Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

KIẾN TRÚC THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.36 KB, 28 trang )

KIẾN TRÚC
THÁNH ĐỊA
CÁT TIÊN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ DI TÍCH CÁT TIÊN .......................................... 3
1.1 Địa điểm phân bố .............................................................................................. 3
1.2 Qúa trình phát hiện và khai quật ....................................................................... 3
CHƯƠNG 2. KIẾN TRÚC THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN .......................................... 7
2.1 Vật liệu xây dựng kiến trúc ............................................................................... 7
2.1.1 Gạch ............................................................................................................ 7
2.1.2 Đá ................................................................................................................ 8
2.1.3 Ngói lợp ...................................................................................................... 9
2.2 Các loại hình Kiến Trúc .................................................................................. 10
2.2.1 Đặc điểm chung của loại hình kiến trúc dạng tháp................................... 10
2.2.2 Đặc điểm riêng .......................................................................................... 10
2.2.3 Kiến trúc dạng đền tháp ............................................................................ 10
2.2.4 Kiến trúc mộ ............................................................................................. 11
2.2.5 Kiến trúc đài thờ: kiến trúc số 5, số 7. ...................................................... 11
2.2.6 Kiến trúc "nhà dài": kiến trúc 2C và 2D,8C,8D. ...................................... 12
2.2.7 Kiến trúc hệ thống dẫn nước................................................................... 13p
2.2.8 . Máng nước thiêng ................................................................................... 13
2.2.9 Đường đá cổ .............................................................................................. 13
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA HỌC GIẢ VỀ THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN15
3.1 Về kỹ thuật xây dựng ...................................................................................... 15
3.2 Vấn đề niên đại................................................................................................ 16
3.3 Vấn đề chủ nhân và vị trí của di tích Cát Tiên trong lịch sử .......................... 17
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢOTÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................... 21




MỞ ĐẦU
Qua quá trình tìm kiếm và đào bới các nhà khảo cổ đã phát hiện ra rất
nhiều di tích khảo cổ. Trong đó có nhiều di tích nằm lộ thiên như hệ thống
kiến trúc tháp chăm nhưng cũng có rất nhiều di tích bị chơn vùi trong lịng
đất. Các di tích này nằm đều trên đất nước Việt Nam với nhiều niên đại khác
nhau từ thời đá củ cho đến thời đại kim khí với nhiều loại hình di tích như.
Thành qch, mộ táng, di tích cư trú, cơng xưởng, bến cảng, đền chùa….
Trong đó có rất nhiều di tích có giá trị cao như hệ thống tháp chăm, di tích cát
tiên, văn hóa Sa huỳnh, văn hóa sơng Đồng nai. Trong đó di tích cát tiên đây
là một khu di tích lớn ở Lâm đồng cũng là di tích mang đậm nét tơn giáo lớn
khu vực Tây ngun và Lâm Đồng.Từ khi được phát hiện đến nay khu di tích
Cát tiên đã qua tám lần khai quật đã phát hiện rất nhiều di tích mới và nhiều
hiện vât đep có giá trị thẩm mỹ và giá trị văn hóa cao như các bộ lin ga bằng
đá, bằng đơng, bằng thạch anh, nhiều đồ gốm. Kiến trúc tại Cát Tiên bao gồm
nhiều dạng đền tháp, mộ tháp, đài thờ, hệ thống dẫn nước, nhà dài, đường đi,
lò gạch, chủ yếu được xây dựng bằng gạch sản xuất tại chỗ và đá mang từ nơi
khác đến. Trong số những hiện vật thu thập qua các đợt khảo cổ, đặc sắc và
cũng phong phú nhất về chất liệu, kiểu dáng. Đã phát hiện khoảng 1140 hiện
vật các loại được phát hiện với nhiều chất liệu khác nhau như kim loại vàng ,
thiếc ,bạc, đồng , sắt, đá, đá màu,đá quý ,và bán đá quý , đồ gốm có một số
hiện vật mang giá trị vượt trội.
Đáng chú ý là 265 mảnh phù điêu bằng vàng khắc chạm với các hình vẽ
ở được người xưa sử dụng phổ biến kỹ thuật dập chìm . Ngồi những mảnh
vàng dát mỏng cắt hình bơng hoa hoặc khắc chữ cổ được tìm thấy nhiều trong
quần thể di tích này các nhà nghiên cứu cịn gặp những mảnh vàng chạm hình
người nhiều đầu, nhiều tay và hình người khỉ. Đây là những nhân vật trong sử
thi Ramayana của Ấn Độ như khỉ thần Hanuman, vua quỷ Ravana. Nhìn tổng
thể các chạm khắc trên các lá vàng bao gồm hình ảnh các thần Siva,

