luận xã hội
đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Luận án tiến sĩ “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay” của
tác giả Nguyễn Thị Trường Giang, Nxb Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2010),
Luận án đã hệ thống lại những nội dung, yêu cầu lý thuyết về vấn đề đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo; dựng lên bức tranh đầy đủ, khái quát và toàn diện về thực
trạng đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động, tác giả

đã tập trung trình bày những vấn đề cơ bản của dư luận xã hội: bản chất, cấu trúc,
các dạng thức biểu hiện, chủ thể, khách thể, quá trình hình thành và phát triển,
chức năng…; bản chất hoạt động báo chí, nhận diện đặc điểm báo chí hiện đại,
cơng chúng báo chí, cơ chế tác động của báo chí vào dư luận xã hội. Trên cơ sở đó,


tác giả phân tích mối quan hệ tác động của báo chí và dư luận xã hội; nhà báo và
dư luận xã hội, nhà báo với tư cách là nhà chính luận. Cơng trình cung cấp những
tri thức về cả lý luận và thực tiễn, luận giải sức mạnh của báo chí hiện đại trong đời
sống xã hội…
Giáo trình “Lịch sử báo chí thế giới” của tác giả Phạm Thị Thanh Tịnh, Nxb
Chính trị Hành Chính (2012), đã trình bày điều kiện ra đời của báo chí, lịch sử của
các loại hình báo chí, sự phát triển của báo chí các châu lục (châu Âu, châu Á,
châu Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương), Xu hướng phát triển của báo chí hiện đại.
Tác phẩm “Báo chí và mạng xã hội” do tác giả Đỗ Chí Nghĩa (chủ biên), Nxb
LLCT, (2013). Cuốn sách phân tích khái niệm, đặc điểm, tác động xã hội của mạng
xã hội; báo chí và bản chất mối quan hệ giữa báo chí với mạng xã hội ở Việt Nam
hiện nay, tác động qua lại lẫn nhau của mạng xã hội với báo chí. Đây là cơ sở để
Đề tài phân tích tác động của mạng xã hội đến thơng tin báo chí Việt Nam hiện
nay.
Tác phẩm “Báo chí điều tra, tuyển chọn và phân tích” do PGS,TS Đỗ Thị Thu
Hằng (chủ biên), Nxb Lao động (2015) cũng đã đặc tả được cách thức người làm
báo tham gia vào hoạt động điều tra, trong đó phần lớn liên quan đến hoạt động
điều tra chống tham nhũng.
Trương Minh Tuấn (2016), Nhận diện nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong lĩnh vực báo chí và một số giải pháp khắc phục, (Báo Nhân dân,
25/10). Bài báo khái quát những thành tựu mà báo chí nước ta đạt được trong thời
kỳ đổi mới, công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, đồng thời nêu rõ những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ những người làm báo. Đó là: xa rời sự
lãnh đạo của Đảng, địi tự do báo chí theo kiểu phương Tây, coi báo chí phương

Tây là chuẩn mực để hướng tới, xu hướng hư vơ về chính trị, thiếu đạo đức nghề


nghiệp, bị chi phối bởi lợi ích nhóm, sự bng lỏng quản lý của các cơ quan chủ
quản... Tác giả cũng đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm chấn chỉnh những biểu hiện
nêu trên, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, của tổ chức đảng và đảng viên
trong cơ quan báo chí, vai trị của cơ quan chủ quản... Đây là cơng trình ra đời kịp
thời, phản ánh đúng bản chất vai trò của TTBC, đồng thời chỉ rõ những hiện tượng
tha hóa, biến chất trong đội ngũ những nhà báo...
Về lý luận báo chí và thực tiễn hoạt động báo chí trong những năm gần đây có
những cơng trình nghiên cứu, đánh giá về cơng tác phát triển của báo chí trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta, tiêu biểu là các tác phẩm : “Nhiệm vụ của báo chí trước yêu
cầu mới của đất nước” của Hồng Vinh (Tạp chí Cộng sản số 711/2004); “Tính
chiến đấu của báo chí cách mạng” của Hà Đăng (Tạp chí Cộng sản số 7/11/2004)
“Báo chí-truyền thơng Việt Nam, những vấn đề đặt ra cho sự phát triển” (Tạp chí
Lý luận Chính trị số 7/2007); “Vai trị của báo chí đối với dư luận xã hội” (Tạp chí
Lý luận Chính trị số 6/2010) của Nguyễn Văn Dững; “Vai trò của báo chí trong
đấu tranh phịng, chống tham nhũng” (tạp chí Đảng cộng sản ngày 11/8/2015) của
Thạc sĩ Nguyễn Tri Thức…
Các công trình nêu trên luận giải cả về lý luận và thực tiễn vai trị của báo chí
trong đời sống xã hội nói chung, đời sống chính trị, trong cơng tác phịng chống
tham nhũng nói riêng; chỉ ra tầm quan trọng của báo chí truyền thơng đối với cơng
tác phịng chống tham nhũng và thực trạng việc sử dụng báo chí truyền thông ở
nước ta hiện nay. Các tác giả cũng đã nêu bật những bất cập, hạn chế và đề xuất
các phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của báo chí truyền thơng trên
mặt trận chống tham nhũng.
Tất cả những cơng trình nghiên cứu trên dù trực tiếp hay gián tiếp liên quan ở
góc độ khác nhau đều có giá trị tham khảo đối với việc nghiên cứu đề tài này.



