Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước trong sạch,vững mạnh và sự vận dụng thực tiễn vào nhà nước pháp quyền xã hộichủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.4 MB, 25 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MƠN: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh và sự vận dụng thực tiễn vào Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Học viên: Nguyễn Thu Ngân
Mã sinh viên: 2154030052
Lớp tín chỉ: TH01001_03_TT HỒ CHÍ MINH K41

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................2
NỘI DUNG.............................................................................................5
Chương 1:Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch vững
mạnh......................................................................................................................5
1.1.Kiểm soát quyền lực của Nhà nước
1.1.1.Nguyên nhân cần phải kiểm sốt quyền lực Nhà nước................................5
1.1.2.Một số hình thức kiểm sốt..........................................................................6
1.2.Đề phịng, khắc phục các hoạt động tiêu cực trong Nhà nước
1.2.1.Đặc quyền, đặc lợi........................................................................................9
1.2.2.Tham ơ, lãng phí, quan liêu........................................................................10
1.2.3.Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.........................................................................11
1.3.Quản lý đất nước nghiêm minh trong khuôn khổ “pháp trị” và “đức trị”


1.3.1.Tăng cường áp dụng pháp luật...................................................................12
1.3.2.Đẩy mạnh giáo dục đạo đức pháp luật Cách mạng....................................14
1.3.3.Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ sức đủ tài…………………………………..15
Chương 2: Sự vận dụng thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay....................................18
2.1.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch
2.1.1.Xây dựng kiện toàn và cải cách toàn diện bộ máy hành chính nhà nước...19
2.1.2.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước……………………20
2.2.Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
2.2.1.Xây dựng và đảm bảo một cơ chế làm chủ cho nhân dân………………..21
2.2.2. Tăng cường pháp luật đi đôi đẩy mạnh giáo dục đạo đức cho nhân dân..22
KẾT LUẬN……………………………………………………………………23
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………24
1


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh và sự vận dụng thực tiễn vào Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Mỗi một thời đại lịch sử của nhân loại sẽ gắn liền với những vị lãnh tụ vô
cùng nổi bật và xuất chúng, tài năng, tư tưởng cũng như sự nghiệp của họ có thể
coi là những dấu ấn chói lọi trong lịch sự thời đại. Những vĩ nhân như Mác,
Anghen, V.I.Lenin, hay Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là những người đã cống
hiến trọn vẹn cuộc đời mình để mang đến những tinh hoa cho dân tộc và thời
đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ đáng quý của dân tộc Việt Nam, người

đã sáng lập ra Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với cương vị của Chủ
tịch nước Người luôn đề cao và nhắc nhở về xây dựng một đất nước Việt Nam
mà bên trong phải là một Nhà Nước trong sạch, vững mạnh và hiệu quả. Người
đã vận dụng một cách sáng tạo, chọn lọc cặn kẽ những tinh hoa, văn hóa của dân
tộc và thời đại được hình thành từ học thuyết về nhà nước xã hội chủ nghĩa của
Mác- Lenin nhằm xây dựng Nhà nước ta trong sạch vững mạnh và hiệu quả.
Trong tư tưởng xây dựng đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà
nước trong sạch vững mạnh hiệu quả phải là một nhà nước thật sự “của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân” bên cạnh đặc quyền đó thì người dân phải
biết sống và làm việc tuân thủ theo quy định của Hiến Pháp và pháp luật mà nhà
nước đã đề ra. Chủ trương của Người là đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ cán
bộ chính quyền cách mạng thấm nhuần tinh thần và bản chất của nhà nước ta và
luôn đặt quyền lợi nhân dân lên hàng đầu: “dân là chủ, cán bộ là đầy tớ trung
thành của nhân dân”. Bên cạnh đó Hồ Chí Minh cịn ln đề cao vai trị của
2


giáo dục pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội và đời sống của nhân dân.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mơ hình Nhà nước trong sạch và vững
mạnh cho tới hiện nay vẫn phát huy thành quả tích cực trong suốt sự nghiệp
cách mạng của dân tộc Việt Nam hơn 60 năm qua. Trong thời kì xã hội đổi mới
hiện nay thì di sản tư tưởng của Người vẫn luôn được Đảng và Nhà nước ta tiếp
tục vận dụng sáng tạo trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Trong thời kỳ nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những khó
khăn, thử thách thì mục tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một đất
nước mà dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, cùng với
một thể chế nhà nước pháp quyền “TRONG SẠCH-VỮNG MẠNH-HIỆU QUẢ”
chính là điều kiện tiên quyết và là nền tảng để ta xây dựng thành cơng xã hội
chủ nghĩa. Do đó, tơi chọn đề tài này để có thể nghiên cứu chi tiết hơn về tư

tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Cơ sở lý luận cốt yếu, quan trọng, có sức ảnh hưởng nhất để hình thành
nên tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước chính từ học thuyết Mác-Lenin về nhà
nước nói chung, nhà nước chuyên chính vơ sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa
nói riêng.
Đối với tất cả các nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa thì có thể
có những chính sách rất khác nhau, nhưng trong quan điểm chủ nghĩa MácLenin thì chúng chỉ là một: chun chính cách mạng của giai cấp vô sản. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa luôn đặt quyền lợi nhân dân lên hàng đầu, với chủ trương
xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh “của nhân dân do nhân dân và vì
nhân dân”
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin đã góp phần khơng nhỏ vào
việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề hạn chế của
nhà nước, hiểu rõ bản chất tổ chức bộ máy nhà nước để từ đó xây dựng và hồn
thiện bộ máy nhà nước Việt Nam.
3


=> Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-lenin về vấn đề nhà nước
nói chung, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng là cơ sở lý luận khoa học để
Người đánh giá, khảo sát thực tiễn về việc xây dựng nhà nước một cách chính
xác, khách quan. Sau khi đánh giá khảo sát Người đã chọn lọc một cách khoa
học những điều phù hợp với nhà nước ta, từ đó mà hình thành nên tư tưởng Hồ
Chí Minh thật sự cách mạng, soi sáng, dẫn đường trở thành nền tảng tư tưởng
của đường lối xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
Đảng ta.
Kết hợp giữa phương pháp luận là chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí
Minh sẽ giúp bài luận có tính tư duy va logic cao hơn, đem lại hiệu quả và sức
thuyết phục rõ rệt hơn. Bên cạnh đó tơi cịn sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp để có thể nghiên cứu sâu hơn bài luận về đề tài này.


4


NỘI DUNG
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch và vững
mạnh

1.1.Kiểm soát quyền lực của Nhà nước
1.1.1.Nguyên nhân cần phải kiểm soát quyền lực Nhà nước
Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất
của Nhà nước pháp quyền XHCN đó là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước
mà quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền.
Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao
cho Nhà nước thay mình thực hiện
=> Vì vậy để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước
hoạt động có hiệu quả, phịng chống thối hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ
Nhà nước, Hồ Chí Minh rất chú trọng vấn đề kiểm sốt quyền lực nhà nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”

5


Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
cũng xác định tầm ảnh hưởng to lớn của những người nắm quyền lực trong tay.
Đặc biệt là các cơ quan nhà nước, cán bộ, là những người điều hành, nắm giữ
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên cán bộ phải luôn nhớ rằng quyền lực này là do
sự tin tưởng của nhân dân ủy thác vì thế mà họ phải ln làm hết chức trách của
mình, khơng thể chỉ vì có quyền lực mà trở nên lạm quyền, làm phụ sự tin tưởng

của nhân dân. “Phải nhốt quyền lực vào trong lịng cơ chế” khơng được để
“nhân dân ghét các ông chủ tịch, các ông Ủy viên vì cái tật ngơng nghênh, cậy
thế, cậy quyền. Những ơng này khơng hiểu nhiệm vụ và chính sách của Việt
Minh, nên khi nắm được chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng”.
=> Để xây dựng một nhà nước mà nhân dân tin tưởng, cống hiến, nghe theo
thì phải đảm bảo tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân, cán bộ nhà nước phải
biết lắng nghe nhân dân và kiểm soát quyền lực nhà nước tối ưu nhất.
1.1.2.Một số hình thức kiểm sốt
* Thường xun, nghiêm túc tự phê bình và phê bình:

6
Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, là Đảng cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, Đảng có quyền và có trách nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà


nước, vì vậy Đảng ta phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách,
nghiêm túc phê bình và tự phê bình thì nhà nước mới vững mạnh, hiệu quả . Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một
đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những
cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó,
rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng
tiến bộ,chân chính để người dân có thể tin tưởng noi theo”.
Để nhà nước trong sạch, vững mạnh, Đảng và mỗi cán bộ đảng viên cần phải
tự giác thừa nhận sai lầm, “nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa
sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm trịn
nghĩa vụ của mình”. Cán bộ cấp trên phải làm gương mẫu thật thà tự phê bình,
phải hoan nghênh khuyến khích mọi người phê bình mình, từ đấy các cán bộ,
đảng viên cấp dưới sẽ noi theo, làm việc, cống hiến hết mình để xây dựng nhà
nước, nhân dân vững mạnh.
* Chú trọng thực hiện công tác kiểm tra và giám sát:

Kiểm tra và giám sát là điểm xuất phát, là khâu trung tâm trong phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng thường xuyên “kiểm tra Đảng mới huy đơ ^ng được tinh thần tích cực và lực
lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bô ^, mới
sửa chữa và giúp đ` kịp thời”. Thực tế cho thấy, “kiểm tra không nên chỉ bằng
cứ vào các tờ báo cáo, mà phải đi đến tận nơi”… do đó, phải kiểm tra tại cơ sở,
phải thông qua công tác kiểm tra để xem "những nghị quyết đó đã thực hành
được đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia
hay khơng", để vừa phát huy ưu điểm, phát hiện cái mới, cái tốt hơn nhằm điều
chỉnh phương thức lãnh đạo sát hợp hơn; đồng thời, ngăn ngừa, khắc phục
những biểu hiện quan liêu, xa dân, không sâu sát thực tiễn trong phong cách
7
công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, của người đúng đầu.
Để cơng tác kiểm tra và giám sát góp phần làm cho việc kiểm soát quyền lực


được thực thi hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Các ủy ban và cán bộ kiểm tra
phải học tập và thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, phải luôn luôn chú
ý nâng cao khả năng chuyên môn, phải cố gắng công tác, phải trau dồi đạo đức
cách mạng. Đặc biệt là phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà
phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật. Phải
chí cơng vơ tư, khơng thiên vị, khơng thành kiến. Như thế thì mới làm tốt được
cơng tác kiểm tra”. Trong đó, tự người lãnh đạo phải tiến hành việc kiểm tra;
phải tổ chức một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm, giàu năng lực để giúp người
lãnh đạo đi kiểm tra; đồng thời người đi kiểm tra phải nâng cao trách nhiệm
cơng tác, “ai đi kiểm tra việc gì, nơi nào nếu có sơ suất thì người ấy phải chịu
trách nhiệm”. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, góp phần ngăn ngừa
những biểu hiện hách dịch, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực, v.v.. gây bức xúc
trong, đe dọa sự tồn vong của Đảng và các cơ quan công quyền.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, mọi quyền lực Nhà nước

đều bắt nguồn từ nhân dân, vì thế nhân dân có quyền kiểm sốt quyền lực Nhà
nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải tổ chức sự kiểm sốt, mà muốn kiểm
sốt đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Đảng cầm quyền cần
chú ý phát huy vai trị kiểm sốt quyền lực của nhân dân, bởi so với số nhân dân
thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một đảng viên. Nếu
khơng có nhân dân giúp sức, thì Đảng khơng làm được việc gì hết. Đối với Nhà
nước, là công bộc của dân, “mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng, hoan
nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”.
1.2.Đề phòng, khắc phục các hoạt động tiêu cực trong Nhà nước
Một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân sẽ thật sự được
thực thi nếu đó là một Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Khi đất nước mới
giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng
8


chuyển sang giai đoạn mới, Hồ Chí Minh ln đề cao sự trong sạch, vững mạnh
của các cấp chính quyền Đảng và nhà nước, bởi lẽ trong giai đoạn đấy nhà nước
ta phải đối mặt với những thách thức dễ khiến đội ngũ cán bộ các cấp bị tha hóa.
Trong bức thư Hồ Chí Minh gửi cho Ủy ban nhân dân các kỳ tỉnh huyện,…
Người đã chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng để xây dựng Nhà nước trong sạch là:
“trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo”. Người nhắc nhở “
Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết được sai lầm thì phải ra sức sửa
chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh để
tiến bộ lên. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu
khơng tự sửa chữa thì Chính Phủ sẽ khơng khoan dung. Vì hạnh phúc của dân
tộc, vì lợi ích của nước nhà mà tơi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ
“cơng bình, chính trực” vào lịng”.
1.2.1.Đặc quyền, đặc lợi

Để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh cần có những chính sách, quy

định để tẩy trừ thói lộng quyền của những người làm trong cơ quan chính quyền
lạm dụng quyền lực để hách dịch, vơ vét tiền bạc của dân, có những hành vi
tham nhũng tiêu cực để có lợi cho cá nhân mình.
=> Cần phải khẩn thiết bài trừ những đặc quyền, đặc lợi này của những cán
9
bộ, chính quyền khơng nghiêm túc, để trả lại sự công bằng, tin tưởng cho nhân
dân và sự trong sạch cho bộ máy Nhà nước.


