Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn nâng cao hiệu quả và chất lượng trong các tiết trả bài viết tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.8 KB, 22 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Môn Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong việc đào tạo con người,
bồi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh. Nhà văn Nga lỗi lạc M.Gorơ-ki đã từng viết : “Văn học là nhân học”. Giáo sư Hà Minh Đức cũng từng khẳng
định “Văn học khơng chỉ là một nguồn tri thức mà cịn là nguồn năng lượng tinh
thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức cho con người trong cuộc sống”. Trong bộ
môn Ngữ văn, có thể khẳng định, phân mơn Tập làm văn đóng một vai trị quan
trọng, có tác dụng trong việc rèn luyện kỹ năng nói, viết cho học sinh, có ảnh
hưởng sâu sắc đến việc phát triển tư duy trong q trình học tập khi cịn ngồi trên
ghế nhà trường cũng như trong cuộc sống thực tiễn sau này khi các em cần chuẩn
bị và trình bày ( nói hoặc viết ) bất cứ một vấn đề gì theo yêu cầu của đời sống xã
hội đặt ra. Nói một cách khác, phân mơn Tập làm văn có tính thực hành, tính cơng
cụ và tính thực tiễn rất cao, rất cần thiết cho người học. Chính vì vậy, tiết trả bài
trong phân mơn Tập làm văn có vai trị cực kì quan trọng, nó khơng đơn thuần là
trả bài lấy điểm mà nó phải đạt tới yêu cầu rèn luyện kỹ năng làm văn cho học
sinh. Thông qua việc phân tích những ưu, nhược điểm trong bài làm của học sinh,
giáo viên hướng dẫn học sinh sửa chữa các lỗi mà học sinh mắc phải, qua đó củng
cố và nâng cao kiến thức về thể loại, về từ ngữ, câu ... tạo điều kiện cho học sinh
rèn luyện kỹ năng viết văn ngày càng đúng và hay. Bồi dưỡng cho học sinh lịng
u thích và cao hơn là sự say mê học văn và văn học.
Bài viết là thành quả lao động sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập,
là kết quả của quá trình vận dụng lý thuyết vào thực hành, là sản phẩm ngơn bản
do chính học sinh tạo lập. Vì vậy tiết trả bài Tập làm văn thực sự rất có ý nghĩa đối
với các em. Học sinh mong đến giờ trả bài để được biết giáo viên đã đánh giá chất
lượng bài làm “sản phẩm” của mình đạt ở mức độ nào? Bản thân đã làm được
những gì? Cịn hạn chế ở những mặt nào? Nguyên nhân của những hạn chế đó là
do đâu? Khắc phục những hạn chế đó bằng cách nào để bài viết sau đạt kết quả tốt
hơn?... Điều đó có nghĩa là những điểm số trên bài làm hay những lời nhận xét,
động viên, khen ngợi của giáo viên trong giờ trả bài sẽ làm thay đổi tích cực tinh
thần và thái độ học tập của học sinh. Học sinh mong chờ đến tiết trả bài ngoài việc
muốn biết điểm số còn là để được rút ra những kinh nghiệm trong nhận thức và


hành động nhằm đạt đến sự tiến bộ trong học tập bộ môn Ngữ Văn.
Tiết trả bài Tập làm văn sẽ góp phần giúp học sinh nhận ra được những ưu
điểm, nhược điểm của bản thân về kiến thức và kỹ năng làm bài. Từ bài làm văn
1

skkn


này, học sinh sẽ rút ra cho mình những bài học bổ ích về ý thức trình bày bài,
những lỗi cần sửa, những điều mình cịn thiếu để từ đó chuẩn bị tốt hơn cho bài
làm văn tiếp theo. Và để đáp ứng được yêu cầu đó, khi soạn giảng một tiết trả bài
Tập làm văn, đòi hỏi mỗi giáo viên phải dành nhiều thời gian, tâm huyết, sự chỉn
chu, cẩn thận từ khâu chấm điểm, nhận xét, thống kê chất lượng đến khâu thiết kế
giáo án và cuối cùng là khâu thực hiện việc giảng dạy (trả bài) trên lớp. Việc chấm
bài, trả bài nghiêm túc, có đầu tư sẽ đem lại nhiều hiệu quả tích cực cho cơng việc
dạy học môn Ngữ văn.
Tuy nhiên không phải lúc nào công việc chấm bài và trả bài cũng được giáo
viên quan tâm đúng mức và quy trình thực hiện một tiết trả bài Tập làm văn ở mỗi
giáo viên cũng thường không thống nhất. Kể cả trong các tài liệu chun mơn
cũng có nói đến vấn đề này nhưng mỗi tài liệu lại có những ý kiến khác nhau, ở
các mức độ khác nhau. Có thể nói, tiết trả bài Tập làm văn là thuộc một trong số
những cụm bài khó và để việc soạn giảng thành cơng một tiết trả bài Tập làm văn
phần lớn phụ thuộc vào ý thức, tinh thần trách nhiệm cũng như năng lực, sự sáng
tạo và phương pháp sư phạm của mỗi giáo viên.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, bản thân tơi ln trăn
trở, tìm tịi làm thế nào để chất lượng dạy học trong tiết trả bài Tập làm văn ngày
một tăng lên, để các em học sinh nắm được phương pháp làm văn, có kĩ năng hành
văn tốt và đạt kết quả cao trong các bài viết Tập làm văn. Đây chính lí do khiến tơi
chọn đề tài“Nâng cao hiệu quả và chất lượng trong các tiết trả bài viết Tập làm
văn” làm đề tài nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.

1.2. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Để thực hiện giờ dạy trả bài Tập làm văn như thế nào đạt hiệu quả cao nhất đó là mối quan tâm của rất nhiều giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong
trường THCS và giờ trả bài trở nên có một vị trí rất quan trọng. Đề tài sáng kiến
này đã phân tích, trình bày kĩ càng các bước lên lớp của một tiết trả bài Tập làm
văn; đưa ra được các yêu cầu mà giáo viên, học sinh cần có. Từ đó rèn cho học
sinh kỹ năng kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết của mình. Đây là kỹ năng
quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Học sinh biết tự sửa lỗi cho mình và cho bạn,
tự học tập để luôn luôn tiến bộ. Mỗi tiết Trả bài bây giờ khơng cịn nhàm chán mà
thực sự thu hút, lơi cuốn, kích thích hứng thú học tập của học sinh, nâng cao chất
lượng giờ dạy môn Ngữ Văn. Kết quả đạt được trong quá trình học tập của các em
HS về kiến thức cũng như thái độ đều hứng thú, yêu thích mơn học. Điều đó cho
2

skkn


thấy đề tài đã góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng trong các tiết “ Trả bài
Tập làm văn”. Đây chính là điểm mới của đề tài.
1.3. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài được xây dựng từ việc tích lũy những kinh nghiệm của bản thân trong
khi giảng dạy các tiết trả bài Tập làm văn ở các lớp khối 7.
Đề tài này có thể áp dụng lâu dài và rộng rãi cho giáo viên và học sinh trong
tiết “ Trả bài Tập làm văn” thuộc phân môn Tập làm văn của bộ môn Ngữ văn cấp
THCS.