Những vấn đề lý luận và thực tiễn về báo chí, về đấu tranh phịng chống tham
nhũng đã được các nhà khoa học Việt Nam và thế giới nghiên cứu trên các bình
diện, lát cắt khác nhau, kết quả của các cơng trình nêu trên rất bổ ích, giúp mở rộng
tầm nhìn ra nhiều lĩnh vực liên quan và có những thơng tin tiếp giáp tới những khía
cạnh, nội dung của đề tài. Đây là những tiền đề khoa học cơ bản, gợi mở, cung cấp
thêm những luận cứ cho tác giả để tham khảo một cách lựa chọn, biết thừa kế, phát
triển nâng cao nhận thức và sáng tạo trong phương pháp tiếp cận khi triển khai
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Từ cách tiếp cận Chính trị học, trên cơ sở lý luận chung về Báo chí, Tham
nhũng, và cuộc đấu tranh phịng chống tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang
tiến hành, trên cơ sở tìm hiểu vai trị, sự tác động của báo chí như một chủ thể
tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta; luận văn đưa ra
một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao vai trị của báo chí trong cuộc đáu tranh
phịng chống tham nhũng đang còn gay go, phức tạp ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về báo chí, truyền thơng, tham nhũng
và tác động của báo chí trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng.
- Làm rõ vai trò, tác động của báo chí trong hoạt động đấu tranh và phòng
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải nhằm nâng cao vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh
phịng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.


4. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn cao học, đề tài giới hạn xem xét vai trò của
báo chí trong phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề Ở Việt Nam hiện nay.

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài nghiê cứu dựa trên các nguyên lí của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương cử Đảng cộng sản và
Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề tham nhũng cũng như đấu tranh phòng chống
tham nhũng.
- Phương Pháp khác: Trong luận văn còn sử dụng một số phương pháp cơ
bản như : Tổng kết thực tiễn, Khảo sát, thống kê, logic – lịch sử, phân tích – tổng
hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh…để giải quyết vấn đề đặt ra.
7. Cái mới của luận văn
Luận văn góp phần khẳng định vai trị của báo chí trong cơng tác phịng
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Giúp nhận diện rõ hơn tình hình tham nhũng, tác hại của tham nhũng và
nguyên nhân của tham nhũng, đồn thời nhận diện rõ hơn vai trị của báo chí trong
cơng tác phịng, chống tham nhũng, vạch ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại.
Trên cơ sở lý luận và tực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy hơn nữa
vai trò của báo chí trong cơng tác phịng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề nhận thức
về Báo chí, Tham nhũng, Vai trị của báo chí trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống
tham nhũng hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở phân tích vai trị của báo chí trong cơng tác
phóng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, khóa luận góp tiếng nói vào việc
nâng cao chất lượng, vai trị của báo chí nói chung và vai trị của báo chí trong lĩnh
vực đấu tranh phịng chống tham nhũng nói riêng.
9. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 03 chương, 5 tiết.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ VÀ VAI TRỊ

CỦA BÁO CHÍ TRONG CUỘC ĐẤU TRANH PHỊNG CHỐNG
THAM NHŨNG
1.1. Lý luận về báo chí
1.1.1. Khái niệm báo chí.
Theo triết học cổ Hy Lạp, chữ báo chí xuất phát từ chữ information có nghĩa
là thơng tin, thơng báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình thái giúp cho sự
hiểu biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy hiện thực
khách quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ giữa
nhà báo - tác phẩm - cơng chúng. Báo chí là bao gồm tất cả các tổ chức thơng tin
thuộc những loại hình khác nhau (xuất bản, radio, vơ tuyến truyền hình…) và ở
những cấp độ khác nhau từ Trung ương đến địa phương, với ý nghĩa là tất cả các
phương tiện thông tin đại chúng.


