Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Kê hoạch truyền thông văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.86 KB, 47 trang )

MỤC LỤC

I. Bối cảnh........................................................................................................1
1. Phân tích đối tượng.......................................................................................1
1.1. Về văn hóa Việt Nam.................................................................................1
1.2. Con người Việt Nam................................................................................15
1.3. Đất nước Việt Nam:..................................................................................25
II. Thơng tin chung về dự án và chu trình truyền thơng...........................33
1. Tên chường trình.........................................................................................33
2. Mục tiêu chương trình.................................................................................33
3. Đối tượng truyền thông:..............................................................................33
4. Thời gian dự kiến:.......................................................................................33
5. Thông điệp:..................................................................................................33
6. Lựa chọn kênh truyền thông:.......................................................................34
7. Tài liệu.........................................................................................................34
III. Hoạt động cụ thể.....................................................................................42
IV. Nguồn lực.................................................................................................43
V. Kế hoạch giám sát.....................................................................................44

1


I. Bối cảnh
1. Phân tích đối tượng
1.1. Về văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác
nhau:
 Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa
của người Việt, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn
minh của người Việt.
 Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là tồn bộ văn hóa các dân tộc


Việt Nam cư trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người,
khơng có văn hóa dân tộc/quốc gia.
 Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân
tộc/quốc gia, đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc
thái văn hóa tộc người. Khái niệm dân tộc/quốc gia chỉ một quốc gia có chủ
quyền, trong đó phần lớn cơng dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên
một dân tộc. Quan niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số
đông bởi các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa Việt
Nam, vì vậy nội dung về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày theo quan niệm
thứ ba, văn hóa Việt Nam theo hướng văn hóa dân tộc
Đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên
cơ sở đa sắc thái văn hóa tộc người được thể hiện ở ba đặc trưng chính:
 Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa
dạng trên tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có
những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa
sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan
dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong

2


giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn
học, nghệ thuật.
 Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân
bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hố có những nét đặc trưng riêng
tại Việt Nam. Từ cái nơi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông
Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa Kinh Kỳ, văn hóa làng xã và
văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây
bắc và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời dựng nước

ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam
Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các
tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người
ở Tây Nguyên.
 Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người
Việt cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa
của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngồi
trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung
Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương
Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay
đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng
cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam
hiện đại.
Một số yếu tố thường được coi là đặc trưng của văn hóa Việt Nam khi
nhìn nhận từ bên ngồi bao gồm tơn kính tổ tiên, tơn trọng các giá trị cộng
đồng và gia đình, thủ cơng mỹ nghệ, lao động cần cù và hiếu học. Phương
Tây cũng cho rằng những biểu tượng quan trọng trong văn hóa Việt Nam bao
gồm rồng, rùa, hoa sen và tre.
Tổ chức xã hội

3


Từ ngàn năm nay, hai đơn vị xã hội quan trọng nhất trong văn hóa
là Làng (thơn) và Nước (quốc gia). Tục ngữ Việt Nam có câu "Làng đi đơi
với nước". Các đơn vị tổ chức trung gian là Huyện và Tỉnh.
Quan hệ họ hàng đóng một vai trị quan trọng ở Việt Nam. Không
giống như sự nhấn mạnh cá nhân của văn hóa phương Tây, văn hóa Phương
Đơng đánh giá cao vai trị của gia đình và tinh chất gia tộc. Trong văn hóa
phương Đơng (đặc biệt là vịng Văn hóa chữ Hán), văn hóa Trung Quốc coi

trọng giá trị gia đình hơn gia tộc, trong khi ở văn hóa Việt Nam đặt gia tộc cao
hơn gia đình. Gia tộc ln có một tộc trưởng, bàn thờ gia tộc (nhà thờ họ),
và đám tang người Việt ln có sự tham gia của cả gia tộc.
Trước đây hầu hết các cư dân ở một địa phương có quan hệ huyết
thống. Điều đó thực tế vẫn cịn thấy trong tên làng như Đặng Xá (nơi có
người họ Đặng là chủ yếu), Châu Xá, Lê Xá... Ở vùng Tây Nguyên truyền
thống nhiều gia đình trong một gia tộc cư trú trong một nhà dài vẫn cịn phổ
biến. Ở nơng thơn Việt Nam ngày nay, ta vẫn có thể thấy ba hay bốn thế hệ
sống dưới một mái nhà.
Bởi vì mối quan hệ họ hàng có vai trị quan trọng trong xã hội, nên tồn
tại một hệ thống phân cấp phức tạp các mối quan hệ. Trong xã hội Việt Nam,
có chín thế hệ khác nhau. Người trẻ tuổi có thể có một vị trí cao hơn trong hệ
thống phân cấp của gia đình hơn và vẫn phải được tơn trọng như một người lớn
tuổi. Ví dụ, nếu cha mẹ, của một đứa trẻ lớn tuổi, có một người anh/chị lớn tuổi
có con trẻ hơn so với con mình, thì con họ sẽ ở vị trí thấp hơn trong gia đình.
Nói cách khác, bạn phải đối xử với người anh em họ của bạn trẻ tuổi như một
người lớn tuổi, nếu cha của bạn là em trai của bố người anh em họ đó.
Hệ thống phức tạp của các mối quan hệ, là kết quả của cả Nho giáo và
các chuẩn mực xã hội được chuyển tải thông qua việc sử dụng rộng rãi của
các đại từ khác nhau trong tiếng Việt, trong đó có một mảng rộng lớn của sự
kính trọng để biểu thị trạng thái của người nói liên quan đến những người mà