3

skkn



2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI:
2.1.1. Số liệu thống kê:
Năm học 2019-2020, tôi được Nhà trường phân công giảng dạy môn Ngữ
văn lớp 7. Tôi đã khảo sát thực tế qua việc kiểm tra bài viết Tập làm văn. Kết quả
khảo sát thu được như sau:
Giỏi
Lớp/số lượng

Khá

Trung bình

Yếu
%

SL

%

SL

%

SL

%

SL


71/34

02

6.5

05

16.1

19

61.3

05

16.1

72/37

02

5.4

06

16.2

22


59.5

07

18.9

73/38

03

7.9

06

15.8

23

60.5

06

15.8

Qua bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy kết quả bài viết của học sinh
chưa cao. Bài viết đạt điểm khá, giỏi còn ít, trong khi đó những bài điểm yếu
chiếm số lượng nhiều. Do đó việc tìm hiểu thực trạng vấn đề và đưa ra các giải
pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng trong tiết trả bài Tập làm văn là rất cần
thiết.

2.1.2. Tình hình trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài:
Qua thực tế giảng dạy, chúng tơi nhận thấy có nhiều giờ trả bài chưa đạt
hiệu quả giáo dục, chưa đáp ứng yêu cầu của tiết học. Điều đó xuất phát từ cả hai
phía: phía người dạy (giáo viên) và phía người học(học sinh).
a. Về phía giáo viên:
Một số giáo viên chưa có nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị của giờ trả bài
Tập làm văn với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Vì vậy giáo viên chưa coi trọng
giờ trả bài, chưa dành nhiều thời gian cho việc chuẩn bị, chưa đầu tư đúng mức từ
khâu chấm bài đến khâu thiết kế giáo án và cuối cùng là khâu thực hiện việc giảng
dạy (trả bài) trên lớp.
Việc chấm bài chưa chu đáo, chưa kĩ lưỡng. Nhiều giáo viên chấm bài chỉ
ghi điểm số bài làm mà khơng có những nhận xét, sửa chữa cần thiết hoặc chấm
“qua loa”, bỏ qua nhiều lỗi của học sinh trong bài làm, nếu có nhận xét cũng chỉ là
những lời phê chung chung. Như thế học sinh sẽ không thể nhận ra được những ưu
điểm, nhược điểm cụ thể từ bài làm của mình để rút kinh nghiệm.
4

skkn


Việc soạn giáo án chưa được đầu tư đúng mức. Các tiết dạy Trả bài tập làm
văn khơng có tài liệu soạn mẫu hay mơ hình bài soạn để tham khảo, thậm chí trong
các đợt tập huấn soạn giáo án mấy năm trước đây cũng không thấy đề cập đến cách
soạn. Do giữa các giáo viên bộ môn Ngữ văn trong các khối lớp chưa có sự thống
nhất cách soạn giảng và chưa coi trọng thỏa đáng đến mục tiêu hiệu quả của các
tiết dạy Trả bài tập làm văn.
Cách thức tổ chức thực hiện việc trả bài trên lớp chưa hợp lí, chưa khoa học
hoặc sử dụng phương pháp chưa phù hợp. Thực tế qua nhiều năm giảng dạy, tôi
nhận thấy Tổ chuyên môn chưa dành nhiều thời gian để trao đổi thảo luận bàn về
phương pháp thực hiện chun đề này. Vì vậy có một số tiết trả bài, giáo viên ít

quan tâm, thực hiện cịn nhiều lúng túng và thường không đạt được hiệu quả của
tiết dạy.
Giáo viên thường né tránh hoặc rất ngại khi chọn tiết Trả bài Tập làm văn để
dự giờ, thao giảng nên việc soạn giáo án của các tiết trả bài Tập làm cịn hình thức
đối phó, ít tìm tịi, sáng tạo, hoặc cịn xem nhẹ, khơng đầu tư, khơng quan tâm
đúng mức đến tác dụng, ý  nghĩa và tầm quan trọng của việc soạn bài, không
nghiên cứu  kĩ và soạn qua loa tiết Trả bài tập làm văn .
b. Về phía học sinh
Một số học sinh còn cho rằng việc học mơn Ngữ văn là khó, vì dung lượng
kiến thức nhiều, sức sáng tạo của bản thân lại có hạn cho nên có sự thiên lệch trong
nhận thức về tầm quan trọng của môn học. Tâm lý nhiều học sinh thường coi trọng
các mơn tự nhiên như Tốn, Lý, Hóa… mà vơ tình xem nhẹ mơn Ngữ văn.
Học sinh chưa có phương pháp học mơn Ngữ văn nói chung và kĩ năng làm
một bài văn nói riêng. Do đó các em thường khơng có hứng thú học Văn, khơng
chủ động học tập và tìm kiếm kiến thức, nâng cao hiểu biết của mình. Đa số học
sinh có thói quen học vẹt bài văn mẫu mà không nắm vững các kĩ năng viết văn.
Mặc dù trong chương trình học các em đã được tìm hiểu lý thuyết cách tạo lập
từng kiểu văn bản, khi viết bài các em nhớ các thao tác, các bước tạo lập văn bản
nhưng lại mơ hồ trong thực hiện từng bước đó.
Kết quả khảo sát trên một số bài làm cho thấy chất lượng bài viết của học
sinh chưa đạt kết quả như mong muốn. Số lượng bài đạt điểm khá giỏi rất ít. Nhiều
bài diễn đạt cịn lủng củng, lập luận thiếu tính chặt chẽ, khơng lơgic hoặc văn viết
rối khơng thốt ý, cịn sai sót nhiều về lỗi chính tả, dùng từ, viết câu, thậm chí có
5

skkn


những lỗi chính tả thơng thường nhưng qua nhiều bài liên tiếp vẫn mắc lại những
lỗi đó. Có những bài làm là văn biểu cảm nhưng chọc sinh chưa thể hiện được cái