Báo chí theo nghĩa rộng là truyền thơng đại chúng, nghĩa hẹp là một loại
hình của truyền thơng đại chúng. Đó là cơ quan ngơn luận của các tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Nó có tính định kỳ, đáp
ứng nhu cầu thơng tin nhanh chóng, đa dạng, chính xác của quảng đại quần chúng.
Báo chí là phương tiện thơng báo, thông tin thời sự - về những sự việc mới
diễn ra hàng ngày cho nhiều người biết; là phương tiện giao tiếp đại chúng; là diễn
đàn cung cấp, trao đổi và chia sẻ thông tin trên phạm vi rộng rãi. Theo nghĩa hẹp,
báo chí là những ấn phẩm báo và tạp chí; theo nghĩa rộng, báo chí bao gồm các
loại hình: báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử [56]
Theo Luật Báo chí năm 2016, “Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện,
vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng
tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thơng qua
các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử…
Hoạt động báo chí là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí,
sản phẩm thơng tin có tính chất báo chí; cung cấp thơng tin và phản hồi thơng tin
cho báo chí; cải chính thơng tin trên báo chí; xuất bản, in, phát hành báo in; truyền

dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát sóng báo nói, báo hình”.[48]
Hoạt động báo chí phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân,
tính chiến đấu và tính đa dạng.
Ở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin
thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân.
1.1.2. Các loại hình báo chí


Theo Luật báo chí Việt Nam 2016 (Điều 3), báo chí có 4 loại hình: báo in,
báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình) và báo điện tử (trên mạng internet).
Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng
phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in, được xuất bản
định kỳ, hoặc không định kỳ. Trong các loại hình báo chí, thì báo in ra đời sớm
nhất. Thế mạnh của báo in là giúp cơng chúng tìm hiểu kỹ về thơng tin qua cách
phân tích, lý giải những vấn đề phức tạp một cách hệ thống, sâu sắc và độ tin cậy
cao. Hạn chế của nó là tính thời sự chậm, do phải trình bày maket, chế bản, in và
phát hành, trong khi nhu cầu của xã hội ln địi hỏi thơng tin phải nhanh, nhạy.
Báo nói (phát thanh) là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh, được
truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau.
Đây là kênh thơng tin rẻ tiền, phát miễn phí, đại đa số người dân đều có thể mua
được radio. Hạn chế là người nghe dễ qn, nếu nghe khơng kịp thì thơng tin bị
trơi qua; do đặc tính dưới dạng sóng điện từ nên khó có thể trình bày, phân tích vấn
đề có tính phức tạp, nhất là số liệu chi tiết... Những hạn chế này có thể khắc phục
được khi radio - internet ra đời. Như vậy, với việc phát triển của radio - internet,
các phương tiện kỹ thuật số tích hợp sẽ tạo điều kiện cho hoạt động phát thanh phát
triển tốt hơn.
Báo hình là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói,
âm thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng

công nghệ khác nhau. Thế mạnh của truyền hình là có tính hấp dẫn cao, dễ hiểu, dễ
nhớ và dễ thực hiện. Hạn chế là phải mua máy thu hình. Chi phí cho sản xuất, phát
sóng chương trình ln tốn kém và cồng kềnh về nhân sự. Người xem phải tập
trung nhìn vào màn hình và bị động về thời gian. Tính tư liệu của truyền hình thấp,
khó lưu trữ thơng tin, mặc dù các điều kiện về băng, đĩa hình đã hiện đại, rẻ hơn và
đã được cải thiện nhờ kỹ thuật và công nghệ số.


Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được
truyền dẫn trên mơi trường mạng Internet, gồm có báo điện tử và tạp chí điện tử.
Đây là loại hình báo chí đặc thù, tuy ra đời muộn nhưng do hội tụ được nhiều ưu
điểm vượt trội nên phát triển rất mạnh mẽ. Thế mạnh của báo điện tử là có khả
năng kết nối, tìm kiếm và truyền tải dung lượng thơng tin lớn, tốc độ truyền tải
nhanh, linh hoạt, tạo ra nhiều tầng lớp thông tin không giới hạn; tạo khả năng giao
lưu trực tuyến, tương tác nhiều chiều giữa đông đảo công chúng mà không cần qua
khâu trung gian biên tập, sửa chữa. Nhờ tính đa phương tiện nên thơng tin có thể
truyền tải qua nhiều hình thức khác nhau như chữ viết, hình ảnh, âm thanh, đồ họa,
audio, video... Hạn chế là q nhiều nguồn tin, trong đó nhiều thơng tin chưa được
kiểm định nên khơng đáng tin cậy, khó kiểm sốt.
1.1.3. Các chức năng của báo chí
Trong xã hội hiện đại, báo chí có các chức năng sau:
- Chức năng thông tin. Đây là chức năng cơ bản, khởi nguồn của báo chí.
Báo chí ra đời trước hết phục vụ nhu cầu thông tin giao tiếp của con người và xã
hội. Thơng tin được giải thích, phân tích và bình luận một cách khách quan và cập
nhật cho công chúng. Xã hội càng phát triển, nhu cầu thông tin trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội càng cao. Đây chính là nguyên nhân thúc đẩy báo chí phát
triển ngày càng mạnh mẽ.
- Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội. Báo chí ln được các
học giả ví là cơng cụ “gác cổng” và giám sát xã hội. Báo chí duy trì và phát triển
mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể quản lý thơng qua việc duy trì và