4


họ đang nói chuyện đến. Xưng hơ trong tiếng Việt đã trở thành đặc trưng của
văn hóa Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam theo quan điểm dân tộc học
Tín ngưỡng


Tín ngưỡng thờ bà Ponagar/Thiên Y A Na được cả người Chăm và người
Việt thờ tại Nha Trang

Cụ già mặc áo dài the cúng Tất Niên nhân dịp Tết Nguyên Đán
Như mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam
đã thờ rất nhiều thần linh. Các dân tộc thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu
hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích
được vào thời đó. Ngày nay nhờ những nghiên cứu, những lễ hội, những phong
tục hiện hữu chúng ta biết nhiều hơn về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần
của các dân tộc Việt Nam cổ nói chung và tín ngưỡng của họ nói riêng[3]
Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất
nhiều thần, nguyên thủy họ thờ thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần
Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,...những vị thần gắn với những ước mơ
5


thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hằng
ngày họ thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô
với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ các vị thần gắn với đời
sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần của
họ. người Việt thờ các thần Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần
trongđạo mẫu. Họ là các vị thần có cơng lớn với đất nước, với làng xã, dân
chúng thờ phụng các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ
họ. Cũng như người Việt, người Hoa thờ các vị thần Quan Công, Thần
Tài. Người Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po Rome,...
Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của
người Việt và một số dân tộc khác. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên
cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên gia đình nào cũng có
bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngồi các
ngày giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như một hình

thức thơng báo với tổ tiên ơng bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều
biết tới một ngày giỗ tổ chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng
Vương vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)
Tôn giáo
Trên danh nghĩa, các tôn giáo ở Việt Nam gồm: Phật giáo Đại
thừa, Khổng giáo và Đạo giáo (được gọi là "Tam giáo"). Có một số tơn giáo
khác như Cơng giáo Rơma, Cao Đài và Hịa Hảo. Những nhóm tơn giáo có ít
tín đồ hơn khác gồm Phật giáo Tiểu thừa, Tin Lành và Hồi giáo.
Phần đông đa số người dân Việt Nam xem họ là nhưng người khơng có
tín ngưỡng, mặc dù họ cũng có đi đến các địa điểm tôn giáo vài lần trong một
năm. Người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tơn giáo, các tôn giáo
thường được tập trung ở mặt thờ cúng, mặt giáo lý ít được quan tâm.
Với sự biến động của lịch sử các dân tộc tại Việt Nam, trải qua hơn 10
thế kỷ Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói chung của người dân Việt Nam bị

6


ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa. Với ba hệ tư tưởng Tam giáo đã
thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn giáo của người Việt Nam
là Đạo giáo, Nho giáovà Phật giáo. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ
Trung Quốc và thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên
qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái đã du nhập vào Việt
Nam bằng hai ngả khác nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc
cùng với Đạo giáo và Nho giáo. Còn phái Tiểu thừa qua các nước Đông Nam
Á láng giềng vào Việt Nam thịnh hành ở cộng đồng người Khmer ở Đồng
bằng sơng Cửu Long.

Tín đồ đạo Cao Đài ở Tây Ninh

Tam giáo có những thời kỳ phát triển rất mạnh và cũng có lúc mờ nhạt
tại Việt Nam, nhưng nhìn chung ảnh hưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong
các tầng lớp dân chúng, nhất là Phật giáo. Và đến lượt mình, các tầng lớp dân
chúng tại Việt Nam đã tiếp thu các tôn giáo mới một cách có chọn lọc và sáng
tạo, hay nói cách khác các tơn giáo mới du nhập đã được bản địa hoá để phù
hợp với phong tục tập qn và tín ngưỡng của người dân địa phương.
Cơng giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16, tuy việc truyền
đạo lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn nhưng ở Việt Nam từ lúc đầu cũng đã có
một số lượng người theo Công giáo, từ cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đã
xâm lược hoàn toàn Việt Nam thì việc truyền đạo mới được tự do dễ dàng.
7


Hiện nay Việt Nam có khoảng 8% dân số là tín đồ Cơng giáo, đứng hàng thứ
2 ở Đơng Nam Á sau Philippines.
Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ đốc là Tin
Lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, đạo Tin Lành được phổ
biến tới các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Ngun,...ước tính hiện nay
có khoảng hơn 1 triệu người theo đạo.
Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du
nhập vào từ thế kỷ 15 tại vương quốc Chăm Pa ở miền Trung Việt Nam, sau
đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang, Tây
Ninh vào thế kỷ thứ XIX.
Ngồi các tơn giáo du nhập từ bên ngồi trên, tại miền Nam Việt Nam
có các tơn giáo Hồ Hảo và Cao Đài. Đây là hai tơn giáo bản địa Việt Nam,
đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo Cao Đài được sáng lập từ
năm 1926. Hiện nay hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ
và ra cả một số tỉnh ở miền Trung và Tây Nguyên và miền Bắc.
Ngôn ngữ


Một trang Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinumtức
Từ điển Việt-Bồ-La in năm 1651

8


Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam
thành 8 nhóm ngơn ngữ của họ:
 Nhóm Việt-Mường: gồm người Việt, người Mường, người Chứt,
người Thổ
 Nhóm Tày-Thái: gồm người Tày, Thái, Nùng, Bố Y, Sán Chay,
Lào,...
 Nhóm Dao-Hmơng: gồm người Hmơng, Dao, Pà Thẻn,...
 Nhóm Tạng-Miến: gồm người Hà Nhì, Lơ Lơ, Si La, La Hủ,...
 Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái,...
 Nhóm Mơn-Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba
Na, Khơ Mú, Cơ Ho, Mạ, Xinh Mun,...
 Nhóm Mã Lai-Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai,
Chu Ru,...
 Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao,...
Tiếng Việt thuộc về ngơn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngơn ngữ chính
thức của nước Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của người Việtvà đồng thời là ngơn
ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, tiếng Việt
được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt
nhưng nó có sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn
tớiphương ngữ tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác
nhau từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam
Về nguồn gốc, tiếng Việt được xem là có nguồn gốc với ngôn ngữ
Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngơn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu.
Trong q trình phát triển Tiếng Việt đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán

và được gọi là từ Hán-Việt, ngoài ra tiếng Việt còn tiếp thu một số lượng khá
lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ
20 đến nay

