Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Lễ hội Chùa Bà Thiên hậu ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.11 KB, 6 trang )

LỄ HỘI CHÙA BÀ THIÊN HẬU


Chùa Bà Thiên hậu (Chợ Lớn)
Chùa Bà Thiên Hậu (theo cách gọi của người Việt) còn được gọi là chùa
Bà Chợ Lớn
, tên chữ Hán là Thiên Hậu miếu, người Hoa gọi là Phò Miếu
(tức miếu Đức Bà). Và do bên cạnh chùa có Tuệ Thành Hội quán là nơi quy
tụ của nhóm người Hoa Quảng Đông, nên chùa còn được gọi
Tuệ Thành
Hội quán
.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất của người Hoa đã gây dựng trên
đất
Đề Ngạn xưa.
Chùa hiện tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, quận 5, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Chùa Bà Thiên Hậu được nhóm người Hoa gốc huyện Tuệ Thành, Quảng
Đông đã rời bỏ làng quê sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng vào
khoảng năm 1760 và được trùng tu lớn vào các năm 1800, 1842, 1890,
1916
Chùa nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến tạo lập
nên Chợ Lớn sau này.
Đại Nam Nhất Thống Chí ghi:
Cách huyện Bình Dương 12 dặm, ở phía tả
và phía hữu đường quan lộ. Nơi chợ có đường thông ra tứ phía đi liên lạc
như hình chữ "điền", nhà cửa phố xá liên tiếp thềm mái cùng nhau, người
Hán, người Thổ ở chung lộn dài độ 3 dặm, đủ cả hàng hóa trăm thức, ở bên
sông Nam và Bắc không thiếu món gì, đầu phía Bắc đường lớn có đền Quan
Công, quán Tam Hội, xây cất đối nhau phía tả và phía hữu. Phía Tây đường
lớn có chùa Thiên Hậu, gần phía Tây có Ôn Lăng Hội Quán.


Sự tích bà Thiên Hậu

Chính điện thờ Bà Thiên hậu.
Chùa thờ bà Thiên Hậu là chính. Bà được người Quảng Đông gọi là “A Phò”
(Đức Bà). Người Phúc Kiến và Hải Nam thích gọi bà là "Đạo Mẫu".
Bà có tên thật là Mi Châu, sinh ngày 23 tháng 3 (âm lịch) năm Giáp Thân
(1044), sống ở Phước Kiến (Trung Quốc). Theo sự tích kể lại thì ngày hôm
ấy cha Bà là Lâm Tích Khánh cùng hai anh trai đi thuyền chở muối đến
Giang Tây, giữa đường gặp bão lớn. Lúc đó Bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ
nhưng xuất thần để đi cứu cha và hai anh. Bà dùng răng cắn được chéo áo
của cha, hai tay nắm hai anh, giữa lúc đó mẹ kêu gọi Bà, ép Bà trả lời, Bà
vừa hở môi trả lời thì sóng cuốn cha đi mất dạng, chỉ cứu được hai anh. Từ
đó mỗi khi thuyền bè ngoài biển bị nạn người ta đều gọi vái đến Bà. Năm
Canh Dần (1110) nhà Tống sắc phong cho Bà là "Thiên Hậu Thánh Mẫu".
Kiến trúc
Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa, đây là tổ
hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc
chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện.
Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp
không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát
khói hương.
Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, biển tự
thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh
đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".
Chùa có gắn các tượng tròn, phù điêu bằng gốm dày đặc từ trên nóc chùa,
mái, hiên chùa cho đến các bàn thờ, vách tường do 2 lò gốm Bửu Nguyên
và Đồng Hòa sản xuất vào năm 1908.
Kiến trúc độc đáo này được Vương Hồng Sển khen ngợi:
Chùa ngày nay như ta thấy, toàn xây bằng vật liệu bên Tàu đem
qua, từ viên gạch, tấm ngói, đến những đồ gốm gắn trên mái nóc đều

do thuyền buồm chở sang đây, đến cách thức phong tô cũng giữ y thể
thức Tàu, gạch xây liền mí không tô hồ, đếm rỡ từng tấm một, lằn hồ
thẳng đường thẳng lối khít rịt và ngay bon như vẽ, thiệt là rất khéo và
tưởng chừng thợ kim thời khó làm sắc sảo hơn được nữa. Truy ra
chùa nầy trùng tu năm 1860 (Hàm Phong năm thứ 10). Ngày nay
đứng sân chùa ngắm lên các cảnh chưng trên nóc bằng đồ gốm nung
bên Tàu là biết được những phong tục Trung Hoa cổ thời, thuở vua
chúa còn trị vì: đả võ đài, thi đậu vinh quy, công chúa tuyển phò mã,
v.v những vật này đáng được liệt kê vào sổ cổ tích vậy.

[2]
Thờ cúng

Tiền điện là hai trang thờ hai bên: Phúc Đức Chánh thần (phải) và Môn
Quan Vương Tả (trái). Tại đây có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu
Thánh Mẫu và các bức tranh lớn vẽ cảnh bà đang hiển linh trên sóng nước.
Trung điện đặt bộ lư có năm món (ngũ sự) đúc năm Quang Tự thứ 12 1886
(ảnh bên dưới).
Chính điện, được gọi là
Thiên hậu Cung, gian giữa thờ Bà Thiên Hậu, hai
bên thờ bà Kim Hoa Nương Nương (phía phải) và Long Mẫu Nương Nương
(phía trái).
Được biết pho tượng Bà Thiên Hậu tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1m, có từ
khá lâu, trước khi xây chùa, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới
di chuyển về đây. Hai pho tượng còn lại bằng cốt giấy sơn màu. Các pho
tượng đều được khoác áo thêu lộng lẫy. Gian phụ nằm hai bên chính điện
thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài.
Chùa Bà Chợ Lớn hàng ngày vẫn đón tiếp những người đến cúng lễ khá
đông. Nhưng đông hơn là vào các ngày mùng một và rằm hàng tháng, các
ngày lễ Tết trong năm của người Hoa như Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu,

Tết Đoan ngọ v.v Đặc biệt, ngày 28 Tết, chùa tiến hành lễ cúng Bà và
Lễ
khai ấn
, cầu mong Bà phò trợ cho “Hộ quốc an dân” và “Hợp cảnh bình an”.
Riêng ngày
vía Bà (23 tháng 3 âm lịch) được xem là ngày hội chính của
chùa.
Vào ngày này, bà con người Hoa, người Việt đến cúng lễ rất đông. Ngay từ
đêm hôm trước tại chùa đã cử hành
Lễ tắm Bà. Sáng ngày 23, mọi người lại
tổ chức
Lễ rước Bà: Tượng Bà được đặt vào kiệu do các thanh niên nam nữ
ăn mặc đẹp đẽ diễu qua các đường phố quanh chùa. Theo sau kiệu có thuyền
rồng, các tấm bảng đỏ ghi tên các vị thần được thờ phụng trong chùa, các
đội múa gồm: múa lân, múa sư tử, múa rồng, các đội nhạc dân tộc vừa biểu
diễn vừa múa hát, tạo nên một quang cảnh náo nhiệt trong các khu phố đông
đảo người Hoa
Cổ vật quí