phát triển dịng thông tin hai chiều, bảo đảm cho các quyết định quản lý được
thông suốt và thực thi,... Giám sát xã hội của báo chí là q trình báo chí theo dõi,
kiểm tra q trình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm


đạt được mục đích cao nhất trong điều kiện có thể, bao gốm các bình diện khác
nhau, như theo dõi, kiểm tra phát hiện những nơi làm đúng, làm tốt để biểu dương
và nhân rộng; phát hiện phê phán những cá nhân, tập thể vi phạm, làm sai.
- Chức năng tư tưởng. Đây là chức năng xuyên suốt, thể hiện tính mục đích
của báo chí. Báo chí là phương tiện quan trọng dùng để tuyên truyền quan điểm, đường lối,
chính sách của các đảng, nhất là cầm quyền đến các tầng lớp xã hội. Ở Việt Nam, báo chí cách
mạng có chức năng tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng đến đông đảo quần chúng nhân dân.
- Chức năng khai sáng – giải trí. Báo chí là diễn đàn trao đổi, chia sẻ kỹ
năng và kinh nghiệm phong phú nhằm nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu
phát triển bền vững. Báo chí là kênh quan trọng cung cấp thơng tin, kiến thức khoa
học, giáo dục, văn hóa...; đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí đối với đơng đảo cơng
chúng, nhất là truyền hình, phát thanh, báo mạng điện tử.
- Chức năng kinh tế – dịch vụ. Chức năng này xuất phát từ đòi hỏi khách
quan của hoạt động báo chí trong nền kinh tế thị trường. Sản phẩm báo chí là một
loại hàng hóa đặc biệt, được kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đồng thời báo chí
thực hiện chức năng dịch vụ: quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. [56]
Theo Luật Báo chí 2016, báo chí có nhiệm vụ, quyền hạn: thơng tin trung
thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước, của nhân
dân; tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh và hướng dẫn dư luận xã
hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân; phát hiện, nêu
gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu tranh phịng, chống
các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội...[48]
1.1.4. Đặc điểm báo chí Việt Nam thời kỳ đổi mới



1.1.4.1. Khái quát bối cảnh quốc tế và trong nước từ năm 1986 đến nay
Từ thập kỷ 1980 đến nay, thế giới đã biến đổi to lớn, sâu sắc, khó lường. Các
nước tư bản chủ nghĩa, do áp dụng kịp thời những thành quả của cách mạng khoa
học- công nghệ, nhờ cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều
chỉnh các chính sách xã hội nên đã vượt qua được những khó khăn, kinh tế tăng
trưởng đáng kể. Trong khi đó, nhiều nước XHCN lầm vào khủng hoảng trầm trọng,
nhiều nước đã tiến hành cải tổ, cải cách và đổi mới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, như sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc, chậm
khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của mơ hình CNXH, lại mắc phải những
sai lầm nghiêm trọng trong đường lối cải tổ (từ đường lối kinh tế, HTCT, công tác
tổ chức cán bộ, đường lối đối ngoại) nên từ cuối thập kỷ 80 đến đầu thập kỷ 90 thế
kỷ XX, các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Cục diện thế giới chuyển từ hai cực
sang đa cực, Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới và muốn thiết lập trật tự thế
giới mới dưới sự lãnh đạo của Mỹ.
Tồn cầu hóa, cách mạng khoa học- công nghệ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ,
thức đẩy q trình hình thành xã hội thơng tin và kinh tế tri thức. Tuy nhiên mâu
thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn cịn ngun, khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội
khơng được ngăn chặn.. Các vấn đề tồn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng
lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tại, bệnh dịch…
vẫn diến biến phức tạp. Các nước lớn vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt, chi phối
và làm phức tạp thêm các quan hệ quốc tế. Khu vực Đơng Nam Á tuy vẫn giữ
được hịa bình, ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Tranh
chấp chủ quyền ở Biển Đông diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn,
tuy nhiên các nước ASEAN vẫn nố lực xây dựng cộng đồng, thiết lập các cơ chế
hợp tác mới ở khu vực, nhằm bảo vệ hịa bình và hợp tác khu vực…