9


Về chữ viết, theo một số nghiên cứu khảo cổ, từ thời Hùng
Vương người Việt đã có chữ viết riêng gọi là chữ Khoa Đẩu mà người Trung
Quốc miêu tả là giống đàn nòng nọc đang bơi. Tới thời Bắc thuộc, chữ Hán là
chữ viết chính thức ở Việt Nam. Sau khi dành độc lập từ thế kỷ 10, với ý thức
dân tộc cũng như các từ vựng khơng có trong chữ Hán, người Việt đã sáng tạo
ra chữ Nôm dùng song hành với chữ Hán. chữ Nơm được hồn chỉnh vào thế
kỷ 12 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 18. Tuy nhiên chữ Nôm chỉ được dùng
trong lĩnh vực văn chương, cịn trong hành chính thì vẫn dùng chữ Hán
Từ thế kỷ 17, khi các nhà truyền giáo phương Tây vào Việt Nam truyền
đạo Công giáo đã dựa trên ký tự Latinh để chuyển âm tiếng Việt sang chữ
Lalinh và đây là cơ sở cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ hiện nay của Việt
Nam. Mặc dù chữ quốc ngữ đã có từ thế kỷ 17 nhưng phải tới đầu thế kỷ 20
khi người Pháp đô hộ hồn tồn Việt Nam thì họ mới cho phổ biến chữ Quốc
ngữ làm thành một công cụ giao tiếp thuận lợi trong xã hội Việt Nam
Ngoài chữ Quốc ngữ là chữ viết chung của người Việt và của Việt
Nam, một số dân tộc khác cũng sử dụng song hành chữ viết của dân tộc mình
như chữ Khmercủa người Khmer ở Nam Bộ, chữ Akhar Thrah của người
Chăm, chữ Thái của người Thái ở vùng Tây bắc, chữ Mnông của người
Mnơng ở Tây Ngun,...nhằm gìn giữ văn hố của dân tộc mình cũng như
tiếp nhận các tri thức mới từ chữ quốc ngữ dịch sang. Theo thống kê hiện nay
có 26 dân tộc thiểu số tại Việt Nam có chữ viết riêng của mình ngồi chữ
Quốc ngữ
Tính truyền thống qua phong tục tập quán

Phong tục
Đám cưới của người Ê Đê ở Đắk Lắk, một phong tục ít nhiều ảnh
hưởng từ đám cưới của người Việt

10


Đám cưới trên đường quê
Theo nghĩa Hán-Việt, Phong là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và Tục là
thói quen lâu đời. Phong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn
năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân có sức
mạnh hơn cả những đạo luật. Theo sự thăng trầm của lịch sử của dân tộc,
phong tục của người Việt Nam cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến
đổi văn hố xã hội. Tuy nhiên có những phong tục mất đi những cũng có
nhưng phong tục khẳng định được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó qua
việc những phong tục đó cịn hiện hữu trong cuộc sống ngày nay của người
Việt Nam
Sớm nhất được nhắc đến trong lịch sử là tục ăn trầu có từ thời Hùng
Vương trải qua hàng nghìn năm người Việt cùng một số dân tộc khác vẫn giữ
được tập tục này trong cuộc sống ngày nay, tục ăn trầu bắt nguồn từ truyện sự
tích Trầu Cau để rồi thành biểu tượng cho tình anh em, vợ chồng của người
Việt, theo thời gian ý nghĩa của tục ăn trầu được mở rộng sang việc giao hiếu,
kết thân của người Việt Nam.
Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay
còn gọi là Tết, Tết vừa là một phong tục đồng thời cũng là một tín ngưỡng và
cũng là một lễ hội của người Việt cùng một số dân tộc khác. Một số dân tộc
khác đón năm mới trong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình
như Chol Chnam Thmay (khoảng tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng
tháng 10) của người Chăm Bàlamôm,...Từ Tết Nguyên Đán đón năm mới,
11



theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, người Việt Nam bổ sung
thêm vào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết Hàn thực, Tết
Đoan ngọ, Tết Trung thu, Tết Thanh minh.
Không thấy nhắc đến sớm trong sử sách nhưng các phong tục hôn
nhân, sinh đẻ, tang lễ, cũng đã song hành với người Việt Nam từ xa xưa và
đến ngày nay vẫn là những phong tục gắn liền với đời sống người Việt Nam.
Ẩm thực
Ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu
hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những
món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng khơng
thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà
thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng
những nguyên liệu dai, giịn thưởng thức rất thú vị dù khơng thực sự bổ béo.
Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm
thực Việt Nam là sự trung dung trong cách pha trộn nguyên liệu không
quá cay, quá ngọthay quá béo. Các nguyên liệu phụ (gia vị) để chế biến món
ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm, gia vị thực vật, quả
hoặc lá non; các gia vị lên men và các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông
Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau
và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển".
Số lượng món ăn và cách thức kết hợp thực phẩm trong món ăn Việt
Nam là vơ cùng đa dạng do có sự kết hợp Đơng Tây, ẩm thực Trung Hoa và
ẩm thực các nước Đông Nam Á, đặc biệt là sự sáng tạo của người Việt để bản
địa hóa và tìm ra những phương thức thích hợp nhất. Có những món ăn khơng
hề thay đổi trong hàng nghìn năm qua. (Danh sách các món ăn Việt Nam)
Năm 2015, CNN đã công bố Top 8 nền ẩm thực mới nổi có sức lan tỏa
nhất thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên việc thịnh hành ẩm thực
phương Tây nhất là ở các đô thị, trong một bộ phận dân chúng nhất là người


12


giàu và sính ngoại đe dọa đến bản sắc ẩm thực Việt Nam, và cả nông sản Việt
Nam.
Trang phục

Phụ nữ trong bộ áo dàiđược cải tiến mang tính thời trang hiện đại
Trang phục Việt Nam rất đa dạng. Ở thời phong kiến, người ta có những
quy định rất khắt khe về cách ăn mặc. Dân thường không được phép mặc đồ
nhuộm bất kì màu nào khác ngồi những màu đen, nâu hay trắng. Quần áo của
người dân hầu hết là tầm thường và đơn sơ, để hợp với thân phận của mình
trong xã hội (ngồi những dịp lễ quan trọng hoặc lễ cúng tế, đám cưới...).
Một trong những y phục cổ xưa nhất được người phụ nữ bình dân mặc
cho đến đầu thế kỉ XX là bộ "Áo tứ thân". Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
là "Áo tứ thân" có thể đã ra đời từ thế kỷ 12.Trong đời sống thường nhật ngày
nay, trang phục đã theo phong cách phương tây. Những bộ quần áo truyền
thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt.
Ngoài ra, áo dài cho cả nam lẫn nữ được coi như quốc phục của Việt
Nam.

13


Lễ hội

Trò chơi Bịt mắt bắt Dê của người Việt tại Hội Lim, Bắc Ninh
Cũng giống như nhiều nước khác, Việt Nam là một nước có nhiều lễ
hội dân gian là hình thức sinh hoạt của cộng đồng. Trong lễ hội, các lễ nghi

tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ và hình thức sinh hoạt của một
cộng đồng đã được tái hiện một cách rất sinh động. Lễ hội được tổ chức vào
những thời điểm khác nhau trong một năm, tuỳ thuộc vào phong tục tập quán
của từng dân tộc, nhưng lễ hội vẫn tập trung nhiều nhất vào mùa Xuân
Việt Nam có nhiều loại lễ hội lớn và long trọng như lễ tế các thần linh,
các lễ hội nhằm tưởng nhớ tới công ơn tổ tiên, nịi giống như hội Đền Hùng,
có những lễ hội tưởng nhớ tới các anh hùng như hội Đền Mẫu Đợi, hội
Gióng, hội Đền Kiếp Bạc,hội Đống Đa, có những lễ hội tưởng nhớ người có
cơng mở mang bờ cõi, các ông tổ các ngành nghề,...của người Việt. Bên cạnh
các lễ hội lớn của người Việt, các dân tộc khác cũng có những lễ hội lớn
như lễ hội Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của người Khmer, lễ hội
xuống Đồng của người Tày, người Nùng, Lễ hội hoa ban của người Thái, Hội
đua voi củangười Mnơng,..
Ngồi các lễ hội lớn và long trọng tại Việt Nam từ bắc đến nam cịn có
hàng nghìn lễ hội lớn nhỏ khác nhau của các dân tộc Việt Nam. Các lễ hội ở
Việt Nam rất đa dạng, những lễ hội về nông nghiệp, hội văn nghệ vui chơi, thi

14


tài, hội giao duyên, hội lịch sử,... Đặc biệt là hội mừng năm mới (Tết Nguyên
Đán) của người Việt và một số dân tộc khác
Cùng với các lễ hội dân gian, các lễ hội của các tôn giáo ban đầu chỉ
mang ý nghĩa nội bộ nhưng theo thời gian các lễ hội đó lan sang các tầng lớp
xã hội khác và thành những lễ hội mang tính cộng đồng như lễ Phật đản của
Phật giáo và lễ Noel của Công giáo.
Võ thuật
Võ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái,
bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển trên đất nước Việt Nam, hoặc do người
Việt làm chưởng môn, gây dựng sáng tạo tại ngoại quốc từ xưa đến nay, có

những đặc trưng riêng biệt trong sự đối sánh với các võ phái nước ngồi khác.
Võ thuật Việt Nam có nội hàm khái niệm rộng hơn thuật ngữ võ cổ truyền
Việt Nam (thường biết đến với tên gọi võ Ta phân biệt với võ Tàu) vốn
thường dùng để chỉ những võ phái đã phát triển trong khoảng từ giữa thế kỷ
20 trở về trước trên lãnh thổ Việt Nam, theo đó, võ thuật Việt Nam có thể bao
gồm cả những mơn phái mới sinh thành trong thời điểm hiện tại, và bao quát
cả những võ phái đã phát triển trong suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam.
Các phái võ Việt Nam, hay còn được gọi với tên "Võ thuật Cổ Truyền"
vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế
giới nói chung và Trung Hoa nói riêng:
1. Sự xuất hiện của lời thiệu bằng thơ, phú;
2. Bộ pháp vận hành theo đồ hình bát quái (lưỡng túc bát quái vi căn),
khi đứng thì vững như đá tảng, khi di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá
bay;
3. Bộ tay áp dụng theo ngũ hành pháp (song thủ ngũ hành vi bản);
4. Kỹ thuật đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách
đánh của từng dạng đối tượng, địa hình, nhất là lối đánh cận chiến một người
chống lại nhiều người;