Bộ lư lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886)
Chính điện chùa còn 2 đại đồng chung niên hiệu Càn Long năm thứ 60
(1796) và Đạo Quang năm thứ 10 (1830). Trung điện có bộ lư phát lam lớn
niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886). Trong tủ kính lớn ở chính điện là tượng
Bát Tiên và tướng lịnh của D'Ariès vào năm 1860 cấm các binh sĩ Pháp và
Y-Pha-Nho phá phách. Hai bên bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, bằng gỗ tốt,
dành rước Bà vào ngày vía Bà với chiếc thuyền rồng chạm hình nhân, rước
theo cùng với kiệu Bà.
Ngoài ra, chùa còn khoảng 400 đồ cổ, trong đó có 7 pho tượng thần, 6 tượng
đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành
phi, 23 câu đối và 41 tranh nổi Tất cả những cổ vật này đều được chế tác

rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế.
Giá trị
Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu, có lịch sử lâu đời
nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ
thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác, đó
không chỉ là nơi đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ và tương
trợ lẫn nhau của bà con người Việt gốc Hoa (Quảng Đông).
Sự tích Bà Thiên Hậu, qua người kể đôi khi có ít nhiều dị biệt nhưng chủ
yếu vẫn là đề cao một người phụ nữ Hoa có lòng hiếu thảo, đức hạnh, dám
xả thân vì mọi người Sự đề cao này nhằm mục đích giáo dục.
Mặt khác trên bước đường nguy nan, nhiều sóng gió khi sang vùng đất mới
để mưu sinh, người Hoa tin tưởng sự hiển linh của bà sẽ giúp họ vượt qua
được mọi trở ngại và được an cư lạc nghiệp. Để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối
với sự phù trợ của Bà, Chùa Bà Thiên Hậu có vị trí quan trọng đối với người
Hoa Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và cả người Việt.
Chùa Bà được công nhận là
di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày
07 tháng 01 năm 1993.
Thông tin thêm
Các cơ sở hoạt động từ thiện xã hội của chùa Bà Thiên Hậu là Trường PTCS
Mạch Kiếm Hùng và bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Chùa cũng là nơi dung
chứa Mạch Kiếm Hùng, một chiến sĩ cách mạng.
Ngoại trừ chùa Bà Thiên Hậu Chợ Lớn, ở Thành Phố Hồ Chí Minh có ít
nhất 6 nơi khác cũng thờ bà Thiên Hậu:
Miếu Thiên Hậu (134 Nguyễn Thị
Minh Khai, quận 1),
Quảng Triệu hội quán (122 Bến Chương Dương, quận
1),
Quỳnh Phủ hội quán (276 Trần Hưng Đạo, quận 5), Tam Sơn hội quán
( 116 Triệu Quang Phục, quận 5) , Hà Chương hội quán (802 Nguyễn Trãi,

quận 5),
Quần Tân hội quán (2 Lý Thường Kiệt, quận Gò Vấp).
Chú thích
1. ^ Trong bài “Đọc cuốn Sài Gòn năm xưa", Nguyễn Hiến Lê tóm tắt
thuyết của cụ Vương Hồng Sển về nguồn gốc địa danh Sài Gòn như
sau: “Sài Gòn thời Miên là Prei Nokor (
nghĩa là xứ ở giữa rừng);
Trung Hoa tới lập một khu buôn bán gọi là Đề Ngạn (
Chợ Lớn ngày
nay
), và người Việt tới lập một khu khác, gọi là Bến Thành (Sài Gòn
ngày nay).
Đề Ngạn mà phát âm theo giọng Quảng Đông thì nghe ra
"Thầy Ngồn" hay "Thì ngồn" hay "Tài ngòn". Sài Gòn có lẽ do đó mà
ra, chứ không phải do Prei Nokor.” [1]
2.
^ Xem Sài Gòn năm xưa [2]
3.
^ Thời trước, người Hoa sang Việt Nam bằng tàu chạy buồm.
Tham khảo
• Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (Giáo trình Trường Đào tạo
nghiệp vụ du lịch Sài Gòn), Nxb TP. HCM, 1995.
• Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nxb TP. HCM, 1991.
• Nhiều tác giả, Hỏi đáp về Sài Gòn - TP. HCM, tập 6, Nxb trẻ, 2006.
• Lê Quang Ninh, Stéphane Dovert, Sài Gòn – Ba thế kỷ phát triển và
xây dựng
, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2004.

×