Umapavati,Brahama, tu sĩ ,nam thần, nữa thần, vũ nữ , người dâng lễ,chiến
1


binh, động vật dưới hình thái vật tổ ln được tái hiện các hình trang trí cung
đình với hình sóng nước, hoa lá uốn lượn, văn tự chữ Phạn cổ. Đặc biệt rất
nhiều những bộ sinh thực khí linga, linga-yoni, yoni bằng vàng, bạc, đồng,
thạch anh, đá, đất nung v.v. trong đó có những chiếc linga đã được đưa vào kỷ
lục Guinness như: chiếc linga bằng vàng nhỏ nhất Đông Nam Á; chiếc linga
đá bán quý thạch anh nguyên khối lớn nhất Đông Nam Á với chiều dài 2.10m
và nặng tới 343,5 kg, chiếc linga đồng được tạo tác rất thẩm mỹ phỏng theo
phần trụ tròn của những linga đá ba tầng. Sự phong phú của loại hình linga,
yoni ở đây phần nào thể hiện sự giao lưu văn hóa của vùng đất này với văn
hóa Chămpa thờ thần Si Va là chính, tuy nhiên chúng vẫn mang những nét
riêng bản địa thể hiện qua những nét chạm khắc, chất liệu, loại hình linga,
yoni rất hiếm hoi có thể tìm thấy ở nơi khác trên thế giới. Những gì khai quật
được mới là một phần rất nhỏ trong quần thể di tích này. Giá trị văn hóa và
những bí ẩn đầy sức hấp dẫn của vùng đất thiêng này phải khai quật và tìm
hiếu để bảo tồn và phát huy tốt những giá trị to lớn khu di sản này. Vì vậy các
nhà khảo cổ cần đầu tư cho cơng tác khai quật bởi lẽ ở dưới lòng đất đang cịn
rất nhiều điều bí ẩn cần được giải mã để có cái nhìn đầy đủ hơn về khu thánh
địa này đặc biệt là những chứng cứ đủ thuyết phục về chủ nhân của nó.

2


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ DI TÍCH CÁT TIÊN
1.1 Địa điểm phân bố
Cát Tiên hiện là đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Lâm Đồng.
Huyện Cát Tiên nằm ở tận cùng phía Tây Nam của tỉnh Lâm Đồng, có dịng

sơng Đồng Nai bao quanh và trở thành ranh giới của huyện này giáp với
huyện Bù Đăng của tỉnh Bình Phước, huyện Tân Phú của tỉnh Đồng Nai và
huyện Đak Rlấp của tỉnh Đak Nơng (phía Đơng giáp với hai huyện Đạ Tẻh và
Bảo Lâm của tỉnh Lâm Đồng). Cát Tiên nằm ở vùng thượng nguồn sơng
Đồng Nai. Di tích Cát Tiên nằm trong một bồn địa rộng hàng trăm héc ta trên
một chiều dài khoảng 15km, của trung lưu sông Đồng Nai, được bao bọc bởi
những dãy núi cuối cùng của Trường Sơn Nam. Núi thấp chạy theo hình cánh
cung, dọc hai bên bờ sông, bao bọc các bãi bồi ven sông, xen kẽ các ngọn núi
đất rải rác trên tồn khu vực, tạo cho vùng này một khơng gian tương đối
khép kín so với khung cảnh thiên nhiên tồn vùng Đơng Nam Bộ. Trên tồn
khu vực đều có các kiến trúc cổ hoặc dấu hiệu của các kiến trúc. Các nhà
nghiên cứu coi đây là một không gian kiến trúc mở. Và ở đây dịng chảy sơng
Đồng Nai là chiếc cầu nối không gian mở này ra rộng hơn khơng gian vốn có
của nó khơng gian của các quan hệ văn hóa, trao đổi thương mại thế giới với
bên ngồi.
Trong lịng khơng gian mở là một khơng gian khép có diện tích 24 héc
ta, có địa thế như 1 thung lũng hẹp, được kẹp lại ở hai đầu với hai ngọn núi
phần thân thì lượn nhẹ tạo vịng cung bán nguyệt nhô ra giữa sông rất thuận
lợi cho cuộc sống của cư dân cổ. Không gian này là nơi mà các cuộc khai quật
đã làm xuất lộ nhiều cơng trình kiến trúc có liên kết nhau tạo thành một quần
thể thống nhất với nhiều loại hình kiến trúc khác nhau. Các nhà nghiên cứu
cho rằng đây là một khơng gian lý tưởng cho
1.2 Qúa trình phát hiện và khai quật
Năm 1985 trong một đợt điền dã dân tộc học trên địa bàn Cát Tiên thuộc
Đạ huai (lúc đó huyện Đạ Huai bao gồm cả Cát Tiên - Đạ Terh - Đạ huai) cán
3


bộ Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng đã tình cờ phát hiện một quần thể di tích kiến trúc
Bà la mơn giáo rất lớn nằm trên bờ trái của dòng Đạ Đờng (thượng nguồn