15


5. Tận dụng triệt để lối đánh "cộng lực" - dựa vào sức lực đối phương
để triệt hạ đối phương.
1.2. Con người Việt Nam
Lịch sử nghiên cứu
Trước thế kỷ 20
Trong sách "Đại Việt sử ký tồn thư" đã có ghi chép về đặc điểm tính
cách của người Việt. Đến thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh; các thương nhân
phương Tây, giáo sĩ truyền đạo cơ đốc đã bắt đầu ghi chép về tính cách con

người Việt. Đơn cử như trong sách Xứ đàng trong năm 1621 của tác giả người
Ý Cristoforo Borri; ơng đã có lời nhận xét và miêu tả về tính khí con người
xứ Đàng Trong.
Tới thời nhà Nguyễn, các sách do triều đình biên soạn "Đại Nam thực
lục", và "Việt sử thơng giám cương mục" cũng có ghi chép về đặc điểm tính
cách của người Việt.
Thời Pháp thuộc
Nghiên cứu về đặc điểm tính cách thói quen của người Việt đã được
các học giả phương Tây, đặc biệt là Pháp thực hiện từ khi thực dân Pháp bảo
hộ An Nam. Tự phán và tự trào tính cách của dân tộc thì phải nói đến một
nhân vật nổi danh trên trường văn học và báo chí là Nguyễn Văn Vĩnh (18821936) ở đầu thế kỷ 20. Khi còn bỉnh bút cho tờ báo quốc ngữ ra đời sớm nhất
ở Bắc Kỳ "Đăng cổ tùng báo" (1907) Nguyễn Văn Vĩnh dưới bút danh giả nữ
là Đào Thị Loan đã viết những bài phê phán mạnh mẽ những thói hư tật xấu
như tục đốt vàng mã, thói hư danh, nạn cờ bạc... Đến khi trở thành chủ bút tờ
"Đơng Dương Tạp chí" trong hai năm 1913 và 1914, ông mở một chuyên mục
mang tên là "Xét tật mình" lấy cảm hứng từ một câu của văn hào Pháp Emile
Zola: "Nói hết, để biết hết, để chữa hết" (Tout dire pour tout connaitre, pour
tout guérir) và giải thích thêm rằng: "Các nết xấu, các hủ tục của người Việt
Nam ta, cần nói hết ra, đừng có giấu giếm, ai cũng biết thì mới sửa được.
16


Luân lý là phải dạy người ta biết gốc rễ điều ác để tự nguyện tránh, mầm
mống điều thiện để tự giác làm điều thiện".
Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ văn
hóa được thể hiện trong các cơng trình nghiên cứu như "Việt Nam phong tục"
(1915) của Phan Kế Bính, "Việt Nam văn hóa sử cương" (1938) của Đào Duy
Anh, "Văn minh nước Nam" (1944) của Nguyễn Văn Huyên, Nhất Thanh Vũ
Văn Khiếu trong cuốn Ðất Lề Quê Thói (Phong Tục Việt Nam) cũng có
những nhận xét về tính cách và phong tục người Việt…

1945 - hiện nay
Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ khoa học
lịch sử có cơng trình "Xã thơn Việt Nam" (1959) và "Tìm hiểu tính cách dân
tộc" (1963) củaNguyễn Hồng Phong.
Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ tâm lý học
có các cơng trình nghiên cứu của Đỗ Long, Vũ Dũng, Phạm Minh Hạc như
"Những nghiên cứu tâm lý học" (2007) của Đỗ Long, "Tâm lý người Việt
Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Những điều cần khắc phục"
(2004) của tập thể tác giả hội viênHội khoa học Tâm lý - Giáo dục học Việt
Nam do Phạm Minh Hạc chủ biên.
Tiếp cận giá trị truyền thống của dân tộc và nghiên cứu tính cách của
con người Việt Nam dưới góc độ giá trị học có tác phẩm "Về giá trị và giá trị
châu Á" (2005) của Hồ Sỹ Quý, "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam" (1980) của Trần Văn Giàu.
Nghiên cứu văn hóa Việt Nam có "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam"
(1996), của Trần Ngọc Thêm, "Việt Nam - văn hóa và con người" của Nguyễn
Đắc Hưng.
Tính cách của con người Việt Nam còn là đề tài của nhiều bài viết trên
các báo và tạp chí.

17


Về nhược điểm của người Việt, ở ngoài Việt Nam, gần đây có cuốn "Tổ
Quốc Ăn Năn" (2001) của ơng Nguyễn Gia Kiểng và cuốn "Văn Hóa trì trệ
nhìn từ Hà Nội Đầu Thế Kỷ 21" (2001) của Lê Thị Huệ nêu lên nhiều khuyết
điểm của người Việt. Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn có một cuốn
sách nhan đề "Người Việt xấu xí" nói về thói quen và tính xấu của người Việt.
[10]