Ở trong nước, sau 10 năm đổi mới (1986-1996), trong điều kiện bị bao vây,

cấm vận, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng, cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ phát
triển kinh tế- xã hội. Trong 10 năm tiếp theo (1996-2006), tình hình đất nước ổn
định, các khó khăn, thách thức dần được giải quyết, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời
sống nhân dân được cải thiện, chính trị- xã hội ổn định, vị thế quốc tế của đất nước
ta được nâng cao.
Trong 10 năm gần đây (2006-2016), đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, tốc độ tăng
trưởng khá, chính trị- xã hội tiếp tục được giữ vững, an ninh xã hội được bảo đảm.
Tuy nhiên, đất nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, những yếu kém
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, những biểu hiện của
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ; các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh
chống phá cách mạng nước ta…
Với vai trò là một chủ thể của nhà nước, đồng hành cùng vận mệnh của dân
tộc, báo chí cũng có những bước thanh đổi quan trọng, thể hiện ngày càng tốt chức
năng vai trị nội tại của mình…
1.1.4.2.Giai đoạn đầu đổi mới ( 1986 – 1995)
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, phát huy truyền thống vẻ vang của
nền báo chí cách mạng, báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mạnh dạn nhìn
thẳng vào sự thật, phê phán những hiện tượng tiêu cực, tham ô tham nhũng... đang
diễn ra trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, báo chí cũng đã cổ vũ tích cực cho
những phong trào, đơn vị làm ăn tiên tiến, những nhân tố mới, những gương người
tốt việc tốt, có nhiều thành tích tiêu biểu được xã hội công nhận.


Có thể nói rằng, so với các giai đoạn trước đó, báo chí của chúng ta giai
đoạn 1986 -1990 đã có sự chuyển biến rõ rệt về tư duy cũng như cách nhìn nhận,
đánh giá các sự kiện, vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống. Trước đây, Đảng thường
coi báo chí là một cơng cụ nặng về tun truyền các chủ trương, chính sách, thì giờ
đây Đảng ta coi báo chí là một cơng cụ, một kênh thơng tin quan trọng gắn kết chặt

chẽ giữa Đảng với nhân dân, vừa để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa để
lãnh đạo và quản lý đất nước. Qua các kênh thơng tin của báo chí, nhân dân đã nói
lên được những tâm tư, nguyện vọng của mình tới các cơ quan chức năng, các vị
lãnh đạo của Đảng, nhà nước. Có thể nói rằng, nhờ việc đổi mới tư duy và cách
nhìn nhận của Đảng ta đối với báo chí, mà báo chí trong điều kiện mới có cơ hội để
phát huy tốt hơn tính dân chủ, tự cởi trói mình để hồn thành sứ mệnh thiêng liêng
trong cơng cuộc đổi mới của đất nước.
Thành cơng của báo chí những năm đầu của thời kỳ đổi mới đã tạo ra cho
hoạt động báo chí của nước ta những năm sau đó những tiền đề vững chắc để tiếp
tục cơng cuộc đổi mới đất nước, đấu tranh chống lại các thế lực thù địch từ bên
ngoài đang thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” chống phá nước ta trên nhiều
lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh, quốc phòng, cũng như
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn này nổi nên là báo Đại đồn kết, cơ quan ngơn luận của Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có bề dày lịch sử hơn 50 năm (tiền
thân là báo Cứu quốc) đã được sự yêu mến của bạn đọc trong và ngoài nước. Tiếp
thu truyền thống của những tờ báo tiền thân, báo Đại đồn kết khơng ngừng cải
tiến nội dung cũng như hình thức trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần tạo nên sức mạnh cho
cơng cuộc đổi mới. Bên cạnh đó, báo Đại đồn kết cũng đã chú trọng phản ánh với
Đảng, Nhà nước những kiến nghị, đề xuất của tầng lớp nhân dân, giúp Đảng và


Nhà nước kịp thời sửa chữa sai lầm, bổ sung thiếu sót, nhất là trong những vấn đề
bức xúc của xã hội đặt ra. Mặt khác, đi đôi với việc biểu dương nhân tố mới, điển
hình mới, những kinh nghiệm làm ăn giỏi của nhân dân, báo cịn góp phần đấu
tranh chống tiêu cực, chống các tệ nạn ức hiếp, trù dập quần chúng, vi phạm quyền
công dân, thông tin những vấn đề sôi động, những sự kiện lớn trong nước và quốc
tế, vạch trần âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch chống phá nước ta trên
đường đổi mới...

Nhìn chung, báo chí nước ta giai đoạn này có những đổi mới trên nhiều bình
diện, điều đáng nói trước tiên là trong giai đoạn này, đội ngũ nhà báo nước ta, cả
chuyện nghiệp lẫn khơng chun đã có sự lớn mạnh hơn nhiều so với đội ngũ nhà
báo các thời kỳ trước đó. Với sự lớn mạnh và trưởng thành như vậy, họ đã phát huy
và đóng góp tích cực của mình trong cơng cuộc đổi mới đất nước.
Cùng với sự lớn mạnh về số lượng, đội ngũ những người làm báo đã có sự
đổi mới trong tư duy cũng như phương thức làm báo, tư duy khác trước, các vấn đề
thường được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều hướng, nhiều chiều, phát huy được
tính khách quan trong hoạt động báo chí. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội đã
được nhà báo dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đưa ra trước công luận nên đã được
sự ủng hộ nhiệt tình của đơng đảo cơng chúng. Nhà báo cũng trở nên khẩn trương
hơn trong tác nghiệp, đưa tin, viết bài và bình giá các vấn đề để đáp ứng yêu cầu
của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Báo chí giai đoạn này cũng tỏ ra năng động hơn, nhạy bén hơn trong tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đến với đơng đảo
quần chúng nhân dân. Qua đó, giúp nhân dân có được nhận thức đúng đắn, thực
hiện tốt hơn những quyết sách mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong công cuộc
đổi mới đất nước.


Báo chí bám sát thực tiễn, phản ảnh sự đổi mới hàng ngày, hàng giờ của đất
nước trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống. Nhiều nhà báo không ngại đi sâu, đi sát cơ
sở, phản ánh kịp thời các vấn đề nảy sinh, từ đó giúp Đảng và Nhà nước có được
những chủ trương phù hợp, sát với tình hình thực tế. Đây có thể xem là đóng góp
lớn nhất của báo chí nước ta thời kỳ này.
Với chức năng và vai trị của mình, báo chí nước ta giai đoạn này đã hoàn
thành được sứ mệnh lịch sử, góp phần đắc lực vào việc thúc đẩy nhanh tiến trình
đổi mới đất nước.
1.1.4.3.Giai đoạn từ 1996 đến nay
Theo thống kê tính đến tháng 2/ 1995, cả nước có 375 cơ quan báo và tạp

chí, khoảng hơn 360 triệu bản in với nhiều loại hình phong phú: hàng ngày, hàng
tuần, nửa tháng, hàng tháng, số cuối tuần, số cuối tháng... Một số tờ báo ra thêm
phụ san định kì hoặc khơng định kì. Một số báo bằng tiếng nước ngồi ( Anh,
Pháp, Hoa…). Quảng cáo cũng là một hoạt động được mở rộng trên báo chí.
Đến đầu 2007, cả nước đã có 687 cơ quan báo chí với khoảng hơn 800 ấn
phẩm, gồm 172 báo ( trung ương: 71, địa phương 101); 448 tạp chí( trung ương:
352; dịa phương: 96); 67 đài phát thanh, truyền hình ( trung ương: 2; địa phương
65); 5 báo điện tử, 105 trang tin điện tử của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp…
Chưa đầy một năm sau đó, cuối 2007, cả nước đã có 702 tờ báo và tạp chí
với 830 ấn phẩm, 68 đài phát thanh, truyền hình ( trong đó 3 đài truyền hình trung
ương là VTV, VTC, VCTV; 1 đài phát thanh quốc gia là Đài tiếng nói Việt Nam,
64 đài phát thanh, truyền hình cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, trên
600 đài phát thanh cấp huyện và hàng chục phường, xã, thị trấn, nhà máy, xí
nghiệp, bệnh viện, trường học; 1 hãng thông tấn nhà nước là Thông tấn xã Việt