sông Đồng Nai). Năm 1985 các nhà khảo cổ học ở trung tâm Khoa học Xã
Hội Tp. Hồ Chí Minh đã kết hợp với Bảo tàng Lâm Đồng tiến hành thám sát
di tích Đức Phổ và thu được một số hiện vật quan trọng như Linga - Yoni
bằng đá, tấm kim loại dập nổi hình Siva. Tại di tích Quảng Ngãi các nhà
nghiên cứu cũng phát hiện một loạt kiến trúc gạch, các cột đá, tấm đá… Họ
đã nghĩ đến một di tích mang tính chất Ĩc Eo. Một trung tâm chính trị tơn
giáo của một cộng đồng dân cư trong một giai đoạn lịch sử. Sau đó, vì nhiều
lý do, việc nghiên cứu di tích Cát Tiên không được tiến hành. Năm 1994 viện
Khảo cổ học cùng Bảo tàng Lâm Đồng tiến hành điều tra tổng thể và xác nhận
di tích Cát Tiên là một quần thể di tích rất lớn gồm ba khu di tích cách xa
nhau trên địa bàn ba xã Đức Phổ, Gia Viễn và Quảng Ngãi trong đó khu di
tích Quảng Ngãi là lớn nhất và tập trung nhất. Tại khu di tích Quảng Ngãi đã
phát hiện bảy cụm di tích kiến trúc gạch - đá được đánh số từ một đến bảy
tính từ phía hạ lưu sơng Đạ Đường. Trong đợt điều tra này đã phát hiện nhiều
hiện vật bằng đồng, mi cửa đá có hoa văn, trụ cửa đá, linga bằng thạch anh.
Bước đầu các nhà nghiên cứu dự đốn có thể đây là khu di tích thuộc văn hóa
Ĩc Eo hoặc Champa. Xác định Cát Tiên là một di tích lớn và quan trọng trong
việc nghiên cứu các quốc gia cổ phía Nam, liên tiếp trong các năm từ năm
1994 đến năm 1997 đã có 4 cuộc khai quật quy mô do Viện Khảo cổ học cùng
Bảo tàng Lâm Đồng tiến hành, có sự tham gia của cán bộ trùng tu di tích. Kết
quả là di tích này phần nào đã lộ diện và nhận thức về nó cũng dần được rõ
ràng hơn.
Các khoa học gia đoán định thánh địa này xuất hiện khoảng thế kỷ 4 đến
thế kỷ 8, thuộc về nền văn hóa của một vương quốc mà ý kiến của nhiều nhà
khoa học, trong nỗ lực tìm kiếm chủ nhân đích thực của thánh địa, vẫn chưa
đạt sự đồng thuận. Các hiện vật, lăng mộ và tháp tại Thánh địa Cát Tiên ra đời
trong thời kỳ nào; thuộc phong cách nghệ thuật, chủ nhân là ai; nằm trong bối
4



cảnh nào trong tiến trình lịch sử có vai trị gì trong quá trình hình thành quốc
gia cổ đại, mối quan hệ của thánh địa với cộng đồng dân cư bản địa đã sinh
sống nơi đây từ những thế kỷ trước công nguyên thuộc di chỉ tiền sử Phù Mỹ
ra sao. Là những câu hỏi gây tranh luận sôi nổi trong giới khảo cổ học , văn
hóa học , sử học qua nhiều hội thảo, tọa đàm khoa học, và những thông tin
tiếp tục hé lộ từ Cát Tiên vẫn luôn làm sửng sốt dư luận cũng như giới học giả
trong và ngoài nước.
Sau 4 đợt khai quật kéo dài từ năm 1994 đến năm 2000, những phế tích
của Cát Tiên dần hé lộ những bí ẩn sâu thẳm trong lòng đất qua hàng chục thế
kỷ các nhà khoa học bước đầu xác định đây là một đô thị tôn giáo cổ mang ý
nghĩa một thánh địa Bàlamôn giáo và Hindu giáo được kiến tạo trong giai
đoạn lịch sử không thành văn kéo dài từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 11. Đây là lần
đầu tiên ở Lâm Đồng cũng như ở Tây Nguyên phát hiện được một đô thị tôn
giáo, một địa chỉ khảo cổ quan trọng để nghiên cứu sự hình thành quốc gia và
những nhà nước cổ đại phương Nam, cũng như mối quan hệ của chúng với
những lân quốc. Tuy nhiên, trong 4 đợt khai quật tiếp theo kéo dài từ 2001
đến 2006, khi nghiên cứu những kiến trúc ở Thánh địa Cát Tiên các nhà khoa
học lại nhận thấy các đền tháp có kết cấu hồnh tráng nhưng giản dị, khơng
cầu kỳ phức tạp như kiến trúc Champa và về tổng thể nó vẫn chưa hồn thiện,
khơng đồng trục, có kiến trúc (2D) trong quần thể phải nối thêm độ dài và độ
dày của tường khá mỏng. Sự hạn chế nhất định trong những kỹ thuật xây
dựng nói trên đã mang đến cho các nhà khoa học một thông tin mới: niên đại
của Thánh địa Cát Tiên có thể sớm hơn, khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII,
khác với nhận định lâu nay của nhiều nhà khoa học. Một vương quốc với
cương vực trải dài từ đồng bằng Nam Bộ đến Phú Khánh cũ, hạ Lào,
Campuchia; hoặc cũng có thể là một quốc gia riêng từng tồn tại song song với
Phù Nam,Chân Lạp. Thánh địa này khá sầm uất khi nằm trong mạng lưới của
con đường thương mại từ Đông sang Tây phát triển khá mạnh vào khoảng thế