Nhà xuất bản Thanh niên cũng xuất bản sách "Người Việt - Phẩm chất và

thói hư tật xấu" (2009) của nhiều tác giả.
Những ưu điểm
Đánh giá chung
Một số tác giả cho rằng con người Việt Nam có những nét tính cách
truyền thống như lịng u nước, tinh thần đồn kết, coi trọng tình nghĩa, cần
cù, hiếu học đã tạo nên lịch sử đặc trưng của Việt Nam.
Trong tính cách nói chung của con người Việt Nam và trong từng nét
tính cách nói riêng đều ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và cái xấu, giá trị và phản
giá trị.[13] Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt
Nam từ cổ đại đến hiện đại.
Thái độ coi trọng cộng đồng đã trở thành một nét tính cách truyền
thống đặc trưng của con người Việt Nam. [13] Mặc dù tính cộng đồng cao là
một nét tính cách của con người Việt Nam có chứa đựng nhiều giá trị, song
bên cạnh đó cũng có nhiều mặt hạn chế. Cộng đồng được đề cao q mức đã
ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm sự phát triển cá nhân vì cộng đồng
khơng chấp nhận cá nhân đứng ngồi cộng đồng và cá tính không phù hợp với
"Luật bầy đàn" của cộng đồng.
Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, như tinh thần đùm bọc, giúp đỡ và
quan tâm nhau. Theo nhà nghiên cứu Hồ Sỹ Quý, Việc coi trọng tình nghĩa tới
mức thái quá đương nhiên không phải là giá trị tốt trong mọi hồn cảnh. Coi
trọng tình nghĩa tới mức coi thường hiến pháp và pháp luật như "phép vua

18


thua lệ làng", "một trăm cái lý không bằng một tí cái tình" thì khó có thể chấp
nhận được.
Cần cù lao động là một giá trị đạo đức nổi bật. Người Việt Nam được

các dân tộc khác thừa nhận là có tinh thần hiếu học, cộng với bản chất thơng
minh, dễ tiếp thu và một nền giáo dục có truyền thống cả ngàn năm. Người
Việt Nam xem giáo dục cao hơn sự giàu có và thành cơng và là trụ cột của
văn hóa.
Đánh giá theo địa phương
Sách Xứ Đàng Trong năm 1621 của thương gia người Ý Cristoforo
Borri, có ghi chép về đặc tính của người Việt ở Đàng Trong như sau:
1. Dịu dàng và lịch thiệp
2. Trọng khách, giản dị,
3. Đoàn kết, thành thật với nhau
4. Hay chia sẻ, quảng đại
5. u thích và dễ tiếp thu văn hóa nước ngoài
Tác giả Peter G. Bourne trong sách Men, stress, and Vietnam xuất bản
năm 1970 có đánh giá về ưu điểm khiến người miền Bắc chiếm nhiều vị trí
quan trọng trong chính quyền Sài Gịn gồm
1. Làm việc chăm chỉ,
2. Có tính kiên trì,
3. Ln mong muốn vượt lên phía trước.
Theo ơng Mai Thanh Thế, người Việt Nam Bộ có những ưu điểm sau:
1. Tinh thần yêu quê hương đất nước, mà cao nhất là tinh thần yêu nước
rất nổi trội, nhất là trước hoạ ngoại xâm.
2. Bản lĩnh kiên cường, khí phách hiên ngang, dũng cảm, trọng nghĩa
khinh tài, hào hiệp và phóng khống, bình đẳng và ít bảo thủ.
3. Tinh thần dân chủ và cộng đồng cao, khả năng hợp tác cao, có óc
thực tế và thích ứng nhanh.

19


4. Năng động, sáng tạo cao; dám nghĩ dám làm, tài ứng biến, thích rũ

bỏ cái cũ khơng cịn thích hợp với hồn cảnh mới.
5. Tính cá nhân, tính tự do, độc lập tự chủ, ít phụ thuộc trực tiếp, gị bó
vào cộng đồng như những cư dân Bắc-Trung Bộ.
6. Biết tính tốn, dám làm ăn lớn, và mạo hiểm.
7. Cởi mở, bộc trực mà hoà đồng.
8. Sẵn sàng xả thân cứu người vì nghĩa lớn.
9. Cần cù và chịu khó trong lao động sản xuất.
Những nhược điểm
Người Việt có một số nhược điểm đáng chú ý. Những nhược điểm này
làm ảnh hưởng đến sự phát triển của Việt Nam, làm xấu đi hình ảnh của người
Việt nói chung gây nên nhiều hạn chế trong giao lưu kinh tế - văn hóa, nhất
là khi Việt Nam đang trên đường hội nhập sâu hơn với thế giới.
Các đánh giá trước 1945
Đánh giá của Phan Bội Châu
Phan Bội Châu trong Chương thứ năm trong Việt Nam quốc sử
khảo mang tên Sự thịnh suy của dân quyền và dân trí của nước ta.
(…) Vì vậy, giờ đây tơi xin kể những điều tai nghe mắt thấy để quốc
dân cùng biết: Hay nghi kỵ lẫn nhau, khơng làm nên việc gì cả, đó là điều rất
ngu thứ nhất. Tôn sùng những điều xa hoa vơ ích, bỏ bễ những sự nghiệp
đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai. Chỉ biết lợi mình mà khơng biết hợp
quần, đó là điều rất ngu thứ ba. Thương tiếc của riêng, khơng tưởng đến việc
ích chung, đó là điều rất ngu thứ tư. Biết có thân mình nhà mình mà khơng
biết có nước, đó là điều rất ngu thứ năm. Dân được cường thịnh là nhờ có sự
nghiệp cơng ích. Nay những việc đó, người nước ta đều khơng thể làm được.
Hỏi vì sao khơng làm được, thì nói là vì khơng có tiền của. Sở dĩ khơng có
tiền của là vì đã tiêu phí vào những việc vơ ích xa hoa rồi.

