Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Âm dương và Châm cứu docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.64 KB, 5 trang )

Âm dương và Châm cứu


A Âm Dương và Kinh Lạc
a) Theo Nguyên Tắc Thăng Giáng
Theo nguyên tắc : "Âm thăng, Dương giáng" (âm đi lên, dương đi xuống).
Đứng thẳng, giơ tay lên trời ta có :
- Các kinh âm ở tay, đi lên, tức đi từ vùng nách, ngực lên ngón tay (theo
chiều ly tâm). Các kinh Dương ở tay, đi xuống, tức từ các ngón tay đi vào ngực,
nách (theo chiều hướng tâm).
- Các kinh âm ở chân, đi lên, tức từ các ngón chân đi lên đầu mặt (theo
chiều hướng tâm). Các kinh dương ở chân đi xuống, tức từ đầu mặt đi xuống chân
(theo chiều ly tâm).
Cần ghi nhớ hướng đi của các đường kinh vì rất cần thiết trong việc áp
dụng nguyên tắc Bổ tả trong châm cứu.

b) Theo Nguyên Tắc Trong Ngoài
Âm trong, dương ngoài thì : Các kinh ở phía trong chân, tay thuộc âm(Phế,
Tâm, Tâm bào, Thận, Can, Tỳ). Các kinh ở phía ngoài chân tay thuộc dương (Đại
trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang, Đởm, Vị).
Ngoài ra, Bụng thuộc Âm nên Nhâm mạch thuộc âm.
Lưng thuộc dương nên Đốc mạch thuộc Dương.

B. Âm Dương Và Huyệt

Để phân biệt huyệt vị theo âm dương, có thể theo 1 số nguyên tắc sau :

a) Bên trái là dương, bên phải là âm : do đó, các huyệt bên trái mang đặc
tính dương (hưng phấn) gọi là Dương huyệt. Các huyệt bên phải mang đặc tính âm
(ức chế) gọi là âm huyệt. Việc phân biệt âm huyệt, dương huyệt có giá trị rất lớn
trong việc chọn huyệt điều trị cho thích hợp.


Thí dụ : Bệnh về Phế.
- Người bệnh đi nắng về, sốt, chảy máu mũi (máu cam). Biện chứng bệnh
như sau : Đi nắng về sốt là bệnh cấp tính, thực chứng. Mũi chảy máu là do Hỏa
khí của Phế vượng (Mũi có liên hệ đến Phế vì Nội Kinh ghi : Phế khai khiếu ở
mũi, Máu màu đỏ, thuộc Hỏa). Đây là thực chứng, áp dụng nguyên tắc. "Thực tắc
tả", do đó, cần tả Hỏa của Phế, tức tả Dương hỏa huyệt của Phế là huyệt Ngư tế
bên trái (Ngư tế là hỏa huyệt của Kinh Phế, bên trái thuộc Dương).
Người bị bệnh lao phổi lâu năm, ho ra máu. Biện chứng bệnh như sau :
Bệnh lâu năm thuộc Hư chứng. Ho ra máu là hỏa của Phế vượng (vì tiếng ho là
tiếng của Phế, máu màu đỏ thuộc hỏa). Vì đây là bệnh lâu ngày, hư chứng do âm
hỏa suy, không ức chế được dương kiến dương hỏa bùng lên. Áp dụng nguyên tắc
"Hư tắc bổ" cần bổ Âm hỏa huyệt của Phế tức là huyệt Ngư tế bên phải (Ngư tế là
hỏa huyệt của kinh Phế, bên phải thuộc âm).

Cũng bệnh về phế, cũng huyệt Ngư tế mà trường hợp thứ nhất dùng huyệt ở
bên trái, trường hợp 2 lại dùng huyệt bên phải. Nếu không phân biệt được âm
dương của huyệt sẽ không bao giờ sử dụng huyệt 1 cách chính xác được
.
b) Các huyệt của kinh âm (mặt trong chân tay) thuộc âm, các huyệt của
kinh dương (mặt ngoài chân tay) thuộc dương.

c) Các huyệt thuộc Nhâm mạch (đường giữa bụng) thuộc âm. Các huyệt
thuộc Đốc mạch (đường giữa sống lưng) thuộc dương.

d) Những huyệt nào không nằm vào các đường kinh âm hoặc dương có thể
dựa vào vị trí hoặc tác dụng của huyệt để xác định đặc tính âm dương cho huyệt
đó :

Thí dụ : Huyệt Ấn đường, khi kích thích, tiết ra chất Endorphin, làm giảm
đau (có tác dụng ức chế) do đó, mang đặc tính âm





×