1.2.2.Tham ơ, lãng phí, quan liêu:

Với Hồ Chí Minh một nhà Cách mạng chân chính phải là một người khơng
chỉ chí cơng vơ tư mà cịn phải cần kiệm liêm chính. Đừng để cốt cách , phẩm
chất của bản thân cuốn theo những danh vọng vô thực, tham ô, lãng phí, quan
liêu chính là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn cả
giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của cơng dùng vảo việc tư,
quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ơ, lãng
phí và bệnh quan liêu dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân
và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
Ngày 27/11/1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 223 ấn định hình phạt tội
đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt
gấp đơi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26/1/1947, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội phạm tham ơ, trộm cắp của
cơng là tội tử hình.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt như: lãng phí sức
lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. => Chống lãng phí là biện pháp
để tiết kiệm ngân sách của nhà nước và nhân dân. Đây cũng là vấn đề quốc sách
quan trọng của mọi quốc gia.

10.


Hồ Chí Minh đã chỉ rõ ra rằng bệnh quan liêu là thứ bệnh giấy tờ, mệnh lệnh,
hành chính, xa dân, khinh dân, thiếu hiểu biết dân, không tin dân và không yêu


thương nhân dân. Bệnh quan liêu thường gắn với lãng phí, tham ơ, tham nhũng,
trốn trách nhiệm, chủ quan kiêu ngạo, dân chủ hình thức, miệng nói “ phụng sự
quần chúng” nhưng việc làm ngược lại với lợi ích quần chúng.
Quan liêu là đối lập với dân chủ, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thối hố,
biến chất trong tổ chức bộ máy nhà nước. Quan liêu nảy sinh ở mọi cấp, mọi
ngành. Đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước thực
hiện đến đâu, những tiêu cực nhất là trong lĩnh vực kinh tế, những tệ nạn xã hội
vẫn chậm được khắc phục. Những đau thương, mất mát trong chiến tranh, những
khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống vần còn hiện hữu trong nhiều vùng, nhiều
gia đình chưa được khắc phục. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính
sách thiết thực, tạo những điều kiện thuận lợi để từng bước vượt qua những khó
khăn thử thách, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Nhưng một số cán
bộ chỉ lo thu vén cá nhân, lợi dụng vị trí cơng tác của mình để đục khoét tiền của
của nhân dân.
=> Có thể khẳng định tình trạng bất bình dẳng và tệ tham nhũng là hiểm hoạ
lớn nhất của sự nghiệp cách mạng.
1.2.3.Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo
Những căn bệnh trên gây mất đoàn kết, gây rối cho cơng tác. Hồ Chí Minh
kịch liệt lên án tệ nạn kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình khơng tài
năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng khơng vừa
lịng mình thì đẩy ra ngồi. Trong chính quyền, cịn hiện tượng gây mất đồn
kết, khơng biết cách làm cho mọi người hồ thuận với nhau, cịn có người
“bệnh vực lớp này, chống lại lớp khác”.
Ngoài bệnh cậy thế, có người cịn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan
Chính phủ là thần thánh rồi…cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng”

làm mất uy tín của Chính phủ.
11
1.3.Quản lý đất nước nghiêm minh trong khn khổ “pháp trị” và “đức trị”
1.3.1.Tăng cường áp dụng pháp luật


Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, tại phiên họp đầu
tiên của Chính phủ 3-9-1945 , trong 6 nhiệm vụ cấp bách, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề ra nhiệm vụ thứ ba là “chúng ta phải có ngay một hiến pháp dân chủ; phải tổ
chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thơng đầu phiếu” để
sớm có một Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
Ngày 17-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định thể Tổng tuyển
cử. Ngày 20-9-1945, Người ký Sắc lệnh 34 thành lập Ủy ban dự thảo hiến pháp
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa để chuẩn bị đệ trình Quốc hội. Chính phủ
liên hiệp kháng chiến được Quốc hội họp phiên đầu tiên ngày 2-3-1946 bầu ra
Chính phủ hợp hiến đầu tiên có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết
mọi vấn đề đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, Việt Nam từ một nền văn hóa nơng
nghiệp, trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến chuyên chế và hàng
trăm năm dưới chế độ thực dân cũng không kém phần chuyên chế, chúng ta
không thể đi nhanh tới việc xác lập một nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên phải
nhấn mạnh tới vai trò của pháp luật trong quản lý điều hành đất nước và phải có
những hoạt động tích cực, kịp thời để từng bước hồn thiện hệ thống pháp luật.
Nói tới pháp luật của chế độ mới dân chủ cộng hịa là phải gắn với dân chủ, hai
nội dung đó nương tựa vào nhau. Pháp luật là bệ đỡ của dân chủ và khơng thể có
dân chủ ngồi pháp luật. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi quyền dân chủ phải
được thể chế hóa bằng pháp luật và pháp luật bảo đảm cho quyền tự do dân chủ
được thực thi trong thực tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo đưa pháp luật vào cuộc sống, làm
cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế, tạo cơ chế bảo đảm cho pháp luật được

thi hành. Đối với một nước dân chủ, Hồ Chí Minh quan tâm tới năng lực làm
chủ của người dân. Trước đây, dưới chế độ cũ, bọn thực dân phong kiến tìm
12
cách làm cho dân ngu để dễ trị. Trong chế độ mới, Hồ Chí Minh quan tâm giáo
dục lại nhân dân, nâng cao dân trí, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân


chủ, biết dựng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Pháp luật chỉ có hiệu
lực trong thực tế khi nhân dân có những hiểu biết nhất định về văn hóa, chính
trị, về pháp luật, về quyền cơng dân. Người dân chỉ có thể “dám mở mồm ra” –
như cách nói của Bác Hồ – khi có những hiểu biết nhất định về pháp luật.
Tư tưởng “pháp trị” của Người bảo đảm tính khoa học, hiệu lực và nghiêm
minh của pháp luật. Hơn hai tháng sau khi tuyên bố độc lập, ngày 23- 11-1945,
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64- SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và
một Tồ án đặc biệt có nhiệm vụ giám sát và xét xử các sai phạm của các nhân
viên từ trong các uỷ ban nhân dân các cấp đến cơ quan cao nhất của chính quyền
Bốn ngày sau khi ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và Tồ án đặc
biệt, Hồ Chí Minh lại ký tiếp Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ
sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
=> Như vậy chỉ sau 4 tháng ngày tuyên bố nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí
Minh đã tập trung cao độ cho việc xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch,
chống mọi hiện tượng tham nhũng tiêu cực trong chính quyền Nhà nước.
Tờ báo Cứu quốc số 153 ngày 28/01/1946 đã thế hiện những trăn trở của Hồ
Chí Minh với vận nước, với “nền dân chủ mới chưa hoàn toàn”. Sau khi khẳng
định những nhiệm vụ đã hoàn thành tốt của Đảng người cũng đã “tự phê bình”
những điểm cịn hạn chế thiếu sót. Người thừa nhận:“tuy nhiều người trong ban
hành chính làm việc tốt và thanh liêm, song cái tệ tham ô, nhũng lạm chưa quét
sạch”.
Theo Hồ Chí Minh quyền lực được đặt trong mối tương quan giữa cán bộ
công chức với nhân dân. Người dân khơng thể có quyền hành, quyền lực; chỉ có

cán bộ cơng chức mới có quyền hành, quyền lực. Người viết: “Những người
trong các cơng sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu khơng giữ đúng Cần,
Kiệm, Liêm, Chính, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.
13


Sau này Người lại viết: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp
cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp
đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nghiêm minh của pháp luật thật rõ ràng, dứt
khoát: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa
vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Trong kháng chiến chống Pháp (9-1950), án tử
hình của Trần Dụ Châu, Đại tá, Cục trưởng Cục quân nhu, phạm tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, bớt xén phần cơm áo của bộ đội để sống trác táng, trụy lạc.
Bác đã tâm sự với Trần Đăng Ninh trước khi ký bác đơn chống án của Trần Dụ
Châu: “Với loài sâu mọt đục khét nhân dân, nếu phải giết đi một con mà cứu
được cả rừng cây, thì việc đó là cần thiết, hơn nữa là nhân đạo”
1.3.2.Đẩy mạnh giáo dục đạo đức pháp luật Cách mạng
Trong xã hội hiện đại, luật pháp ngày càng đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, nhưng
điều tiết mọi hành vi thì đâu chỉ có luật pháp. Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý
cả “đức trị” và “pháp trị”, xử lý mọi cơng việc phải vừa có lý, vừa có tình, ngay
cả căn dặn hậu thế giải quyết sự bất đồng trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, khôi phục tình đồn kết giữa các đảng cộng sản anh em. Người
luôn quan niệm rằng để thực hiện tốt được pháp luật hay bất kỳ việc gì đi chăng
nữa thì trước hết vẫn cần phải có cái đức.
Để xây dựng một Nhà nước tồn vẹn, trong khn khổ khơng chỉ về pháp
luật mà còn là đạo đức của mỗi cá nhân cán bộ và người dân. Quan trọng là phải
giáo dục nhân dân hiểu biết về pháp luật vì điều đó tạo ra tính chủ động của
người dân trong thực thi pháp luật. Nhưng cán bộ – nhất là cán bộ ngành tư pháp
phải làm gương trong việc tuân thủ pháp luật.

Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc tháng 2-1948, Hồ Chí Minh viết:
“Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có cái trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là làm
gương cho dân trong mọi việc… Các bạn là những người phụ trách thi hành
14


pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “phụng cơng thủ pháp”
chí cơng vơ tư cho nhân dân noi theo”. Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng,
mẫu mực trong việc thực thi pháp luật.
1.3.3.Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ sức đủ tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt coi trọng cơng tác cán bộ và
ln đặt nó lên vị trí hàng đầu trong xây dựng Đảng và chính quyền nhà
nước. Để xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu quả thì cơng
tác cán bộ đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Đội ngũ cán bộ Đảng và nhà nước
khơng chỉ là đầu tàu trong cách mạng giải phóng dân tộc mà cịn là những người
có vị trí quan trọng, đại diện trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay.
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết Chủ tịch Hồ Chí
Minh thấy rất rõ vị trí, vai trị của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”. “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. “Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là
có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.

15


Vì vậy, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc
biệt đến việc đào tạo, đánh giá và sử dụng cán bộ, giao cho họ những trọng trách
và giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó. Để có được những cán
bộ ưu tú một lịng vì Đảng, vì dân, theo Hồ Chí Minh người cán bộ phải có

những phẩm chất đạo đức cách mạng sau:
* Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân.
Đây là biểu hiện cao nhất ý thức đạo đức của người đảng viên nói chung,
đặc biệt với những đảng viên là cán bộ, sĩ quan, công nhân viên, chiến sĩ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Đó cịn là biểu hiện cao nhất của lịng
trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là cơ sở để định hướng nhận
thức và hành động, tạo thành niềm tin vững chắc và sức mạnh to lớn để mỗi
đảng viên ln hồn thành chức trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó.
Người chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm
chủ” và “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội
tiên phong của dân tộc” lãnh đạo sự nghiệp cách mạng; đảng viên cũng là con,
em của nhân dân và cũng chính “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội” ;
do đó, đối với mỗi đảng viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trung với nước
phải luôn gắn liền với trung với Đảng, hiếu với dân.
* Đoàn kết, yêu thương đồng chí, đồng đội, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Đồn kết, nhân ái ln là truyền thống q báu của dân tộc Việt Nam. Ở thời
đại Hồ Chí Minh, truyền thống đó được hun đúc và phát triển lên một tầm cao
mới, là cơ sở để tạo thành sức mạnh vô địch của dân tộc, giúp Quân đội nhân
dân Việt Nam đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, Người căn dặn: “...cần phải đoàn kết hơn
nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến
sĩ và cán bộ, giữa quân và dân. Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta
để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”. Người cịn căn dặn: “Người đội
16


trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội
viên”, bởi trong quân đội, người đội trưởng, người chính trị viên là những người
đảng viên trực tiếp, hằng ngày tiến hành công tác giáo dục, rèn luyện và quản lý
bộ đội; vì thế, có tình cảm gắn bó đó mới lan tỏa tinh thần đồn kết, xây dựng