20



Đánh giá của Phan Châu Trinh
Trong luận văn Pháp Việt Liên hiệp hậu chi tân Việt Nam Phan Châu
Trinh viết:
(…) Dân tộc nước Nam, trên lịch sử, có hai đặc tính cực đoan phản đối
nhau: một là đặc tính bài ngoại và ỷ ngoại; hai là đặc tính tự tơn và tự ti. Hai
đặc tính đó sẵn ở quốc dân, trong não mọi người. Mỗi cái nhân thời thế, địa
vị của nó mà phát hiện, rồi trong khi phát hiện lại đều đi tới cực đoan, lại khi
đã tới cực đoan, mỗi cái đều giữ lý do, chuyên cậy vào tập quán, lợi hại đều
bị che lấp không thấy.
Đánh giá của Trần Trọng Kim
Học giả Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam Sử Lược đã viết: "Về
đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt có cả các tính tốt và các tính xấu. Ðại
khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ,
nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo
đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy,
vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi qủy quyệt, và hay bài bác chế nhạo.
Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn có sự hịa bình, nhưng mà đã đi
trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.".
Đánh giá của các tác giả khác
Nguyễn Văn Vĩnh đã bàn đến nhiều thói hư tật xấu thường thấy ở
người nước ta như tính ỷ lại, tính ăn gian nói dối, thói ăn uống thành nợ
miệng, tính bán tín bán nghi, thói đồng bóng, tính vay mượn kém sáng tạo,
tính cơ hội đục nước béo cị, thói "gì cũng cười", tệ cờ bạc...
Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong cuốn Ðất Lề Quê Thói (Phong Tục
Việt Nam) cũng nhận xét rằng: "Người mình phần đơng thường ranh vặt, quỷ
quyệt, bộ tịch lễ phép mà hay khinh khi nhạo báng. Tâm địa nơng nổi, khốc
lác, hiếu danh...".

21



Thi sĩ Tản Đà trong bài thơ Mậu Thìn xuân cảm viết năm 1932 đã
nhận xét về xã hội Việt Nam:
Dân hai nhăm triệu ai người lớn ?
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Cuốn "Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (đã từng bị cấm lưu hành tại Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 cũng như tại Việt Nam thống nhất
cho đến năm 1986) nêu bật khá rõ các thói hư tật xấu của người Việt.
Từ bên ngồi
Sách Xứ Đàng Trong năm 1621 của thương gia người Ý Cristoforo
Borri, ông có nhận xét về khuyết điểm của người Việt ở Đàng Trong như sau:
1. Nóng tính
2. Hay xin những thứ mình thấy đẹp (dù người có khơng muốn cho)
Trong bài viết về người An Nam trong bách khoa toàn thư của
Encyclopædia Britannica xuất bản năm 1911 đã từng viết:
Mặc dù thích nhàn hạ nhưng người An Nam chăm chỉ hơn những dân
tộc láng giềng...Họ tỏ ra kính trọng bề trên và cha mẹ, nhưng họ không chân
thật và không có cảm xúc mạnh. Họ yêu quê hương, xóm làng, và khơng thể ở
xa nhà lâu ngày. Những thói hư của họ gồm có cờ bạc, hút thuốc phiện, một
chút kiêu căng và giả dối. Nhìn chung thì họ hồ nhã, dễ chịu, và thậm chí là
thờ ơ, nhưng đáng nói là họ có thể học rất dễ dàng.
Các đánh giá từ 1945 trở về sau
Đánh giá của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cũng có những tác phẩm cảnh báo về những thói hư tật
xấu trong tầng lớp cán bộ như Sửa đổi lối làm việc (1947). Theo ông, Cha đẻ
của mọi thứ khuyết điểm là chủ nghĩa cá nhân. Bệnh tham lam, lười biếng, ba
hoa, bè phái, địa phương chủ nghĩa, ham danh vị, quân phiệt, quan liêu, xa rời
quần chúng, hẹp hịi, chuộng hình thức, lối làm việc bàn giấy, vơ kỷ luật, ích
kỷ, hủ hóa và nhiều đức tính xấu khác đều từ đó mà ra.


22


Đánh giá của Trần Ngọc Thêm
Theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm trong tác phẩm "Tìm về bản sắc văn
hóa Việt Nam", ông chỉ ra rằng đối với người Việt, khi đứng trước những khó
khăn lớn, những nguy cơ đe dọa sự sống cịn của cả cộng đồng thì cái nổi lên
sẽ là tinh đồn kết và tính tập thể; nhưng khi nguy cơ ấy qua rồi thì có thể là
thói tư hữu và óc bè phái, địa phương lại nổi lên. Trong giao tiếp, khi thấy
mình đang đứng trong cộng đồng quen thuộc thì tính thích giao tiếp nổi lên,
cịn khi vượt ra khỏi cộng đồng, đứng trước người lạ, thì tính rụt rè sẽ lấn át.
Tính nước đơi của người Việt thường phát huy tác dụng tốt trong những hồn
cảnh cực kỳ khó khăn, một mất một cịn (điển hình là trong chiến tranh), cịn
trong xây dựng hịa bình, trong tiến trình cơng nghiệp hóa và đơ thị hố thì
đáng tiếc là thường mặt trái của tính nước đơi này lại nổi trội.
Người Việt thì có triết lý vừa phải, "lắm thóc nhọc xay", "cầu sung vừa
đủ xài" lại vừa khơng có thói quen coi trọng thời gian, coi thời giờ là "cao su",
[34]

bởi vậy mà khơng có chí làm giàu. Chỉ khi thấy mình thua kém người xung

quanh quá nhiều thì mới cố gắng, nhưng ngay khi thấy mình đã như mọi
người rồi thì lại làm việc cầm chừng. Tác phong làm việc này hồn tồn
khơng thích hợp với nếp sống đơ thị.
Đánh giá của Vương Trí Nhàn
Theo Vương Trí Nhàn nhiều người Việt mang mặc cảm tự ti từ đó sinh
ra tâm lý tự huyễn hoặc "khơng có cái phần hơn hẳn thiên hạ nhưng mình lại
có cái khác". Tâm lý và cách tư duy của người Việt mang tính tiểu nơng;
người Việt cịn có một thói xấu là thiếu chính xác trong mọi thứ, thiếu khoa
học, thiếu nghiên cứu, sống rất bộc phát hồn nhiên. Người Việt cịn tùy tiện,

thiếu khả năng hợp tác, ít có khả năng đặt mình vào vị trí người khác, kiêu
ngạo, "thấy mình là trung tâm". Người Việt cũng thiếu kinh nghiệm quan hệ
với thế giới bên ngoài, quen sống co lại, ít có khao khát ra thế giới, tìm hiểu