hồn, cái tâm, cảm xúc của người viết. Còn đối với những bài làm là Nghị luận văn
học, học sinh lại không thuộc dẫn chứng (thơ, văn) hoặc viết sai kiến thức (về tác
giả hoặc về tác phẩm) đã có sẵn trong sách giáo khoa; văn nghị luận xã hội học
sinh viết sơ sài, khô khan thiếu dẫn chứng thực tế từ cuộc sống, bài làm khơng có
chiều sâu.
2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến tình hình trên:
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu cho thấy việc thực hiện một tiết trả bài
Tập làm văn ở các lớp cịn có nhiều bất cập do các nguyên nhân sau:
a. Về phía giáo viên:
Khác với các tiết học khác, tiết trả bài Tập làm văn thường khơng có mơ
hình bài soạn mẫu để tham khảo; các tài liệu hướng dẫn cũng không thống nhất;
hoạt động của tổ, nhóm chun mơn chưa dành nhiều thời gian cho việc trao đổi
thảo luận về chuyên đề này. Vì khơng có một quy định chuẩn mực chung nên cách
thiết kế giáo án cho tiết trả bài Tập làm văn giữa các giáo viên đôi chỗ chưa thống
nhất.
Ví dụ ở phần nội dung lên lớp chỉ gồm các phần việc sau: Ghi lại đề bài; nội
dung đáp án; nhận xét chung; phát bài, vào điểm.
Với cách thiết kế như thế, tiết trả bài thường không thành công vì học sinh
khơng nhận ra được những ưu điểm, nhược điểm cụ thể để rút kinh nghiệm cho
những bài viết sau (nghĩa là học sinh không nhận thấy được những lỗi sai cụ thể
mình đã mắc phải, khơng nhận thức được ngun nhân sai và khơng có kỹ năng
khắc phục sữa chữa những lỗi sai đó. Điều đáng nói hơn là ở phần “Dặn dò” sau
bài học, giáo viên thường nhắc học sinh cần phải rút kinh nghiệm để làm tốt bài
viết tiếp theo nhưng các em cũng không biết mình cần phải làm gì? Làm như thế
nào?). Đồng thời giáo viên cũng khơng thể đánh giá đúng tình hình chất lượng học
tập của lớp và sự tiến bộ của từng học sinh sau mỗi bài viết. Nói chung cách thiết
kế giáo án như vậy là chưa đảm bảo về mặt nội dung kiến thức.
Quan niệm ở một số thầy cơ giáo cho rằng: “giáo án chỉ là một hình thức đối
phó” mà khơng thấy hết được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thiết kế giáo án (cơ
sở để giáo viên thực hiện), có vai trị rất lớn trong trong việc quyết định sự thành


6

skkn


cơng của giờ trả bài trên lớp. Cho nên có nhiều thầy cô giáo xem nhẹ việc thiết kế
giáo án, thiếu sự đầu tư, ít tìm tịi sáng tạo. Chỉ soạn cho có để đối phó.
Như đã nói ở trên, các cơ sở dữ liệu cần thiết để phục vụ cho việc thiết kế
giáo án là từ khâu chấm bài. Thế nhưng vì khâu chấm bài khơng đầu tư thỏa đáng
dẫn tới việc thiết kế giáo án thiếu cơ sở và khơng có chiều sâu.
b. Về phía học sinh:
Do các em thiếu sự đầu tư chuẩn bị, ít đọc sách, không nắm chắc kiến thức
và yêu cầu của đề bài, lười suy nghĩ, vốn sống “nghèo”, kiến thức “hạn hẹp” hoặc
khơng có hứng thú học tập đối với bộ mơn Văn.
Một phần do khâu chuẩn bị và quy trình tổ chức tiết dạy của giáo viên (như
đã phân tích ở trên), một phần do phương pháp lên lớp của giáo viên không phù
hợp, chưa điều khiển được học sinh hoặc còn áp đặt khiến học sinh thụ động tiếp
thu, cũng có thể do giáo viên chưa động viên hoặc chưa tạo điều kiện cho học sinh
phát huy khả năng và vai trị của mình.
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Muốn thực hiện một tiết trả bài trên lớp được thành công, mỗi thầy cô giáo
cần phải thể hiện được năng lực chuyên mơn, lịng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm
và tâm huyết đối với nghề nghiệp cũng như đối với học sinh. Để góp phần nâng
cao hiệu quả và chất lượng trong các tiết trả bài viết Tập làm văn, tôi xin đưa ra
một số giải pháp sau:
2.2.1. Giải pháp 1: Giáo viên làm tốt khâu chuẩn bị, hoàn thành cẩn thận,
khách quan và kĩ lưỡng việc chấm bài
Giờ trả bài tập làm văn có tầm quan trọng đặc biệt. Việc quyết định cụ thể,
chặt chẽ về giờ trả bài theo phân phối chương trình của bộ mơn Ngữ văn đã thể

hiện được điều đó. Người giáo viên Ngữ văn khơng được phép quan niệm trả bài là
hoàn lại bài viết và công bố điểm số cho học sinh. Trả bài là hoạt động có tính chất
rút kinh nghiệm, phân tích cái hay, cái dở, chỗ mạnh, chỗ yếu trong từng bài làm
của học sinh. Giúp các em chữa những lỗi đã mắc phải về nội dung kiến thức cũng
như kĩ năng viết bài. Qua tiết trả bài các em có dịp nhìn lại quá trình học tập của
mình. Trên cơ sở đó có kế hoạch củng cố, nâng cao kiến thức, kĩ năng viết văn của
bản thân để vươn lên ở những bài sau đạt số điểm cao hơn.
Để tiến hành tiết Trả bài tập làm văn đạt hiệu quả, ngoài việc nhận thức
đúng đắn giá trị của tiết trả bài. Mỗi một người giáo viên dạy Văn phải có một sự
7

skkn


chuẩn bị cho giờ trả bài một cách công phu, kỹ lưỡng bằng cả lương tâm và trách
nhiệm của một người thầy đứng trên bục giảng. Giáo viên không được trả bài một
cách tùy tiện mà phải tiến hành tiết trả bài trong một tiết học theo 6 bước với một
giáo án trả bài nghiêm túc. Trước khi trả bài người giáo viên cần phải:
Nghiên cứu đáp án, biểu điểm và phiếu tổng kết, phiếu chấm bài. Sau khi đã
tiến hành chấm bài làm văn để có những thơng tin tương đối chính xác về bài làm
cũng như kết quả bài đã chấm của học sinh, giáo viên thống kê được các lỗi đã
mắc của học sinh, dự định được các lỗi cần chữa, những đoạn, bài văn hay.
Thiết kế giáo án trả bài phù hợp với đối tượng học sinh theo quan điểm tích
hợp và đổi mới phương pháp dạy học. Giáo án trả bài không đơn thuần là sắp xếp
thứ tự các tri thức cần truyền đạt. Nó phải là một kết cấu chặt chẽ, linh hoạt các
đơn vị kiến thức cần đạt của tiết trả bài. Hệ thống kiến thức đó phải được học sinh
chủ động chiếm lĩnh dưới sự dẫn dắt của giáo viên. Muốn vậy, ngay khi thiết kế
giáo án trả bài, giáo viên phải dự kiến sử dụng phương pháp, các thao tác dạy học
cụ thể để cho mỗi bước trong quá trình dạy học tiết trả bài đạt kết quả tốt. Học sinh
thấy say mê và hứng thú hơn khơng cịn cảm giác đơn điệu, nặng nề khi nhận kết

quả học tập không được tốt.
Ví dụ: Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp học vui, phương pháp
nêu vấn đề với bước tìm hiểu đề, lập dàn ý, chữa lỗi, phương pháp diễn giảng trong
bước nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải
chuẩn bị hệ thống câu hỏi có tính gợi mở để học sinh suy nghĩ, trả lời trong quá
trình tiến hành các bước trả bài.  
Giáo viên yêu cầu học sinh nhận thức lại kiến thức lý thuyết về kiểu bài, yêu
cầu của đề bài và tự xây dựng dàn bài cho đề đã viết. Nếu học sinh thực hiện tốt
yêu cầu này của giáo viên việc trả bài trên lớp sẽ tiết kiệm được thời gian, các em
cũng sẽ chủ động, tích cực hơn trong việc phát biểu ý kiến xây dựng bài học.
Ngoài ra, các em cịn có điều kiện đối chiếu dàn bài của mình với dàn bài chung đã
được lớp xây dựng, thống nhất dưới sự hướng dẫn của thầy cô.
Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị phiếu chấm bài cho cả lớp, cũng có thể
dùng phiếu chấm bài cho từng cá nhân học sinh, mỗi bài viết là một trang phiếu.
Dựa trên phiếu này có thể theo dõi được sự tiến bộ của học sinh qua từng bài chấm
tiếp theo.
 
Để đánh giá được sự tiến bộ của học sinh trong suốt năm học mỗi giáo viên
có phiếu chấm bài ghim lại thành cuốn sổ theo dõi, ghi chép tóm tắt kết quả, những
8

skkn


ưu điểm cũng như những tồn tại của mỗi em ở từng bài làm ( Kĩ năng, bố cục, diễn
đạt, dùng từ, đặt câu, chính tả, chữ viết…)
 

Ví dụ: Kết quả học sinh Trần Văn Nam – Lớp 71
Bài TLV


Điểm

Ưu điểm
- Bố cục rõ ràng

1

       6

Tồn tại
- Chính tả cịn 5 lỗi

- Diễn đạt tương đối mạch lạc - Dùng từ : 3 lỗi
- Chữ viết cẩn thận.

- Đặt câu : 2 lỗi

- Bố cục rõ ràng
2

       7

- Bài viết khá cảm xúc, diễn- Chính tả: 1
đạt trơi chảy, có hình ảnh
-  Dùng từ : 2
- Chữ viết cẩn thận.

-  Đặt câu : 1


- Có tiến bộ
Nhìn vào kết quả bài viết của học sinh giáo viên sẽ thấy và thấy rất rõ sự tiến
bộ nhanh hay chậm ở từng em. Từ đó giáo viên sẽ có những biện pháp thích hợp
để giúp học sinh hạn chế những lỗi mà các em hay mắc. Cơng việc này địi hỏi sự
tỉ mỉ, mất thời gian hơn song chắc chắn sau năm học học sinh sẽ có tiến bộ hơn.
2.2.2. Giải pháp 2: Tổ chức linh hoạt việc trả bài trên lớp theo từng bước cụ
thể.
Giáo viên nên tiến hành khâu trả bài theo các bước sau:
* Bước 1: Khởi động.
Giáo viên cần phải tạo tâm thế cho học sinh tham gia tiết trả bài. Bước này
cần được tiến hành ngắn gọn. Giáo viên nên chủ động dùng lời dẫn dắt thật sinh
động, thuyết phục, gây ấn tượng để thu hút học sinh và tạo khơng khí thoải mái
cho giờ trả bài. Lời dẫn dắt của giáo viên cần thể hiện rõ mục tiêu, ý nghĩa của giờ
trả bài để học sinh chủ động, tập trung vào bài học tạo sự say mê hứng thú cho học
sinh.
* Bước 2: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân tích đề và nhận xét chung bài
làm của học sinh.
 - Tổ chức cho học sinh tái hiện và tìm hiểu đề bài.
Giáo viên có thể chia lớp ra thành các nhóm và nêu yêu cầu thực hiện, ghi lại
đề bài của bài viết, nêu rõ đề bài yêu cầu người viết phải giải quyết vấn đề gì? Đề
bài thuộc kiểu loại văn bản gì? Cần vận dụng kỹ năng viết kiểu bài nào để giải
9

skkn


quyết yêu cầu của đề? Phạm vi tư liệu cần sử dụng để làm bài? (Tư liệu lấy từ thực
tế đời sống xã hội hay tác phẩm văn học nào?) Sau khi các nhóm trình bày và nhận
xét phần việc đã làm của nhóm khác, giáo viên chiếu lên màn hình đề bài và yêu
cầu của đề về 4 mặt:

+ Thể loại
+ Nội dung kiến thức
+ Kỹ năng làm bài.
+ Giới hạn - phạm vi tư liệu được sử dụng
- Tổ chức cho học sinh xây dựng dàn ý của bài văn.
Việc xây dựng dàn ý là giúp học sinh tìm ra các ý lớn, ý nhỏ các phần phù
hợp với đề bài của bài viết. Sau đó sắp xếp chúng thành một dàn ý có bố cục chặt
chẽ, đảm bảo tính lơgic. Việc lập dàn ý trong giờ trả bài là một dịp tốt để các em
đối chiếu, nhìn lại những ý lớn, ý nhỏ đã nêu trong bài viết, tự đánh giá mức độ
đạt, chưa đạt trong bài làm. Với những học sinh yếu đây là cơ hội để củng cố, rèn
luyện bồi đắp thêm kĩ năng lập ý. Ngoài ra, rất nhiều kiến thức về đời sống xã hội
và văn học sẽ được củng cố, khắc sâu trong học sinh nhờ bước thứ ba này của khâu
trả bài làm văn.
Việc lập dàn ý cần được tiến hành tuần tự từ mở bài đến thân bài và kết bài,
giáo viên cũng có thể chia lớp thành các nhóm để làm việc. Sau khi các nhóm báo
cáo kết quả làm việc, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, nhận xét, bổ sung
để đi đến một dàn bài thống nhất.
Để học sinh thực hiện việc dàn ý cho các phần giáo viên đưa ra các câu hỏi
gợi mở, hướng dẫn. Ví dụ về văn nghị luận, với mở bài cần nêu được vấn đề phải
nghị luận. Trong bài viết, dự kiến nêu vấn đề đó theo cách trực tiếp hay gián tiếp.
Với thân bài cần trả lời được các câu hỏi:
+ Thân bài có mấy ý lớn, là những ý gì?
+ Mỗi ý lớn đó cần được cụ thể hóa thành các ý như nào?
+ Ở mỗi ý nhỏ dùng lý lẽ, dẫn chứng nào để phân tích, chứng minh làm rõ
+ Thứ tự sắp xếp các ý như thế nào?
+ Ở phần kết bài, cần tổng kết một cách ngắn gọn, khái quát về vấn đề đã nghị
luận, thể hiện suy nghĩ liên hệ của người viết về đời sống từ vấn đề nghị luận.
Chọn cách nào để kết bài? (khái quát, tóm lược hay vận dụng, mở rộng phát triển
hay liên tưởng).
10


skkn


Trong quá trình hướng dẫn học sinh lập ý, giáo viên cần tơn trọng và khuyến
khích những ý tưởng độc đáo, sáng tạo của học sinh đề xuất. Điểm nào giáo viên
thấy chưa hợp lý, thiếu cơ sở cũng cần cho học sinh tranh luận, đối thoại, sau đó
giáo viên tổng kết các ý kiến và đưa ra kết luận có tính thuyết phục, tránh áp đặt.
 - Giáo viên nhận xét đánh giá chung về bài làm của học sinh.
Bước này giúp học sinh nhận ra và nắm được tình hình bài làm của mình,
của các bạn trong lớp. Đây là bước chuẩn bị tiếp theo cho việc phân tích, chữa lỗi
trên các bài làm của học sinh. Những nhận xét đánh giá của giáo viên về bài làm
của học sinh chỉ thực sự có cơ sở và sức thuyết phục khi giáo viên làm tốt.
* Bước 3: Chữa lỗi cho bài viết của học sinh
Đây là bước không thể thiếu trong tiết trả bài tập làm văn. Công việc này
giúp học sinh nhận ra các lỗi đã mắc trong bài viết của mình. Quan trọng hơn, các
em sẽ biết cách sửa chữa để không tái phạm trong những bài viết sau. Việc phân
tích và chữa lỗi về nội dung của bài viết sẽ củng cố những kiến thức về văn học và
đời sống cịn việc phân tích chữa lỗi về hình thức của các bài viết sẽ củng cố
những kiến thức của phân môn Tiếng Việt, giúp nâng cao khả năng sử dụng ngôn
ngữ trong giao tiếp của học sinh.
Trong tiến trình thực hiện giờ Trả bài trên lớp đây là bước cần dành nhiều
thời gian nhất. Tuy nhiên với 45 phút cho một tiết trả bài chúng ta cần phải có cách
phân tích, chữa lỗi sao cho phù hợp và hiệu quả. Giáo viên nên hướng dẫn để học
sinh tập trung phân tích, chữa các lỗi điển hình, phổ biến chung của cả lớp, tránh
tình trạng chữa lỗi tràn lan nhiều mà không chắc, không rộng mà không sâu khiến
học sinh có thể thắc mắc lại các lỗi đó trong những bài viết sau. Trong bước này
giáo viên phải phát huy hết tính chủ động, tính tích cực của học sinh. Chính học
sinh là người nhận ra lỗi đã mắc của mình và đề xuất các phương án sửa chữa theo
hướng dẫn của giáo viên. Chúng ta không thể làm thay việc này cho các em.

Giáo viên tổng hợp các lỗi học sinh đã mắc chia ra các loại lỗi điển hình.
Sau đó cho học sinh chữa lỗi điển hình trên lớp: Việc chữa lỗi nên tập trung vào
các mặt sau đây:
a. Lỗi về nội dung và phương pháp làm bài.
+ Lỗi lạc đề: chưa hiểu đề nên sai lạc về nội dung và phương pháp.
+ Lỗi lệch đề: Chưa xác định đúng trọng tâm yêu cầu bài làm.
+ Lỗi lậu đề: Bỏ sót một số yêu cầu cần thực hiện trong đề bài.
b. Lỗi về hình thức bài làm.
11

skkn


+ Nhóm lỗi về dùng từ, lỗi chính tả.
+ Nhóm lỗi về viết câu văn, diễn đạt ý.
+ Nhóm lỗi về đoạn văn, bố cục
+ Nhóm lỗi về trình bày bài làm...
Giáo viên chữa chung trên bảng lớp: Học sinh có lỗi lên chữa, lớp nhận xét,
bổ sung. Mỗi tiết trả bài giáo viên nên chữa bốn lỗi: 2 lỗi nội dung và 2 lỗi hình
thức.
Giáo viên có thể tiến hành như sau: Ghi tổng hợp các lỗi học sinh đã mắc
trên bảng phụ hoặc màn hình, chia nhóm để học sinh hoạt động với hệ thống câu
hỏi gợi mở, nêu vấn đề của giáo viên. Để thực hiện chúng ta cho các em quan sát
các lỗi trên bảng thống kê đã chuẩn bị. Tiếp theo cho học sinh phát hiện các lỗi (lỗi
dùng từ, đặt câu, sử dụng phép liên kết, lỗi sắp xếp ý...) và đề xuất các cách sửa
chữa. Nên tạo cơ hội cho các em mắc lỗi tự nhận thức về loại lỗi, nguyên nhân mắc
lỗi và cách sửa. Sau khi các nhóm phát biểu, thảo luận, giáo viên thống nhất cách
sửa. Tất nhiên trong quá trình này, giáo viên ln phải ln phải ở bên cạnh các
em bằng những gợi ý. Ví dụ sửa lỗi về câu, giáo viên nên định hướng nhìn vào cấu
trúc  đặt câu này trong mối liên hệ với câu trước để xác định lỗi học sinh đã mắc.

Với lỗi đó có những phương án sửa chữa nào? Phương án nào ưu việt hơn?
Để giờ dạy sinh động hào hứng, giáo viên có thể chuyển thành hình thức học
vui. Tổ chức trò chơi “Thi tuyển biên tập viên của lớp”.
+ Viết các lỗi ra giấy làm đề thi.
+ Lần lượt cho các đội thi sửa lỗi và tính điểm hoặc giáo viên tổ chức cho học sinh
trò chơi “Hái hoa dân chủ.” . Giáo viên tổ chức cho học sinh và bình bài văn hay
nhất, đoạn văn học sinh viết tốt.
* Bước 4: Đọc bài mẫu của học sinh
Việc đọc và bình một bài văn hay, một đoạn văn tốt giúp học sinh được
tham khảo những cách dùng từ độc đáo, sáng tạo, những cách mở bài ấn tượng hấp
dẫn, những kết bài hay ....
Việc làm bài này cũng khiến học sinh đối chiếu, so sánh ngầm giữa bài viết
của mình và của bạn, nhận ra cái hay của bạn, cái dở của mình. Từ đó được học
tập, vận dụng vào việc viết bài của mình sau này.
Để thực hiện được bước này trong khâu trả bài, giáo viên phải sàng lọc, lựa
chọn để tìm ra được những bài văn hay, đoạn văn thực sự chuẩn mực. Đồng thời
phải chọn được một em đọc tốt, nếu cần thiết, chính giáo viên phải đọc các bài, các
12

skkn


đoạn văn đó. Sau khi đọc, giáo viên tổ chức cho học sinh phát biểu cảm nhận, bình
giá về đoạn văn bài văn đó (bình giá về hệ thống ý của bài, cách dùng từ, đặt câu,
dùng phép liên kết, chuyển ý, thể hiện cảm xúc...) Giáo viên cũng cần chuẩn bị lời
bình đích đáng cho các bài các đoạn văn như thế để học sinh nhận thấy ưu điểm
của mình.
* Bước 5: Trả bài. Ghi điểm vào sổ.
Giáo viên cơng bố điểm số (điểm số chung, tính tỉ lệ %), điểm cao nhất và
điểm thấp nhất, những em tiến bộ và những em chưa tiến bộ.Phần này dựa vào

bảng điểm tổng kết. Giáo viên trả bài cho học sinh đọc và xem lại những nhận xét
của giáo viên, giải quyết thắc mắc của học sinh và lấy điểm vào sổ điểm của lớp.
Việc trả bài không nên thực hiện vào đầu giờ bởi học sinh sẽ mải xem bài
của mình, được đọc những lời nhận xét của giáo viên với nhiều trạng thái cảm xúc
khác nhau. Lúc này, các em cũng sẽ được nhìn lại một cách tồn diện bài viết của
mình trong sự đối chiếu với những gì cả lớp đã thực hiện trong suốt tiết học dưới
sự hướng dẫn của thầy. Những thắc mắc của các em về bài làm của mình, về sự
đánh giá của giáo viên cũng nảy sinh từ bước này. Vì thế trước khi phát bài, giáo
viên cần làm tốt công tác tư tưởng với học sinh để tránh những phản ứng tiêu cực
khi trực tiếp đối diện với con điểm xấu như bơi xóa điểm xấu, xé bài, tỏ thái độ bất
bình...
Đồng thời cần tạo khơng khí thoải mái để học sinh mạnh dạn trao đổi những
điều còn thắc mắc và chuẩn bị tâm thế để trả lời những thắc mắc đó. Giáo viên cần
trực tiếp phát bài cho học sinh để thể hiện sự quan tâm với các em và có điều kiện
quan sát thái độ, phản ứng của học sinh. Trên cơ sở đó có những cách ứng xử thích
hợp. Giáo viên yêu cầu học sinh lưu bài viết, giữ gìn bài làm cẩn thận để đọc lại, tự
đối chiếu và sửa chữa những lỗi đã mắc.
* Bước 6: Học sinh tiếp tục sửa lỗi trong bài làm của mình dưới sự hướng dẫn của
giáo viên.
Bước này nhất thiết phải có trong tiết trả bài bởi vì các em sẽ vận dụng cách
chữa lỗi chung vào việc sửa lỗi riêng trong bài làm của mình. Trong bài làm giáo
viên đã ghi rõ lỗi bên lề theo quy ước, các em cứ theo đó mà sửa lỗi ra ngồi lề.
Trong khi các em tự sửa, giáo viên đi từng bàn để giúp các em sửa. Đây là bước
học sinh tự làm việc, tự động não suy nghĩ để tìm cách sửa lỗi. Vì vậy, giáo viên
phải hết sức quan tâm tới bước này. Trong tiết trả bài, nếu học sinh chưa sửa hết
lỗi trên lớp, yêu cầu các em về nhà sửa tiếp cho hoàn chỉnh bài.
13

skkn



Giáo viên sẽ kiểm tra việc tự sửa lỗi, tự bổ sung để hoàn thiện bài viết của
học sinh, việc kiểm tra này có thể thực hiện ngay trên lớp hoặc giờ học sau. Việc
kiểm tra này không nhất thiết phải tiến hành với 100% học sinh của lớp nhưng rất
cần thực hiện để rèn luyện tinh thần tự giác cho các em.
Trước khi kết thúc giờ học, bước củng cố, dặn dò giáo viên cần lưu ý những
nội dung sau:
+ Củng cố cho học sinh về phương pháp thực hiện kiểu bài.
+ Nhấn mạnh những yêu cầu quan trong trong việc tạo lập văn bản.
+ Tổng kết các lỗi sai phổ biến, cơ bản để rút kinh nghiệm.
Tóm lại: Trong tiết trả bài cần đạt hai yêu cầu chính:
 - Học sinh phải nhận ra được ưu, khuyết điểm của mình trong bài làm và hướng
khắc phục tiến lên.
- Học sinh phải tự sửa chữa những lỗi trong bài làm của mình.
2.2.3. Giải pháp 3: Thiết kế giáo án trả bài viết Tập làm văn hoàn chỉnh, trọn
vẹn
Sau khi hoàn tất những cơng việc trên, giáo viên mới có đủ cơ sở để thiết kế
giáo án. Bài soạn phải có đủ các bước lên lớp và thể hiện rõ: mục đích, yêu cầu;
đảm bảo tính hệ thống, đủ nội dung, xác định đúng trọng tâm; phương pháp dạy
học; cụ thể hóa các nội dung hoạt động và sự tích hợp giữa các phân môn. Để làm
rõ phần này, tôi xin minh họa chi tiết một bài soạn giáo án của tiết Trả bài Tập làm
văn số 3 ở khối lớp 7 của trường THCS .
Giáo án minh họa: Tiết Trả bài Tập làm văn số 3 - Lớp 7
Ngày soạn:
Ngày giảng:
TiÕt 59 :

TRẢ BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 3
VĂN BIỂU CẢM


I. Mục tiêu cần đạt
Giúp HS :
- Củng cố lại những kiến thức và kĩ năng đã học về bài văn phát biểu cảm nghĩ về
con người.
- Đánh giá được chất lượng bài làm của mình so với yêu cầu của đề bài. Nhờ đó có
được những kinh nghiệm quyết tâm cần thiết để làm tốt hơn những bài sau.
14

skkn


II. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng
1. Kiến thức
- Kiểm tra kiến thức của học sinh về thể loại văn biểu cảm.
- Nhận thấy ưu điểm, nhược điểm của bài viết cụ thể về kiến thức, về cách diễn
đạt.
2. Kĩ năng
- Rèn kĩ năng dùng từ, viết câu, dựng đoạn, liên kết câu, viết bài văn mạch lạc.
- Viết đúng theo thể loại.
3. Thái độ: Nghiêm túc, tích cực chú ý theo dõi phần nhận xét của giáo viên và
những thiếu sót cần khắc phục trong bài làm.
III. Chuẩn bị:
- GV: Chấm bài, tổng hợp chất lượng bài viết; soạn giảng
- HS: Ôn lại các kiến thức tạo lập văn bản.
Xem lại phương pháp làm văn biểu cảm
IV. Tiến trình lên lớp:
A. Hoạt động khởi động (5 phút)

Hoạt động của GV - HS


Nội dung cần đạt

- Tổ chức trò chơi: GV cho HS thi - HS hát
đua hát những bài hát chủ đề về gia
đình
- GV dẫn vào bài:
Các em đã trình bày những bài hát rất hay về tình cảm gia đình. Và
các em cũng biết rằng gia đình là tổ ấm thiêng liêng của mỗi người. Ở bài viết Tập
làm văn số 3, các em đã phát biểu cảm nghĩ, nói lên tình cảm của mình đối với
những người thân yêu. Tiết học hôm nay, cô sẽ trả bài và sửa bài để các em có
được cách nhìn nhận rõ nét hơn về thể loại văn biểu cảm. Đồng thời qua bài học
này cũng giúp các em rút ra những kinh nghiệm bổ ích về các ưu điểm, nhược
điểm trong bài viết của mình.
B. Hoạt động hình thành kiến thức (25 phút)

Hoạt động của GV - HS

Nội dung cần đạt
15

skkn


Hoạt động 1 : Hướng dẫn HS phân I. Phân tích đề:
tích đề
Đề bài: Cảm nghĩ về người thân
- Gv: yêu cầu học sinh nhắc lại đề
bài
 gv chiếu đề bài.
- Gv (củng cố kiến thức để lấy điểm

bài cũ): Theo em, mục đích của
việc trả bài để làm gì ?
- Hs: trả lời
- Gv: Vậy em hãy nhắc lại các bước
cần có để xây dựng một bài văn?
- Hs: có 5 bước (Tìm hiểu đề; Lập
ý; Lập dàn ý, Viết văn bản hoàn
chỉnh, Kiểm tra và sửa lỗi)
- Gv: Việc tìm hiểu đề nhằm mục
đích gì? u cầu về thể loại và nội
dung của đề bài này là gì?
- Hs: + Thể loại: biểu cảm
+ Nội dung: về người thân

- Gv: Nói qua về phần lập ý. Sau
đó, cho lớp thảo luận nhóm phần
lập dàn ý cho đề bài này ?
- Gv: Chia lớp thành 4 nhóm, có sử
dụng bảng phụ.
- Hs: làm việc tự giác, tích cực theo
nhóm.

- Tìm hiểu đề:
+ Yêu cầu thể loại: biểu cảm
+ Yêu cầu về nội dung: về người thân
trong gia đình (ơng, bà, bố, mẹ, anh,
chị, em…)
- Lập dàn ý:
1. Mở bài :
- Dẫn dắt về đối tượng biểu cảm một

cách hợp lí.
- Giới thiệu người đó là ai? Người đó
in đậm trong tâm hồn em bởi cảm xúc
như thế nào?
2. Thân bài :
- Hình ảnh gợi cảm về hình dáng của
người đó.
- Tình cảm nổi bật của người đó đối với
mọi người xung quanh và đối với bản
thân của em.
- Tính cách, nhân cách, phẩm chất của
16

skkn


người đó ntn qua các việc làm, hành
động, lời nói, cử chỉ đó.
- Những kỷ niệm để lại ấn tượng sâu
sắc trong em.
3. Kết bài :
- Khẳng định lại tình cảm của em đối
với người thân và mong muốn điều gì
cho người thân của mình hoặc có thể
hứa làm gì có ích cho người thân.
Hoạt động 2: Nhận xét chung
- GV nhận xét chung về kiến thức
+ Thể lọai;
+ Lời văn;
- GV nhận xét cụ thể từng phần.

- GV nêu cụ thể
Hs: chú ý theo dõi phần nhận xét

II. Nhận xét
* Ưu điểm :
- Bài viết đúng bố cục 3 phần.
- Bài làm đúng với thể loại biểu cảm
- Đã biết cách biểu cảm về người
thân của mình, một số bài viết hay,
có cảm xúc, diễn đạt mạch lạc. Ví
dụ:
+ Lớp 71: Lê Thị Trà My, Nguyễn
Thị Kim Yến
+ Lớp 72: Đặng Ngọc Thương,
Phạm Thị Nhung
+ Lớp 73: Võ Ngọc Minh, Trần Thị
Hồi
- Nhiều em có ý thức làm bài, trình
bày rõ ràng, sạch sẽ.
* Nhược điểm :
- Một số bạn còn nghiêng về văn miêu
tả, tự sự.
- Phần mở bài, phần kết bài một số bài
còn sơ sài, chưa thực hiện đúng yêu cầu
của đề ra.
- Dùng từ: Một số em dùng từ chưa
chính xác.
- Lời văn: Một số em diễn đạt còn lủng
17


skkn


củng, ý rời rạc.
- Chữ viết: Sai lỗi chính tả nhiều, viết
số, viết tắt.
Hoạt động 3: Hướng dẫn HS sửa
lỗi
- Gv: Ghi 5 lỗi chính tả lên bảng 
gọi hs lên sửa.
Hs: Lên sửa bài

III. Sửa lỗi
Sửa lỗi cho học sinh
a) Lỗi chính tả:
+ xinh sắn
-> xinh xắn
+ vỉn cửu
-> vĩnh cửu
+ lành bạnh
-> lành bệnh
+ chia sẽ
-> chia sẻ
+ giúp đở
-> giúp đỡ

- Gv: chọn 3 đoạn nhỏ của phần mở
bài, thân bài, kết bài. Cho hs xem
phần diễn đạt và sửa lại. Gv cho
thảo luận nhóm.


b) Lỗi diễn đạt:

+ Đoạn 1 (Mở bài): Sau đây em xin + Đoạn 1 (Mở bài):
kể cho mọi người biết người em yêu Người em yêu quý nhất trong cuộc đời
quý nhất là mẹ em.
chính là mẹ.
 Sửa lỗi: khơng nhất thiết có lời
giới thiệu mà đi thẳng cào vấn đề:
Người em yêu quý nhất trong cuộc
đời chính là mẹ.
+ Đoạn 2 (Thân bài): Đôi mắt của + Đoạn 2 (Thân bài):
bà như hai hịn bi ve nhìn em âu Đơi mắt của bà hiền từ nhìn em âu yếm
yếm.
 Sửa lỗi: Đơi mắt của bà hiền từ
nhìn em âu yếm
+ Đoạn 3 (kết bài): Em rất yêu mẹ + Đoạn 3 (kết bài):
nhiều lắm.
Em yêu mẹ nhiều lắm.
 Sửa lỗi: Em yêu mẹ nhiều lắm.
Hoạt động 4: Đọc bài khá giỏi
Gv: gọi 2 học sinh đạt điểm khá
giỏi đọc bài để các bạn tham khảo.

IV. Đọc bài khá giỏi:
+ Lớp 71: Lê Thị Trà My, Nguyễn
18

skkn



Thị Kim Yến
+ Lớp 72: Đặng Ngọc Thương,
Phạm Thị Nhung
+ Lớp 73: Võ Ngọc Minh, Trần Thị
Hoài
Hoạt động 5: Trả bài . Ghi điểm
- GV phát bài cho HS. Cho hs đọc
bài 2 phút, sau đó gọi 3 hs tự nhận
xét về phần bài làm của mình.
- Hs: đọc bài và nhận xét
- Gv: đọc biểu điểm và bảng thống
kê chất lượng.
- Hs: chú ý theo dõi

V. Trả bài . Ghi điểm
1. Trả bài

- HS đọc điểm số

Biểu điểm:
- Điểm 9, 10: Đảm bảo các ý chính, biết
dùng lời văn của bản thân để diễn đạt,
khơng lỗi chính tả, văn viết giàu cảm
xúc.
- Điểm 7, 8: Đảm bảo các ý chính, biết
dùng lời văn của bản thân để diễn đạt,
có từ 1 đến 2 lỗi chính tả, một đơi chỗ
cịn lúng túng.
- Điểm 5, 6: Thiếu 1, 2 ý, diễn đạt cịn

lúng túng, lỗi chính tả, dấu câu tương
đối.
- Điểm 3, 4: Thiếu nhiều ý, diễn đạt
lủng củng, sai nhiều lỗi chính tả, dùng
từ thiếu chính xác.
- Điểm 1, 2: Thiếu 2/3 số ý, không biết
diễn đạt bằng lời văn của mình, sao y
văn bản.
- Điểm 0: Làm lạc đề hoặc khơng làm
được gì…
2. Ghi điểm

Hoạt động 6: Hướng dẫn HS biện
pháp sau kiểm tra
- GV yêu cầu HS chữa lại lỗi sai

VI. Biện pháp sau kiểm tra
- Chữa lại lỗi sai về chính tả, lỗi diễn
đạt
19

skkn


vào vở và về nhà làm lại bài văn
vào vở bài tập.

- Làm lại bài văn vào vở bài tập

c. Hot ng luyn tp (5)

Hoạt động của GV - HS

Nội dung CầN đạT

- GV yờu cu HS trao i bi với bạn - HS đọc bài, tìm lỗi và chữa lỗi
bên cạnh và chữa lỗi cho nhau.
D. Hoạt động vận dụng (5 phút)
- GV yêu cầu HS viết lại phần mở bài và kết bài mới.
- HS viết vào vở nháp.
E. Hoạt động tìm tịi, mở rộng (5 phút)
- Tìm đọc thêm các tài liệu tham khảo, sách nâng cao về văn biểu cảm
- HS về nhà chữa lại những lỗi sai vào vở.
- Tổng hợp lỗi sai và rút ra kinh nghiệm cho bản thân để lần sau khắc phục.
- Soạn bài Làm thơ lục bát.
* KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Sau một thời gian áp dụng nghiêm túc quy trình chấm - trả bài làm văn trên,
tôi vừa thực hiện vừa ghi nhận kết quả trong từng tiết trả bài. Điều quan trọng đầu
tiên tơi nhận thấy đó là tay nghề của người thầy đã được nâng cao hơn. Thứ hai là
qua đối chiếu so sánh, phân tích, tổng hợp, tơi nhận thấy đại đa số học sinh đã có
những chuyển biến tích cực trong việc làm bài viết cũng như trong giờ học tiết trả
bài làm văn, chất lượng dạy - học bộ môn cũng được nâng lên đáng kể. Cụ thể:
Học sinh hào hứng, chủ động, tích cực hơn với giờ trả bài Làm văn cũng
như việc học tập mơn Ngữ Văn. Các em đã hình thành thói quen phân tích đề, tìm
ý và lập dàn ý trước khi làm bài. Các lỗi cơ bản đã giảm nhiều, số bài viết bị điểm
yếu kém cũng giảm và số bài đạt điểm từ trung bình trở lên đã tăng dần. Kỹ năng
tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết mở bài, kết bài ở nhiều học sinh đã trở nên thuần thục
hơn,… Một số học sinh có khả năng đã viết được những đoạn, những bài văn hay.
Nói chung sự tiến bộ của các em thể hiện cụ thể qua từng bài viết. Bảng
thống kê điểm số của học sinh qua các bài làm văn dưới đây phần nào thể hiện
được hiệu quả của việc áp dụng đề tài này trong việc dạy môn Ngữ Văn của chúng

tôi tại trường THCS .
Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy ở các khối lớp 7 trường
THCS nơi tôi đang giảng dạy như sau:
20

skkn



×