Nam, 6 báo mạng điện tử, 100 tờ báo in đưa lên mạng Internet bằng các thứ tiếng,
hàng ngàn trang điện tử…
Đến cuối năm 2009, cả nước có 706 cơ quan báo in, 1 hãng thông tấn quốc
gia, 2 đài phát thanh truyền hình quốc gia và trên 560 đài phát thanh - truyền hình
cấp tỉnh, huyện. Ở tất cả các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội đều có cơ quan
báo chí. Các bộ lớn như: Bộ Quốc phịng, trên 20 cơ quan báo chí, Bộ Cơng An có
gần 20 cơ quan báo chí, Bộ Y tế, 15 cơ quan báo chí. Tổ chức chính trị có nhiều cơ
quan báo chí nhất là Trung ương Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với 10
cơ quan báo chí. Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có ít nhất 2 đến 3
cơ quan báo chí, gồm báo của Đảng bộ địa phương, đài phát thanh - truyền hình,
tạp chí của Hội văn nghệ…Các địa phương có nhiều cơ quan báo chí nhất là thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải phòng, Đà Nẵng, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế,
Đồng Nai…
Sự tăng trưởng của báo chí Việt Nam thời kì này thể hiện rõ nét ở sự phát

triển về chủng loại. Báo in, ngoài những ấn phẩm vốn có như: nhật báo, tuần báo,
báo thưa kì, tạp chí, bản tin… đã xuất hiện những tờ tạp chí với nội dung thiên về
giải tri và mục đích rõ ràng là tập trung thu hút quảng cáo. điều này có nghĩa là đã
xuất hiện một loại sản phẩm báo chí có mục đích thương mại. Mặt khác, vào thời
điểm 1986, cả nước mới chỉ có 5 tờ nhật báo, nay đã lên tới trên 20 tờ. Trên cả
nước, hiện có 533 cơ quan báo in, tạp chí với 713 ấn phẩm và hơn 1000 bản tin.
Hàng năm, số lượng báo phát hành ở nước ta khoảng 600 triệu bản, bình qn có
7,5 bản báo/người/năm. Hầu hết các trung tâm tỉnh lị đều được đọc báo phát hành
trong ngày.
Theo số liệu của Bộ Thơng tin- Truyền thơng, tính đến tháng 12/2016, cả
nước ta có 859 cơ quan báo chí in (199 báo (trung ương 86; địa phương 113); 660
tạp chí (trung ương 523; địa phương 137); 135 báo, tạp chí điện tử (112 của cơ


quan báo chí in và 23 - độc lập); 258 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ
quan báo chí; 67 đài phát thanh, truyền hình (2 đài quốc gia là Đài Tiếng nói Việt
Nam, Đài Truyền hình Việt Nam; 1 đài truyền hình kỹ thuật số VTC; 64 đài phát
thanh, truyền hình địa phương; 5 đơn vị hoạt động truyền hình khơng có hạ tầng
phát sóng truyền hình riêng, gồm: Đài Tiếng nói Việt Nam (Kênh Truyền hình
VOV TV, kênh truyền hình Quốc hội); Trung tâm PTTH, Điện ảnh Công an nhân
dân của Bộ Công an (kênh truyền hình Cơng an nhân dân ANTV); Trung tâm
Truyền hình thông tấn- TTXVN (kênh VNews); Trung tâm PTTH Quân đội (kênh
truyền hình Quốc phịng); Báo Nhân dân (kênh truyền hình Nhân dân). 03 đơn vị
có chương trình truyền hình phát sóng trên VTV, gồm: Trung tâm Truyền hình
nhân đạo (chương trình truyền hình Nhân đạo); Trung tâm Truyền thơng - Truyền
hình Cơng thương (Chương trình Truyền hình Cơng thương); Trung tâm vận động
truyền thông xã hội, Cục Bảo trợ chăm sóc trẻ em- Bộ Lao động, Thương Binh và
Xã hội (chương trình truyền hình Vì trẻ em). Tổng số kênh phát thanh, truyền hình
trong nước được cấp phép là 268 kênh (77 kênh phát thanh phát quảng bá, 9 kênh
phát thanh phát trên dịch vụ truyền hình trả tiền, 103 kênh truyền hình phát quảng

bá, 79 kênh truyền hình sản xuất phục vụ truyền hình trả tiền; 47 kênh chương
trình nước ngoài được cấp phép biên tập, biên dịch. Số lượng thuê bao đạt khoảng
12,5 triệu
Số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam là 49 triệu người (Internet
statistics, 12/2016) [39], ở mức cao trong khu vực. Sự phát triển với tốc độ cao của
báo điện tử cùng với tính chất tích hợp truyền thơng đã mở ra khả năng to lớn cho
việc truyền tải, thu nhận thông tin, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của
công chúng. Mặt khác, các cơ quan báo chí của ta đã và đang phải đương đầu với
cuộc đấu tranh ngày càng gay gắt, quyết liệt của mạng xã hội và các phương tiện
truyền thông khác trên mạng Internet.
Đồng hành cùng sự phát triển đó là đội ngũ người làm báo ngày càng phát
triển lớn mạnh. Cụ thể, năm 1991, nước ta có gần 7000 nhà báo, đến 2005, cả nước
đã có 15.000 nhà báo được phát thẻ ( tăng hơn 2 lần trong vịng 15 năm). Chưa kể
hàng chục nghìn người đang làm việc tại hơn 600 đài truyền thanh, truyền hình cấp


huyện, ở các bản tin định kì ở các cơ quan báo chí đảm bảo cho q trình tác
nghiệp của các nhà báo.
Đến cuối 2009, đội ngũ người làm báo nước ta đã phát triển lên hơn 17
nghìn hội viên hội nhà báo. Tính đến tháng 9/2016, cả nước có 18.360 nhà báo và
khoảng trên 5.000 phóng viên đang làm việc tại cơ quan báo chí, nhưng chưa đủ
điều kiện cấp thẻ nhà báo. [10] Về trình độ chun mơn, phần lớn số người làm
việc trong lĩnh vực báo chí đều có trình độ cao đẳng, đại học trở lên; số người có
trình độ dưới đại học giảm trung bình 1%/ năm. Hầu hết các nhà báo có bản lĩnh
chính trị, đạo đức nghề nghiệp, hành nghề trung thực, tuân thủ pháp luật và Quy
định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.
Báo chí Việt Nam về cơ bản đã làm tốt chức năng là cơ quan ngôn luận của
Đảng, Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân. Báo chí đã đi đầu trong tuyên truyền
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; cơng cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và

hội nhập quốc tế; tăng cường quốc phòng an ninh, đối ngoại; đấu tranh phản bác
những thông tin, quan điểm sai trái, âm mưu “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
sự nghiệp đổi mới.
Trên lĩnh vực kinh tế, báo chí đã tuyên truyền việc thực hiện các nghị quyết
của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc nền kinh tế,
đẩy mạnh cải cách hành chính, đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Báo chí góp phần tổng kết các bài học của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế,
phát hiện, phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong quá trình xây dựng
hoặc thực hiện chính sách, quyết định của các cơ quan nhà nước; phản ánh kịp
thời các ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí đã hình thành một lênh tương
tác thường xuyên giữa các cơ quan của Chính phủ và người dân, góp phần quan
trọng tăng cường tính cơng khai, minh bạch, dân chủ, tạo sự đồng thuận xã hội.


Báo chí đã đi đầu và có những đóng góp quan trọng trong công tác thông tin
đối ngoại, nêu bật những thành tựu xây dựng và phát triển đất nước, các giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thúc
đẩy hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và thế giới; góp
phần tăng cường tình hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; nâng cao
nhận thức chính trị, định hướng tư tưởng, văn hóa cho nhân dân; giúp các nhà
hoạch định chính sách Việt Nam đưa ra những quyết sách phù hợp.
Báo chí trong nước đã phát triển cả về số lượng, chất lượng và thời lượng
theo hướng chuyên biệt hóa về nội dung, đa dạng hóa về thể loại, tốc độ thơng tin,
hình thức thể hiện. Báo chí vừa tiếp tục làm tốt nhiệm vụ chính trị thơng tin, tun
truyền, vừa tiến tới đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng của cơng chúng.
Các phóng viên, biên tập viên, nhân viên kỹ thuật, cán bộ lãnh đạo quản lý và
cơ quan báo chí được trang bị máy móc, thiết bị tương đối hiện đại, tiên tiến và
đồng bộ - chủ yếu là kỹ thuật số. Nhờ đó việc thu - phát thơng tin của báo chí được
nhanh chóng, chất lượng và hiệu qua hơn nhiều so với trước đây. Tóm lại, báo chí

Việt Nam đã có bước trưởng thành và phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng, tồn diện,
hiệu quả, đặc biệt là trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập quốc tế…
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, hoạt động báo chí ở nước ta thời gian
qua cũng cịn nhiều hạn chế, khuyết điểm:
Hệ thống báo chí nhiều về số lượng nhưng chất lượng chưa tương xứng, còn
chồng chéo về tơn chỉ, mục đích, nội dung, đối tượng phục vụ. Một số cơ quan báo
chí và nhà báo thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng giáo dục tư tưởng,
chính trị, văn hóa; chưa thực hiện tốt tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chính;
chưa coi trọng đúng mức việc phát hiện, tuyên truyền các nhân tố mới, điển hình
tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Xu hướng “thương mại hóa” trong hoạt động
báo chí, khai thác thông tin thiếu chọn lọc, nặng về phản ánh mặt trái, tiêu cực của
xã hội, nhiều nội dung tin bài giật gân, câu khách; tính trung thực của báo chí bị
giảm sút; có hiện tượng một số báo điện tử, kênh chương trình phát thanh, truyền
hình,… bị tư nhân chi phối đã làm giảm chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa,


×