Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tài liệu Chọn lọc tự nhiên và nguồn gốc các loài (DARWIN) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.31 MB, 19 trang )


Chọn lọc tự nhiên và nguồn
gốc các loài (DARWIN)



1. Loài và các đơn vị dưới loài
Ch. R. Darwin không đưa ra định nghĩa
về "Loài", mà chỉ chú ý tới vấn đề loài có
biến đổi hay không và biến đổi như thế
nào?
Theo Darwin các loài có biến đổi dần dà,
liên tục qua các dạng trung gian là sai dị
cá thể, thứ, phân loài. Các dạng này chỉ
khác nhau về mức độ tích luỹ biến dị nên
khó xác định được ranh giới rõ ràng giữa
chúng với nhau. Bằng chứng về sự biến
đổi đó là những loài nghi vấn. Darwin
cho rằng các đơn vị dưới loài: loài phụ,
thứ chỉ là quy ước nhân tạo cho dễ dùng
mà thôi.
2. Phân ly tính chất và nguồn gốc của
loài
Định nghĩa:
Phân ly tính chất là quá trình từ một vài
dạng ban đầu biến đổi theo hướng khác
nhau. Trong chọn lọc nhân tạo, phân ly
tính chất dẫn đến hình thành nhiều thứ
khác nhau trong phạm vi một loài. Trong
chọn lọc tự nhiên, phân ly tính chất dẫn
đến hình thành nhiều loài mới từ một loài


ban đầu.
Sự phân ly dấu hiệu thực hiện được là
dựa vào đặc tính biến dị và di truyền của
sinh vật. Trong loài luôn phát sinh biến
dị theo nhiều hướng. Những hướng biến
dị có lợi sẽ được bảo tồn và tích luỹ,
những hướng biến dị trung gian, không
có lợi theo một hướng đặc sắc nào sẽ bị
đào thải. Kết quả của quá trình phân ly là
từ một vài dạng ban đầu dần dà hình
thành nhiều dạng ngày càng khác nhau
và khác xa dạng ban đầu.
Trong chọn lọc tự nhiên, trải qua thời
gian dài, hàng vạn thế hệ, các mức độ sai
khác ngày càng tăng lên thành những
thứ, rồi đến các loài phụ trong một loài,
đến mức nào đó thì hình thành những
loài mới.
Sơ đồ phân ly tính chất chỉ minh hoạ một
giai đoạn rất ngắn trong lịch sử phát triển
lâu dài của sinh giới. Quá trình phân ly
tính chất dưới tác dụng của chọn lọc tự
nhiên cho thấy toàn bộ các loài sinh vật
nhiều dạng, phong phú ngày nay đều có
một nguồn gốc chung.

Hình 6. Các loài chim sẻ ở đảo
Galapagos (Theo W.D.Mcelroy và cs
[12])


Hình 7: Di sinh trong bộ Thú ăn sâu bọ
+ Các dạng ở cạn:
1/ Chuột nhảy (Macroscelides); 2/ Chuột
chù (Sorex) ; 3/ Nhím (Hemiechinus) :
+ Các dạng vừa ở nước vừa ở cạn:
4/ Chuột xạ nước (Heomys); 5/ Chuột
nước (Potamogale); 6/ Chuột hương
(Demuna)
+ Dạng ở hang dưới mặt đất:
7/ Chuột chũi (Talpa); 8/ Chrisochloris ;
Theo S.U.Xtrôganôp, 1957

Hình 8: Thích nghi phóng xạ
1/ Chuột rừng 7/ Cá voi
2/ Cáo 8/ Cá biển
3/ Thỏ rừng 9/ Sóc
4/ Ngựa 10/ Chuột núi
5/ Chuột chũi 11/ Đồi
6/ Chuột chù
3. Sự hình thành loài mới
Loài mới được hình thành dần dần, liên
tục qua nhiều dạng trung gian theo con
đường phân ly tính chất dưới tác dụng
của chọn lọc tự nhiên.
Sự hình thành loài mới chịu tác dụng của
4 nhân tố: biến dị, di truyền, chọn lọc tự
nhiên và phân ly tính chất.
Trong đó (i) Biến bị cung cấp nguyên
liệu cho quá trình chọn lọc; (ii) di truyền
là cơ sở cho sự bảo tồn và tích luỹ biến