được sự tin tưởng, thương yêu của đồng chí, đồng đội, mới sẵn sàng sẻ chia và
giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là một phẩm chất quan trọng, là nền
tảng đạo đức của người quân nhân cách mạng nói chung, của người đảng viên
trong quân đội nói riêng. Người chỉ rõ: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính của ta là đạo
đức của người quân nhân cách mạng. Các chú phải thực hiện đạo đức đó”;
đồng thời, phải “Tu sửa mình cho kỳ giữ được chí cơng vơ tư, đối với việc phải
sáng suốt, đối vật không tham lam, gắng làm kiểu mẫu, làm kiểu mẫu cho bộ
đội, cho nhân dân”. Người luôn đặt niềm tin và yêu cầu đội ngũ đảng viên trong
quân đội phải rèn luyện toàn diện các phẩm chất đạo đức của người quân nhân
cách mạng: “Phải làm sao cho trong qn đội ta khơng có tham ơ lãng phí”.
* Tinh thần quốc tế trong sáng
Trong Thư gửi các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào,
Người chỉ rõ “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Đồng thời,
Người nhắc nhở mỗi cán bộ, chiến sĩ, trong đó có đội ngũ đảng viên trong quân
đội, phải luôn biết ơn sự giúp đỡ to lớn của nhân dân, chính phủ và quân đội các
nước anh em trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược. Thấm nhuần tư tưởng đó, nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ tình nguyện
Việt Nam đã khơng quản ngại hy sinh, gian khổ, vượt qua mọi khó khăn, tham
gia chiến đấu, cơng tác trên các chiến trường Lào và Campuchia, viết nên những
trang sử sáng ngời về đạo đức cách mạng của người cán bộ, chiến sĩ Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo
17


đức cho đội ngũ đảng viên trong quân đội, trước hết là lý tưởng cách mạng, lòng
trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững bản chất giai
cấp công nhân, kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có

giác ngộ sâu sắc lý tưởng đó, người đảng viên trong quân đội mới đủ khả năng
hoàn thành nhiệm vụ nặng nề, dám hy sinh quyền lợi của bản thân và gia đình,
đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết, trước hết.
Để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên: “Thấy
khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan
chống lại những sự vinh hoa, phú q, khơng chính đáng. Nếu cần, thì có gan
hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”.
Đồng thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ đảng viên trong quân đội ở bất
kỳ hoàn cảnh nào cũng phải nâng cao kiến thức toàn diện. Người căn dặn:
“Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, quân sự. Phải học tập chính trị:
Quân sự mà khơng có chính trị như cây khơng có gốc, vơ dụng lại có hại” và
muốn hồn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị, chức trách đảm nhiệm, đòi hỏi
người đảng viên trong quân đội “Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán bộ và chiến sĩ,
đoàn kết quân dân, đoàn kết với các nước anh em”.
Chương 2: Sự vận dụng thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

18
2.1.Vận
dụng



tưởng

Hồ

Chí Minh về
xây dựng bộ
máy nhà nước trong sạch



Trong điều kiện hiện nay, trước xu thế hội nhập và tồn cầu hóa, chúng ta phải
phát huy cao độ nội lực của dân tộc. Trong đó, cần phát huy đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân trong mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã
hội. Điều đó được thể hiện như sau:
2.1.1.Xây dựng kiện tồn và cải cách tồn diện bộ máy hành chính nhà nước
Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả, đủ khả năng hiện thực hóa đường lối lãnh đạo của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống. Một nền hành chính dân
chủ, vững mạnh khơng thể là một bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, thiếu trật tự,
kỷ cương, mà phải là một bộ máy gọn nhẹ, có trật tự, kỷ cương, năng động, gần
dân, có kiến thức và năng lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đó là nền hành
chính có đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, có lối sống văn minh, tận tụy,
công tâm, không quan liêu, hách dịch, tham nhũng để phục vụ tốt nhân dân.
Xây dựng nhà nước luôn đi đôi với khắc phục những căn bệnh cố hữu của các
nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng
thời, kiên quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”,
“dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ơ, lãng phí, quan liêu . Theo
Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc
vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu

19



về đạo đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với
những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, cơng chức, giữ cho Nhà
nước luôn trong sạch, vững mạnh.
2.1.2.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Gắn việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính. Vai trị
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định xã hội, đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Cải cách bộ máy hành chính phải đi liền với
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới Đảng, Đảng có trong sạch,
vững mạnh thì mới lãnh đạo được Nhà nước thực hiện nhiệm vụ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong
các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong
cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”, toàn tâm, tồn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng
cao bản lĩnh chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ công chức nhà nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống
chính trị, pháp luật, quản lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao động khoa học
và tâm lý quản lý,...
Tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân , đáp ứng địi hỏi
của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới.
Bởi, thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là
nhân tố quyết định để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ
khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng
đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa .

20



2.2.Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa do
nhân dân lao động làm chủ thì mới có điều kiện đảm bảo quyền làm chủ thực sự
của nhân dân. Muốn phát huy quyền làm chủ của nhân dân cần phải:
2.2.1.Xây dựng và đảm bảo một cơ chế làm chủ cho nhân dân
Xây dựng và đảm bảo một cơ chế làm chủ, nghĩa là tạo ra các điều kiện cần
thiết để nhân dân là lực lượng chủ yếu vận hành mọi hoạt động trong xã hội.
Điều đó địi hỏi phải xây dựng một Hiến pháp thích hợp với sự phát triển của
chế độ dân chủ, phải có pháp luật thật sự dân chủ, phải có bộ máy chính quyền
tinh gọn, nhạy bén với những con người có trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt.
Như vậy, cốt lõi của cơ chế làm chủ là hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra hành
lang pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lựa chọn
thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân quyết định
những công việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
=> Thực tiễn đã chỉ rõ, chừng nào và khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện
để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra
dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và
quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa
phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Trong thời kì xã hội ngày càng phát triển thì các thế lực thù địch lợi dụng
chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo,
xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta ngày càng nhiều.
=> Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận
lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình tham gia vào quản
lý nhà nước, quản lý xã hội.

21


2.2.2. Tăng cường pháp luật đi đôi đẩy mạnh giáo dục đạo đức cho nhân dân
Theo Chủ tích Hồ Chí Minh nước ta là một Nhà nước thật sự “của dân do
dân vì dân”, nhân dân lao động chính là những người làm chủ xã hội.
=> Vì vậy cần tuyên truyền, giáo dục để nâng cao trình độ và ý thức làm chủ
của nhân dân. Mỗi người dân Việt Nam cần thấm nhuần lời dạy của Bác: “Mọi
người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến
thức mới để tham gia vào cơng việc xây dựng nước nhà”.
Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và
“chống”, không được coi nhẹ mặt nào.
+ Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân
dân, trước hết là cán bộ, cơng chức, đảng viên, những người có chức, có quyền
sau là nhân dân, mọi tầng lớp trong xã hội đều cần phải trau dồi đạo đức cách
mạng.
+ Chống là chống lại và loại bỏ những tiêu cực còn tồn đọng như chủ nghĩa
cá nhân, phải dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật kể cả cán
bộ và nhân dân nếu có hành vi thối hóa đạo đức, làm hại đất nước.
Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở
cùng gần nhau, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhau, bàn bạc và học hỏi
kinh nghiệm của nhau thì mới có thể xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, công bằng và đáp ứng được các yêu cầu của nhân dân và xã hội.

22.


KẾT LUẬN
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tư tưởng “lấy

dân làm gốc” cuả mình. Người là một vị lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của dân tộc
ta, tất là một nhà cách mạng cống hiến cả cuộc đời mình cho dân tộc, những
việc, những tư tưởng mà người răn dạy đều luôn hướng đến nhân dân của mình.
Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân đã và đang được Đảng ta noi theo
học tập, bảo vệ và gầy dựng để phát triển đất nước.
“Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã được phát triển sâu sắc, phong phú về nội
dung, với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học nhân đạo về bản
chất nhà nước mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân; nhà nước trong sạch,
vững mạnh và hiệu quả”.
Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả có giá trị lý luận và thực tế to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc
xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Bên cạnh những thành tựu nhất định trong quá trình đổi mới thì Nhà nước ta
cũng có những khó khăn nhất định. Tuy nhiên việc hoàn thiện nhà nước theo
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và
trực tiếp đến quá trình đổi mới đất nước nói chung và cá nhân nói riêng. Q
trình đổi mới đất nước chưa bao giờ là dễ dàng, nhưng với xã hội ngày càng
phát triển và đi lên gắn theo nó là địi hỏi phải tăng trưởng, phát triển theo để
khơng bị bỏ lại. Vì thế mà nó địi hỏi Đảng, nhà nước và nhân dân ta cần có
những bước đi và giải pháp khẩn trương nhưng cũng phải vững chắc trong tiếp
tục cải cách triệt để hơn nữa tổ chức và hoạt động của nhà nước để đáp ứng
được tình hình mới giúp nhà nước ta chấn hưng dân tộc và hội nhập với thế giới.

23.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh (Bộ giáo dục và đào tạo Việt Nam)
2. Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả.

/>3. Tạp chí Tổ chức Nhà nước
/>nuoc_phap_quyen_o_nuoc_ta_hien_nayall.html
4. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
/>5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
/>6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh
/>
24


×