23


thế giới. Tuy nhiên người Việt cũng có ưu điểm là thích nghi nhanh, học
nhanh nhưng hời hợt, dễ dãi chứ khơng phải tiếp nhận ở bề sâu văn hóa.
Người Việt đang làm kinh tế bằng tư duy chiến tranh "bất chấp quy
luật miễn là được việc; chỉ lo hiệu quả, cịn cái giá của nó thì khơng cần
biết". "cái xấu người Việt có rất nhiều và tựu trung lại một đó là sự tham và
gian". Người Việt nặng về bản năng và tự phát, ít lý trí, suy nghĩ, tầm nhìn
của người Việt rất ngắn hạn, chỉ biết trước mắt, hiện tại.
Người Việt nặng óc hư danh, tâm lý mang nhiều ảo tưởng, chỉ thích
được người khác khen. Ngay cả khi người khác chê mình hợp lý, người Việt
cũng thấy khó nghe. Người Việt ít có nhu cầu phản tỉnh, thường quanh co bịa
ra lý do để chống chế vì thế càng khiến sai lầm, thói xấu nhiễm sâu hơn vào
đời sống xã hội.
Sự độc lập cá nhân của người Việt trong tư duy, lối sống, cách hành
xử... chưa cao. Tất cả những thói xấu này sẽ cản trở sự phát triển của dân tộc
Việt Nam.
Đánh giá của Nguyễn Lân Dũng
Theo Giáo sư Nguyễn Lân Dũng, nhiều người Việt đang tự hạ thấp vị
trí của mình xuống, việc gì cũng phải xin xỏ, cầu cạnh, không dám công khái
tố cáo các hành động sai trái của những người có chức có quyền, biến mình
thành hèn hạ, chịu khuất phục, làm ngơ trước mọi sai trái, mọi diễn biến xấu
trong xã hội do đời sống xã hội thiếu dân chủ khiến cái xấu khơng được chỉ
đích danh.
Ngồi ra cịn có khơng ít người mắc căn bệnh "cuồng địa vị". Điều này

gắn liền với sự thiếu gương mẫu và thoái hoá của quan chức nhà nước các cấp
do bộ máy nhà nước thiếu tin tưởng và ít trọng dụng người tài.
Người Việt chưa hiểu đúng mặt tích cực của kinh tế thị trường, nhưng
lại chịu những ảnh hưởng xấu của kinh tế thị trường. Lòng tham đẩy lùi nhân
cách, làm xấu đi các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đó là sự hiếu danh, sính

24


bằng cấp, đặc biệt là quan chức nhà nước. Nhiều người Việt hiện nay cũng coi
nặng tiền tài hơn giáo dục.
Tóm lại, theo ơng, có 5 tính xấu phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay là:
Ham tiền, hiếu danh, coi thường danh dự, vô cảm và hèn nhát, coi nhẹ ý nghĩa
"đồng bào".
Đánh giá của các tác giả khác
Tác giả Đỗ Kiên Trung nêu ba điểm về mặt không tích cực trong tư duy
người Việt đó là: tầm nhìn ngắn hạn, tư duy đám đông triệt tiêu tư tưởng cá
nhân và sự lên ngơi của kinh nghiệm.
Phó giáo sư Trần Đình Thiên, cho rằng Việt Nam chậm tiến là vì cấu
trúc phát triển quá bền vững dựa trên con trâu, cái cày và con người hơn nữa
phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh cho nên luôn cảnh giác với những
sự đổi mới bên ngồi. Theo ơng người Việt cũng chưa có văn hóa tự chịu
trách nhiệm mà thường "có thói quen qui lỗi ngắn hạn, qui cho ơng nọ, ông
kia, hay cho giai đoạn nọ, giai đoạn kia".
Theo tác giả Nguyễn Thị Lan Phương, người Việt có tư duy sản xuất
nhỏ: tự phát, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nghiêng về tình, yếu về lý, tư duy
kinh tế mang tính thiển cận, thực dụng; tư duy tiểu nơng vốn chỉ phù hợp với
điều kiện sản xuất nông nghiệp nhỏ.
Theo Nguyễn Hồi Loan, tính tơn ti trật tự dịng tộc đã dẫn tới mặt trái:
tính gia trưởng, trọng nam khinh nữ, đặc biệt là tâm lý địa phương, cục bộ.

Nơng dân Việt Nam có thói quen dựa dẫm, ỷ lại tập thể, vào số đơng. Người
Việt cũng có tâm lý cào bằng, đố kỵ, khơng muốn ai hơn mình. Tâm lý sĩ diện
trong đời sống người nông dân dẫn tới tính khoa trương, trọng hình thức.
Người nơng dân sẵn sàng chạy theo các thủ tục nặng nề, nghi lễ tốn kém trong
cưới xin, ma chay, hội lễ... gây đói nghèo cho nhiều người dân. Ngày nay văn
hóa làng xã khơng chỉ ở nơng thơn mà cịn ảnh hưởng tới đời sống đô thị, khiến
đời sống đô thị Việt Nam phảng phất những nét phong cách của nông thôn.

25


×