dị; (iii) chọn lọc tự nhiên giữ lại những
sinh vật mang biến dị có lợi, đào thải
những sinh vật mang biến dị có hại, kém
thích nghi với điều kiện sống, và (iv)
phân ly tính chất dẫn đến kết quả là hình
thành loài mới.
Mối quan hệ của 4 nhân tố (biến dị, di
truyền, chọn lọc tự nhiên và phân ly tính
chất) là cơ sở để giải thích nguồn gốc
chung của các loài và phương thức hình
thành loài mới.
4. Chiều hướng tiến hoá của sinh giới
Hình 9: Mối quan hệ tiến hoá giữa các
loài động vật có hướng sống trong hiện
tượng phân loại (Theo William
D.McElroy và cs)
Sinh giới tiến hoá theo 3 chiều hướng
chính là (1). Ngày càng đa dạng, phong
phú được biểu hiện số loài ngày càng
nhiều, sự phân hoá nội bộ trong từng
nhóm phân loại ngày càng sâu sắc.
(2).Trình độ tổ chức ngày càng cao thể
hiện trong cơ thể có sự phân hoá về cấu
tạo, sự chuyên hoá về chức phận, đồng
thời tăng cường sự thống nhất giữa các
bộ phận. (3).Thích nghi ngày càng hoàn
thiện: trong mỗi hướng chọn lọc các dạng
ra đời sau thích nghi hợp lý hơn những
dạng ra đời trước.
Trong 3 hướng trên, sự hoàn thiện mức

độ thích nghi với hoàn cảnh sống là
hướng cơ bản nhất chi phối hai hướng
kia.
5. Đánh giá quan niệm của DARWIN
Cống hiến
Darwin đã giải đáp vấn đề nguồn gốc các
loài trên quan điểm duy vật và theo
phương pháp lịch sử. Loài là sản phẩm
của chọn lọc tự nhiên. Các loài biến đổi
theo thời gian và không gian. Mỗi loài có
một lịch sử phát sinh phát triển và diệt
vong trong những điều kiện nhất định.
Các loài ngày nay đều xuất phát từ một
nguồn gốc chung.
Darwin Ch. R. đã giải thích được 4 điểm
còn tồn tại ở trong thuyết tiến hoá của J.
B. Lamarck.
(i)-Vì sao mỗi loài sinh vật đều thích
nghi với hoàn cảnh sống của nó? Vì chọn
lọc tự nhiên đã đào thải những dạng kém
thích nghi. Sự xuất hiện loài mới gắn liền
với sự hình thành đặc điểm thích nghi
mới.
(ii)-Vì sao các loài biến đổi liên tục,
nhưng ngày nay ranh giới giữa các loài
đang tồn tại vẫn khá rõ rệt? Vì chọn lọc
tự nhiên đã đào thải những hướng biến
đổi trung gian.
(iii)-Vì sao các yếu tố ngoại cảnh thay
đổi chậm mà sinh giới lại đa dạng nhanh

chóng? Vì chọn lọc tự nhiên đã tiến hành
theo con đường phân ly, từ một loài ban
đầu có thể hình thành nhiều loài mới.
Tốc độ biến đổi của các loài phụ thuộc
vào cường độ hoạt động của chọn lọc tự
nhiên chứ không phải phụ thuộc vào sự
biến đổi các điều kiện khí hậu địa chất.
(iv)-Vì sao xu hướng chung của sinh giới
là tổ chức ngày càng cao mà ngày nay
bên cạnh các nhóm có tổ chức cao vẫn
song song tồn tại những dạng có tổ chức
thấp? Vì trong những điều kiện nhất
định, sự duy trì trình độ tổ chức ban đầu
hoặc đơn giản hoá tổ chức vẫn đảm bảo
sự thích nghi của loài.
Tồn tại
Darwin chưa đưa ra khái niệm "Loài",
định nghĩa loài là một vấn đề gay go
trong sinh học cho tới ngày nay; chưa
nhận thấy mối liên hệ biện chứng giữa
lượng và chất trong quá trình phát triển.
Darwin cho rằng, sự biến đổi từ loài này
sang loài khác chỉ là sự sai khác về số
lượng, tức là mức độ tích luỹ biến dị.
Xác định sự khác biệt về chất lượng giữa
các loài và những nhân tố đã tạo ra sự sai
khác đó là vấn đề đang được quan tâm
trong học thuyết về loài.
Đóng góp và tồn tại chung trong học
thuyết tiến hoá của DARWIN :