5



kỷ III hoặc thế kỷ IV, nhưng sau đó suy tàn dần khi con đường này dịch
chuyển sang vùng biển Malacca từ cuối thế kỷ V.
Kiến trúc của những phế tích tại Cát Tiên bao gồm nhiều dạng đền tháp,
mộ tháp,đài thờ, hệ thống dẫn nước, nhà dài, đường đi, lò gạch, chủ yếu được
xây dựng bằng gạch sản xuất tại chỗ và đá mang từ nơi khác. Ngay từ khi
mới phát hiện các nhà khoa học khảo cổ Việt Nam đã cho rằng đây rất có thể
là một trung tâm tôn giáo, là một “thủ đô” của một vương quốc cổ bị lãng
quên. Tuy nhiên, qua 8 lần khai quật, đến nay, chủ nhân của di tích Cát Tiên
vẫn đang còn là điều gây tranh cãi trong giới khoa học.

6


CHƯƠNG 2. KIẾN TRÚC THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN
2.1 Vật liệu xây dựng kiến trúc
2.1.1 Gạch
Sưu tập vật liệu kiến trúc được xem là nền tảng cơ bản của Cát Tiên, bởi
nói đến di chỉ Cát Tiên là nói đến một quần thể phế tích kiến trúc của một
Thánh địa Bàlamơn giáo thuộc một vương quốc cổ trong lịch sử, tồn tại vào
khoảng thế kỷ IV - IX sau Công nguyên. Khu di tích Cát Tiên gạch là loại vật
liệu được sủ dụng phổ biến nhất nó xuất hiện trên tất cả các cơng trình được
xây dựng ở di tích như đền tháp, đền thờ, mộ táng, kiến trúc nhà dài, máng
nước thiêng các vòng tường bao quanh tháp, xây trụ giưa lòng tháp. Các bức
tường tháp dày từ 0,5m đến hơn 1m cho thấy số lượng gạch là rất nhiều và
trong q trình khai quật các nhà khảo cổ cịn phát hiện một đống gạch phế
liệu. như thế chứng tỏ gạch là vật liệu chủ đạo được cư dân cổ lựa chọn .Toàn
bộ gạch xây tháp dùng chất liệu đất nung với nhiều kích thước, Các viên gạch
ở đây ở kích thước dao động từ 20 x 23 x 6cm đến 17 x 35 x 8cm. Đặc biệt có

các viên gạch ở đáy trụ ở tháp 1A có kích thước rất lớn 30 x 70 x 30cm. Gạch
ở đây có độ nung già, độ cứng cao, trộn rất nhiều vỏ trấu. Dựa vào tính chất
trên, người ta có thể tạo hoa văn trên gạch mà không bị vỡ, nhất là khi làm ẩm
gạch bằng nước tạo hình dáng khác nhau nhằm sử dụng ở nhiều vị trí, cơng
năng khác nhau các loại trang trí cũng rất phong phú như: hoa văn hình học,
hoa sen, mơ hình núi Mêru, lá lật. Trong lần khai quật thứ 8 vào tháng 9 năm
2006 tại 3 địa điểm thuộc vùng ven trung tâm đô thị tôn giáo Cát Tiên là cánh
đồng Bảy Mẫu, điểm Phù Mỹ và dọc tả ngạn sông Đồng Nai thuộc xã Quảng
Ngãi đã đưa đến những phát hiện quan trọng. Một trong số đó là sự xuất lộ
những dấu tích của khu lò nung gạch tại Cát Tiên bao gồm bốn lò gạch với tro
đốt lò, than củi, những lằn gạch cháy đen và những lằn gạch đỏ au còn sót lại
trên cánh đồng Bảy Mẫu, nằm cách bề mặt lớp đất canh tác hiện tại chỉ 0,1m–
0,3m. Đoàn khảo cổ gồm Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ thành phố Hồ Chí
Minh thuộc Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ và Bảo tàng Lâm Đồng đã
7


mang gạch đi phân loại, đối sánh với gạch tại phế tích thánh địa cho kết quả
hồn tồn tương đồng. Đặc điểm của lị gạch với kiểu dáng thơ sơ, quy mơ
mỗi lị dài trung bình 15m và rộng trên 3m trải theo hướng Đơng–Tây và
miệng lị quay về hướng Nam để đón gió, các lị nung gạch cho thấy nét riêng
biệt, nét địa phương trong kỹ thuật chế tác nguyên vật liệu xây dựng cho các
kiến trúc đền tháp của cư dân Cát Tiên cổ[4], là nơi sản xuất ra gạch phục vụ
đại cơng trình xây dựng Thánh địa Cát Tiên.
2.1.2 Đá
Đá cũng là vật liệu được sử dụng nhiều trong di tích Cát Tiên, trong tất
cả các kiến trúc đã khai quật có thể thấy đá được sử dụng rất nhiều trong việc
làm sang ngang cửa, thanh ốp cửa, bệ cửa, móng . ở dưới lớp gạch là một lớp
đá móng vững chắc với nhiều hình dạng kích cở khác nhau to, nhỏ, mỏng,
dày…. như thế chứng tỏ chủ nhân của khu di tích đã có một kỹ thuật xây

dựng cao khi họ biết dùng đá để gia cố cho phần móng được chắc chắn tránh
được việc sụt lún khi tường phải đỡ một khối tháp nặng. cũng như khắc phục
được sự yếu kếm của nền đất
Các tấm linteau rất lớn 2,6 x 1,3 x 0,3m; 2,8 x 1,6 x 0,35m ở tháp 1A
hay 2A. Các tấm đá ốp cửa phía trong, các bệ cửa đục lỗ được tạo hoa văn
khá cầu kỳ, đó là 1 đồ án cánh lá lật và các bông sen nở quay xuống dưới, các
mảnh chạm đều nơng và bẹt khơng có khoảng trống, tấm linteau này cùng với
2 cột cửa tròn (dài 2,2m, chu vi 0,46m)
Ấn tượng nhất về thể khối là tấm mi cửa tháp (trán cửa) bằng đá nặng
khoảng hơn 1 tấn được trang trí hoa lá rất mềm mại ở dưới được đở bằng hai
cột đá hình trịn được chạm khắc tinh vi với nhiều hoa văn ký tự sinh động và
khác lạ so với các mi cửa của các tháp Chàm mà chúng ta thường gặp. Vì vậy,
đây cũng được xem là hiện vật tiêu biểu, đặc sắc của Cát Tiên. Với nhiều loại
đá với kích thước lớn nhỏ khác nhau có thể thấy cư dân cổ đã tìm ra một mỏ
đá xung quanh

8


khu vực cư trú hoặc cũng có thể khai thác và chuyển chở từ một khu vực
khá xa nao đó.
2.1.3 Ngói lợp
Trong đống đổ nát các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nhiều mảnh vụn của
ngói như thế chứng tỏ những ngôi đền tháp, nhà dài, đền thờ đã dùng gạch để
làm mái hoặc được dùng để làm các rảnh thoát nước mưa tránh việc nước
mưa làm hỏng các cơng trình. Và theo nhận định của nhiều nhà khảo cổ ngói
lợp trong di tích Cát Tiên được nung với nhiệt độ cao. ngói có dạng móc để
móc lại với nhau với sự xuất hiện của ngói lợp có thể hình dung kết cấu phần
mái của các kiến trúc ở Cát tiên được làm khung đở bằng gổ để đở những tấm
ngói ở phía trên Có thể chia ra 4 loại ngói:

- Loại 1: Ngói bị có mặt cắt hình bán nguyệt (10 x20cm) ở 1/4 đầu ngói
có gờ nổi để giữ các viên ngói khi lợp gối lên nhau.
- Loại 2: Ngói mũi lá có móc, kích thước khá lớn 15 x 25cm, dày 1,2cm
đến 1,5cm. Phần đầu vót nhọn, phần đi làm gập vng góc với bản ngói
(2cm) làm móc lợp. Đây là ngói thường thấy ở các kiến trúc tháp nhà hay tháp
cổng.
- Loại 3: Ngói đơn giản có núm để gắn hiện vật hình con tiện (balali)
tramg trí. Ở đây ngồi những viên ngói có núm cịn có các viên gắn balali liền
thành 1 hiện vật thống nhất (ngói - balali). Loại này thường thấy ở các tường
bao.
- Loại 4: Là loại ngói rất đặc biệt, lần đầu tiên được phát hiện trong các
di tích kiến trúc Bà la mơn. Viên ngói rất lớn 28 x 22cm, dày 1,5cm có mặt
cắt hình cánh chim Phần cong lên của viên ngói có gắn các núm, tuy nhiên
khơng phải để gắn vào các viên gạch có đục lỗ hình cơn, các núm này chính là
cái đinh hay móc để giữ các viên ngói khi lợp.
Các hiện vật ngói phong phú ở khu vực này cho thấy di tích số 2 là 1
phức hệ kiến trúc. Ngoài các tháp thờ có bộ máy bằng gạch cịn có các nhà

9


dài (Mandapa) lợp ngói, các bức tường khơng những được lợp ngói rất cẩn
thận cịn có trang trí (balali) trên mái tường nữa.
Ngói ở di tích này đều có độ nung thấp, màu vàng nhạt, lõi hơi đen, chất
liệu lẫn nhiều cát, khá thô trong số những hiện vật tiêu biểu nhất cịn có thể
kể đến những viên gạch có lỗ chốt và những viên ngói có móc chốt được liên
kết với nhau tạo thành hệ thống thoát nước cho kiến trúc mang đặc trưng rất
riêng biệt của cư dân Cát Tiên
2.2 Các loại hình Kiến Trúc
2.2.1 Đặc điểm chung của loại hình kiến trúc dạng tháp

Cấu trúc của các tháp này là đều có một bình đồ vng hoặc gần vng,
bẻ góc ở mặt trước để tạo tiền sảnh và cửa ra vào, bên trong rộng, dơn giản,
Kết cấu móng khá vững chắc được lót bởi một lớp đá lớn như đá granit, đá
biến chất và sau đó là hổn hợp gạch, đá, cát nện chặt. Cửa của các tháp luôn
quay về hướng đông được làm kiên cố, các bậc lên xuống, mặt ốp cửa, đà trên
dưới được làm từ các phiến đá hình chữ nhật
Lịng tháp có kết cấu vuông và gần vuông ngay tâm đặt Linga Yoni.
Ngay tâm thường xây một hố thờ dạng trụ gạch vuông có kích thước khác
nhau tùy tháp
2.2.2 Đặc điểm riêng
Tùy từng tháp có một vài đặc điểm riêng:
- Bẻ góc mặt trước, khơng có cửa giả tháp1
- Bẻ góc cả bốn mặt có cửa giả trên cả ba mặt cịn lại mặt tiền có trang trí
hoa văn tháp 2A, 2B, 3.
- Mái của kiến trúc được lợp bằng vật liệu nhẹ trừ tháp A6
2.2.3 Kiến trúc dạng đền tháp
Trước hết có diện tích khá lớn gồm khn viên bao bọc xung quanh ở
giữa là kiến trúc đền tháp, có sân trước sân sau, hành lanh hai bên, có lối đi
vào lịng tháp, mi cửa bằng đá có gạch trang trí hoa văn khối tháp có bình đồ
hình vng. Có thể hình dung ra đây là khu vực tiến hành các nghi lể chính
10


của các tín đồ. Nét đặc thù của đền thờ này thể hiện ở kiến trúc vng bẻ góc
nhiều lần trước mặt tiền phía Đơng, và tiền điện được xây theo hình bán
nguyệt. Ở trung tâm đền là một trụ gạch vuông rỗng tâm và đáy của trụ gạch
được xây chân đế tam cấp. Kiến trúc dạng hình vng bẻ góc nhiều lần và
tiền điện được xây hình bán nguyệt tại Thánh địa Cát Tiên làm cho các nhà
khoa học liên tưởng đến dạng kiến trúc ở các di tích thuộc văn hóa Ĩc Eo đã
được phát hiện tại Tây Ninh và Đồng Tháp từ đó đưa ra giả thiết về sự giao

lưu văn hóa hay chủ nhân của kiến trúc này. Đặc biệt hơn nữa nhiều nhà khảo
cổ còn bất ngờ trước dạng kiến trúc lạ và khá đặc sắc ở gò khai quật số 7 với
một đền thờ được xây theo dạng hình vng nằm cân đối theo trục Bắc–Nam,
và hồn tồn khơng có dấu vết bậc cấp và dấu vết cửa.
2.2.4 Kiến trúc mộ
Trong các di chỉ khai quật và hố đào thám sát đã phát hiện ra rất nhiều
ngơi mộ có kích thước khác nhau mộ to kích thước 4.2m x 4.2m, mộ nhỏ
kích thước 1.0m x 1.0m được xây bằng gạch có mái vịm. Bên trong tìm thấy
những vị bằng gốm có chứa xương người và than tro, đây là sự ảnh hưởng
đậm nét của tôn giáo balamon, người chết được hỏa táng và lấy tro đem bỏ
vào vị gốm để chơn. Vẫn cịn rất nhiều ngơi mộ nằm sâu trong lịng đất mà
các nhà khảo cổ chưa phát hiện hết. Việc phát hiện nhiều ngơi mộ đã chứng tỏ
nơi này có cư dân đơng đúc và sống trong một thời gian dài và có thể khẳng
định nơi này là một trung tâm văn hóa chính trị của một cộng đồng người cổ.
2.2.5 Kiến trúc đài thờ: kiến trúc số 5, số 7.
Loại hình này có kết cấu dạnh vng khối với bốn mặt tường phẳng,
khơng có cửa ra vào, khơng mái trung tâm kiến trúc có hình vng đặt Linga
Yoni ở giữa vịi của Yoni thơng với ống dẫn nước thiêng để thốt ra ngồi.
Đây có thể là một trong số hệ thống của nước thiêng bao gồm nguồn nước,
đường ống nước, máng nước để cung cấp nước thiêng cho các tín đồ trong
một nghi thức tôn giáo. và kiến trúc đài thờ này tượng trưng cho sự phồn vinh
của họ khi họ lấy nước từ những Linga Yoni chảy ra.
11


2.2.6 Kiến trúc "nhà dài": kiến trúc 2C và 2D,8C,8D.
Khác với các kiểu kiến trúc khác kiến trúc nhà dài có bình đồ hình chữ
nhật có hai cửa ra vào. Căn cứ vào đồ vật thu thập được cũng như diện tích
của kiến trúc thì có thể nhận định đây là nhà ở của các vị tu sĩ hoặc là nơi sinh
hoạt chung của các tín đồ trước và sau khi tiến hành nghi lể ở khu đền tháp.

Đây là loại kiến trúc có kết cấu khá đơn giản với móng là loại đất trộn với
gạch vụn nện chặt trên diện phân bố rộng. Bình đồ hình chữ nhật, cũng xuất
hiện hiện tượng bẻ góc, giật cập và cả phong cách chỗi xi tạo các dao
điểm hình chân chng nhưng có dáng nhỏ và thấp hơn cũng như khơng hình
thành một mảng liên hoàn so le nhau như trong kiến trúc 2A, kiến trúc 3.
Ngoài ra các cửa đi vào nội thất đều là cửa giả và khơng có trên bề mặt tháp.
Kiến trúc này cũng được xây khá cao với móng khoảng 2,0m và mảng tường
đổ ngun vị trí đo được 8,0m. Và dọc hai bên hông kiến trúc và góc đơng
bắc của kiến trúc 2D phát hiện rất nhiều ngói đổ. Chắc chắn chủ nhân đã sử
dụng ngói để lớp mái hoặc ngói để làm máng thốt nước tránh xâm hại vào
tường và chân tháp.
Nhìn vào tổng thể gị 2 có thể thấy tính quy hoạch của cụm kiến trúc này
theo một trật tự thời gian sau: 2D, 2C sau đó là tháp 2A và 2B cùng với 1
tường bao bọc cũng như tháp cổng và tạo được một bố cục cân đối của không
gian kiến trúc này. Nhưng nếu đi vào chi tiết thì tính quy hoạch trong cụm
tháp này có những bất hợp lý khó được chấp nhận dưới cái nhìn của một nhà
thiết kế đương đại:
Đó là việc xây nối thêm kiến trúc 2D cho đủ chiều dài với 2C và lệch
hướng nhau thêm 10 độ giữa 2C và 2D. Ngoài ra, kiến trúc 8B thuộc gị 8
cũng thuộc loại hình kiến trúc này nhưng điểm khác biệt của 8B với 2C, 2D là
không thiết kế cửa đi ở phía đơng và khơng có hiện tượng ngói đổ xuất lộ dọc
theo hai bên hơng kiến trúc.

12


2.2.7 Kiến trúc hệ thống dẫn nước
Là một đường dẫn nước được xây dựng bằng gạch chạy theo hướng
đông - tây, có chiều rộng 1,00m - 1,20m, lịng rộng 0,4m - 0,6m, tường dày
0,30cm.

Con đường dẫn nước này khá dài, có khả năng xun suốt chiều dọc
quần thể di tích Cát Tiên và nó sẽ làm chức năng liên kết, phân phối nước đến
các kiến trúc lớn trong khu vực như kiến trúc 5,7 và xa hơn về phía đơng là
các kiến trúc 2A, 2B, 2C, 2D, 3 và kiến trúc số 4 lệch về phía bắc.
Giải quyết chức năng của hệ thống dẫn nước này còn nhiều việc phải
làm, nhất là việc khai quật toàn bộ bề mặt của khu di tích để để hiểu được
bằng cách nào con đường này đưa nước vào các khu hành lễ. nhưng có một
điều chắc chắn rằng đây là một đường dẫn nước thiêng trong những dịp lễ.
Mà nguồn nước được lấy từ dịng suối, khúc sơng của một khu đất thiêng.
2.2.8 . Máng nước thiêng
Ở Thánh địa này có máng nước thiêng (somasutra) dài 5,76m và rộng
40cm, dài nhất trong số máng nước thiêng được biết đến trong các di tích ảnh
hưởng văn hóa Ấn Độ ở Việt Nam và Đơng Nam Á. Các nhà khoa học cho
biết, mỗi khi hành lễ nước sẽ được dội lên ngẫu tượng linga - yoni phía trong
tháp, hóa thành nước thánh chảy ra máng nước thiêng và từ đó được sử dụng
để xức hoặc rắc lên mình các tín đồ, mang lại sự an lành, may mắn, đông con
nhiều cháu. Cùng với máng nước này là hệ thống dẫn nước được xây bằng
gạch có lòng máng rộng khoảng 40cm và chiều sâu 30cm chạy dọc theo
hướng Đông – Tây, kéo dài hơn 100m với chức năng phân phối “nước thánh”
đến tất cả các đền tháp và đền mộ trong thánh địa.
2.2.9 Đường đá cổ
Mặc dù chỉ được khai quật một số đoạn nhưng có thể hình dung rằng đây
là một cầu nối tất cả các hệ thống kiến trúc của thánh địa Cát Tiên, có thể đi
trên con đường đó từ đền này đến tháp khác. Và cần phải tiến hành khai quật

13


để có cái nhìn tổng qt hơn về khu thánh địa này cũng như có thể phát hiện
ra các kiến trúc bị chơn vùi trịng lịng đất.


14


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA HỌC GIẢ VỀ THÁNH ĐỊA CÁT
TIÊN
3.1 Về kỹ thuật xây dựng
Di tích khảo cổ Cát Tiên là quần thể các phế tích kiến trúc bằng gạch có
quy mơ rất rộng lớn, trải dài khoảng 15km theo tả ngạn sông Đồng Nai, từ xã
Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ và Gia Viễn (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng).
Kết quả của tám lần khai quật khảo cổ từ năm 1994 - 2006 đã phát hiên nhiều
phế tích kiến trúc đền tháp, mộ tháp, nhà dài, hệ thống máng nước, đường đá
cổ….
Các kiến trúc ở đây có quy mơ lớn nhỏ khác nhau, tùy cơng năng, có
bình đồ vng hoặc hình chữ nhật, cửa chính quay về hướng Đơng. Q trình
khai quật đã tìm thấy hơn 1.400 hiện vật gồm các chất liệu như vàng, bạc,
đồng, đá quý, gốm… phong phú về loại hình như: ngẫu tượng Linga - Yoni,
tượng thần Ganesa, thần Uma, nhẫn, hạt chuỗi, các lá vàng dập nổi hình của
các vị thần, các linh vật Balamon giáo.
Qua loại hình kiến trúc, hiện vật tìm được cho thấy đây là một thánh địa
tơn giáo ảnh hưởng Ấn Độ giáo và là dấu tích của một nền văn hóa đặc sắc
trong quá khứ.được xây dựng theo chuẩn tắc Bàlamôn giáo (Ấn Độ giáo kết
hợp với Phật giáo): Bình đồ hình vng, giật cấp nhiều lần, những cửa tháp,
thanh đá ốp cửa, trụ bệ, mi cửa với những ngẫu tượng Linga, Yony, tượng
Ganêsa... Chuẩn tắc đó được thực hiện bởi những bàn tay và khối óc tài hoa
của các nhà kiến trúc tôn giáo nhiều thế hệ. 20 ngơi đền tháp và đền mộ hồn
tồn khác nhau về chi tiết nhưng lại hòa quyện với nhau trong kiểu dáng,
vươn trong không gian một thế giới tâm linh bí ẩn.
Di tích này gồm một ngơi tháp lớn nhất được xây dựng nằm trên vị trí
cao , đẹp tại một quả đồi cao khoảng 50 mét so với mặt đất canh tác của thung

lũng xã Quảng Ngãi. Di tích gị IA là một phế tích kiến trúc đồ sộ, được phát
hiện năm 1985 và được tiến hành khai quật năm 1996. Di tích có cửa chính
quay về hướng Đơng, đế tháp hình khối vững chắc cao 1,4m, được xây giật
15


cấp làm 5 lớp vươn lên đỡ thân tháp. Mặt bằng tiền sảnh phía trước được lát
đá tấm bằng phẳng khá rộng, từ sân dẫn lên tiền sảnh là bậc tam cấp, hai bên
bậc tam có trụ gạch xây cân đối nhau được giới hạn không gian bậc là hai trụ
gạch xây hình khối chữ nhật đứng.
3.2 Vấn đề niên đại
Như đã trình bày ở phần di tích và di vật, khu di tích Cát Tiên là 1 quần
thể di tích rất lớn, trải dài trên 1 địa bàn rộng với nhiều loại hình khác nhau do
vậy nó mang nhiều niên đại khác nhau. Khu di tích số 2 là 1 quần thể thống
nhất về loại hình một khu đền thờ gồm các Kalan, Mandapa, tường bao tồn
bộ di tích… Ở đây có các tiêu chí để có thể xác định 1 khung niên đại như
tấm mi cửa 2A với các họa tiết lá lật uốn cong xuống dưới, không có phần
dây cung. Các bơng sen nở lộ rõ đài sen, cuống sen khá lớn và khỏe khắn,
toàn bộ đồ án trang trí khơng có khoảng trống. Bên cạnh đó là là hai cột đá
cửa tiện trịn có cách sen nở hai đầu và các vòng nhẫn tròn trên cột. Nếu 2A là
1 ngơi đền có niên đại cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX, ta có thể tạm xếp loại
hình bệ Yoni gồm 4 phần ghép lên nhau phát hiện tại đây vào khung niên đại
này. Kiến trúc 2B như đã trình bày được xây dựng sau, tồn bộ phần nền
móng và tường chắn trượt của 2B cắt vào phần sân và tường chắn trượt của 2,
có thể xếp kiến trúc này vào nữa sau của thế kỷ IX với các trụ tường (pilastre)
có trang trí gờ nhẫn bẻ gốc vng có ơ trống hình vng giữa hai gờ nhẫn.
Các viên gạch trang trí hoa nở cánh nhỏ, các đồ án hoa giây và núi
Goovahan phát hiện ở đây cho thấy ngơi tháp 2B có 1 diềm mái khá đẹp mắt
nhưng lại có niên đại muộn hơn. Các họa tiết của 2B khá giống với ngơi tháp
Bình Thạnh ở Trảng Bàng Tây Ninh mà nhà nghiên cứu Phạm Như Hồ xếp

vào niên đại sau thế kỷ X có niên đại ấy mà nó có thể cùng niên đại cuối thế
kