Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

đề tài Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất và các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.35 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN

ĐỀ TÀI (SỐ 4): Vai trò của người lao động trong lực
lượng sản xuất và các biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
Lớp
Mã sinh viên

: PHẠM HỮU TRUYỀN
: CNTT 14-04
:

Hà nội, ngày tháng năm 2021

1


I. Phần mở đầu
Ở nước ta hiện nay, từ các kì đại hội Đảng đã ln xác định cơng nghiệp hóa
là nhiệm vụ trung tâm của thời kì q độ. Muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
nâng cao đời sống nhân dân thì khơng cịn con đường nào khác là chúng ta phải
đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa. Để làm được như vậy thì một
vấn đề được đặt lên hàng đầu đó là phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao kĩ
thuật, công nghệ và trong đó đặc biệt phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.


Đã có rất nhiều ngành, mơn khoa học nghiên cứu về vấn đề con người đây
được coi là vấn đề thiết thực nhất địi hỏi sự phát triển tồn diện nhất trên
nhiều lĩnh vực, tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này chúng ta chỉ đề cập tới
1 khía cạnh đó là: “Vai trị của người lao động trong lực lượng sản xuất và
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay”.


Chương I: Các quan điểm duy vật lịch sử về: phương thức sản xuất, lực lượng
sản xuất, vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất.
I.1. Phương thức sản xuất

Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Sự thay thế
kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển
của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có "quan hệ song trùng": một mặt là quan hệ giữa
người với tự nhiên, biểu hiện ở lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa
người với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tương ứng.
I.2 Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động
của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh
khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.
Vậy, lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con
người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó
"lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người
lao động. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là
công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của


cải vật chất. Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ
bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trị quyết định trong tư liệu sản xuất.
Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là "sức mạnh của tri thức đã được vật
thể hóa", nó "nhân" sức mạnh của con người trong q trình lao động sản xuất.
Cơng cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với q trình
tích luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao
động không ngừng được cải tiến và hồn thiện. Chính sự cải tiến và hồn thiện
khơng ngừng cơng cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến
cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Trình độ phát triển của cơng cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trị ngày càng to lớn. Sự
phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở
thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Sức lao động đặc trưng
cho lao động hiện đại khơng cịn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri
thức khoa học. Có thể nói: khoa học và cơng nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực
lượng sản xuất hiện đại.
I.3 Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối
với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong

phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan
trong q trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
C.Mác viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên.
Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo


một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn
sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau;
và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất". Quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với
nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động,
phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ
xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản
xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu cơ bản về
tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình
sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, cịn
đại đa số khơng có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với
người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị
trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu cơng cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu
sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa
người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm q trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở
hữu quyết định và nó phảithích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp,
quan hệ tổ chức và quản lý khơng thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng

quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích
trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người


trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát
triển.
CHƯƠNG II: Thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
II.1. Thực trạng
Theo kết quả tổng điều tra dân số ,dân số Việt nam đã vượt mức 95 triệu
người và đang tiến dần đến con số 100 triệu, trong đó nữ chiếm 50.7%, nam
49.3%, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á.
Dân số phân bố khơng đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam
phần đơng vẫn cịn là cư dân nơng thơn. Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá;
tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh, tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 7%
tổng dân số, chỉ số già hoá là 44.6%, và Việt Nam đang bước vào thời kỳ già hoá
dân số
Hiện nay, lực lượng lao động Việt Nam có 53.7 triệu người trong đó 52.8 triệu
người có việc làm và 0.9 triệu người thất nghiệp (tỷ lệ thất nghiệp là 1.84%);
hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động.
Mặc dù có sự dịch chuyển tích cực ở khu vực thành thị nhưng vẫn còn 70% lực
lượng lao động tập trung ở khu vực nông thôn. Đây là một cơ cấu lao động
không hợp lý, khi tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp
là cao nhất trong khi đây là ngành có đóng góp thấp nhất vào GDP. Lực lượng lao
động của Việt Nam tương đối trẻ, với 50% số người thuộc lực lượng lao động có
độ tuổi từ 15-39 tuổi
Căn cứ trên cơ cấu tuổi của lực lượng lao động, có thể thấy sự khác nhau đáng kể
về phân bố lực lượng lao động theo tuổi giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tỷ

lệ phần trăm lực lượng lao động nhóm tuổi trẻ (từ 15-24) và già (trên 55 tuổi) ở
khu vực thành thị thấp hơn khu vực nơng thơn. Về trình độ chun môn kỹ thuật,
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
là 17%, trong đó ở thành thị là 33%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở


khu vực nơng thơn là 11%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20% đối với nam và
15% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên)
trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng.
Sử dụng nhân lực:

cả nước có 1,140.2 nghìn người thiếu việc làm và 876.1

nghìn người thất nghiệp trong tổng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên.
Trong đó 86.3% người thiếu việc làm sinh sống ở khu vực nông thôn và 55%
người thiếu việc làm là nam giới. 54.9% số người thất nghiệp sinh sống ở khu
vực thành thị và 54.8% số người thất nghiệp là nam giới. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu
vực thành thị là 3.26%, cao hơn mức 1.2% ở khu vực nơng thơn. Trong khi đó, tỷ
lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn lại cao hơn khu vực thành thị (2.77% so
với 1.05%)
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng nhưng vẫn còn rất thấp so với
các nước trong khu vực: Năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người,
năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ
năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người. Theo báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO), năm 2013, Việt nam xếp vào nhóm có năng suất lao động thấp nhất châu
Á-Thái Bình Dương (cùng với Myanmar và Campuchia), thấp hơn Singapore 15
lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Malaysia 5 lần.
II.2 Nguyên nhân, hạn chế của việc thiếu lao động chất lượng cao.
Thứ nhất, thể chất của lực lượng lao động còn yếu: Về cơ bản, thể chất của
người lao động Việt Nam đã được cải thiện, nhưng còn thấp so với các nước

trong khu vực, thể hiện ở các khía cạnh tầm vóc, sức khoẻ, sức bền, khả năng
chịu áp lực…
Thứ hai, trình độ của người lao động cịn nhiều hạn chế, bất cập, do chất
lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa
phương của nguồn nhân lực chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và
nhu cầu của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.


Thứ ba, thiếu đội ngũ công nhân, kỹ thuật viên lành nghề để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam. Thứ
tư, về cơ bản đội ngũ lao động Việt Nam giỏi lý thuyết, nhưng kém về năng lực
thực hành và ứng dụng công nghệ cao vào quá trình lao động, kém về ngoại ngữ
và hạn chế trong việc thích nghi mơi trường có áp lực cạnh tranh cao.
Thứ năm, khả năng làm việc theo nhóm, tính sáng tạo, chun nghiệp trong q
trình lao động cịn nhiều hạn chế, khả năng giao tiếp, năng lực giải quyết xung
đột trong q trình lao động cịn yếu kém.
Thứ sáu, tinh thần trách nhiệm trong công việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức
cơng dân, văn hố doanh nghiệp, ý thức tn thủ kỷ luật lao động của một bộ
phận đáng kể người lao động chưa cao.
CHƯƠNG III: Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Một là, tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước. Tập trung hoàn thiện bộ máy quản lý
phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu
lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới
các chính sách, cơ chế, cơng cụ phát triển và quản lý nguồn nhân lực bao gồm các
nội dung về mơi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo
trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính
sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính. Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách Nhà
nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng kế
hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện các

chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân
lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân
đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các


hình thức: (i) Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn
hoá, thể dục thể thao; (ii) Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực,
huy động, phát huy vai trị, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân
lực; (iii) Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài
cho phát triển nhân lực Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước
ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); (iv) Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của
nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục,
đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu,
là quốc sách hàng đầu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến
2020 và những thời kỳ tiếp theo. Một số nội dung chính trong quá trình đổi mới
hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam bao gồm: (i) Hoàn thiện hệ thống giáo
dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; (ii) Mở rộng giáo dục mầm non, phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao. Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề và đào tạo chuyên nghiệp.
Quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy
nghề trong cả nước; (iii) Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, sách giáo
khoa phổ thơng, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề
nghiệp, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo hướng phát huy tư duy
sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào
những nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ; (iv) Đổi mới phương
pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Thực hiện kiểm định chất lượng
giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức

kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng cơng
nghệ thơng tin; (v) Đổi mới
chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng
nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo; (vi)


Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng,
phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Bốn là, chủ động hội nhập. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh
doanh và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực
chúng ta cần chủ động hội nhập với những định hướng cơ bản là: (i) Xây dựng,
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với
trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật pháp quốc
tế về lĩnh vực này mà chúng ta tham gia, ký kết, cam kết thực hiện; (ii) Thiết lập
khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới.
Xây dựng lộ trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo để
đạt được khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù
Việt Nam; (iii) Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo.
Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao
đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu
khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới; (iv)
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có
tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia
vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các
cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; (v) Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân
sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngồi, thu
hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.
III, Suy nghĩ bản thân.



Là một sinh viên của đại học Đại Nam em tự cảm thấy bản thân mình cần
phải cố gắng hơn trong học tập và rèn luyện để trở thành mọt nhân lực chất
lượng cao góp hần vào cơng cuộc xây dụng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.



×