Mặc dầu còn những thiếu sót trên, học
thuyết tiến hoá của Darwin đã là bước
tiến dài so với biến hình luận và tiến hoá
luận trước ông, tạo bước ngoặt quan
trọng trong lịch sử phát triển của sinh
học.
Về biến dị, Darwin đưa ra khái niệm biến
dị cá thể, và cho rằng tác dụng trực tiếp
của ngoại cảnh hay tập quán hoạt động
của động vật chỉ gây ra những biến đổi
đồng loạt, theo hướng xác định tương
ứng với ngoại cảnh, ít có ý nghĩa trong
tiến hoá và chọn giống. Biến dị (sai dị cá
thể) xuất hiện trong quá trình sinh sản
của từng cá thể riêng rẽ và không theo
một hướng xác định mới là nguồn
nguyên liệu của tiến hoá và chọn giống.
Chọn lọc nhân tạo là quá trình chọn lọc
xảy ra do tác động của con người dựa
trên các biến dị của sinh vật, có thể các
biến dị đó là do nhân tạo hoặc biến dị
phát sinh trong tự nhiên.
Thực chất của quá trình chọn lọc nhân
tạo là sự tích luỹ những biến dị có lợi và
loại bỏ những biến di không có lợi cho
con người.
Động lực của chọn lọc nhân tạo là những
nhu cầu kinh tế và thị hiếu khác nhau của
con người.
Trong chọn lọc nhân tạo, con người khai

thác một đặc điểm có lợi nào đó dẫn tới
kết quả là từ một dạng ban đầu dần dần
phát sinh nhiều dạng mới khác nhau rõ
rệt. Chọn lọc nhân tạo xảy ra trên quy mô
hẹp, thời gian chọn lọc ngắn, hướng chọn
lọc thay đổi thường xuyên. Sự chọn lọc
dẫn tới thay đổi sâu sắc, nhưng không
toàn diện, vì con người chỉ chú trọng tới
lợi ích của mình, và xem nhẹ các đặc
điểm thích ứng của sinh vật trong điều
kiện tự nhiên.
Kết quả của chọn lọc nhân tạo chỉ sáng
tạo được các thứ, các nòi vật nuôi, cây
trồng trong phạm vi một loài, nhưng có
sự đa dạng và phong phú hơn trong tự
nhiên.
Chọn lọc tự nhiên
Nguyên liệu của CLTN là các biến dị cá
thể xuất hiện ngẫu nhiên trong điều kiện
tự nhiên. Tác dụng của CLTN là có thể
tích luỹ các biến dị qua các thế hệ nhờ cơ
chế di truyền và con đường sinh sản.
Thực chất của CLTN là quá trình tích luỹ
những biến dị có lợi cho chính bản thân
sinh vật, đào thải những biến dị không có
lợi, đồng thời bảo tồn những dạng sinh
vật sống sót thích nghi nhất. Động lực
của quá trình CLTN là đấu tranh sinh tồn
biểu hiện ở ba mặt như đấu tranh với
điều kiện thiên nhiên bất lợi, đấu tranh

cùng loài và đấu tranh khác loài. Chọn
lọc tự nhiên xảy ra trên quy mô rộng lớn,
thời gian lịch sử dài, biến đổi toàn diện,
sâu sắc, và dẫn tới kết quả là tạo ra các
loài mới từ một dạng tổ tiên hoang dại
ban đầu. Ch. R. Darwin quan niệm loài
mới được hình thành dần dần qua nhiều
dạng trung gian, dưới tác dụng của chọn
lọc tự nhiên, theo con đường phân ly tính
trạng.
Chọn lọc tự nhiên tác động trên các đặc
tính biến dị, di truyền là nhân tố chính
trong quá trình hình thành đặc điểm thích
nghi trên cơ thể sinh vật. Thành công của
Darwin thể hiện trong lý thuyết chọn lọc
tự nhiên là đã giải thích được sự hình
thành đặc điểm thích và tính tương đối
của các đặc điểm thích nghi của sinh vật
với ngoại cảnh. Xây dựng luận điểm về
nguồn gốc thống nhất của các loài, chứng
minh toàn bộ sinh giới ngày nay là kết
quả của quá trình tiến hoá từ một nguồn
gốc chung.
Hạn chế trong quan niệm của Darwin là
chưa hiểu rõ nguyên nhân phát sinh biến
dị và cơ chế di truyền các biến dị.

×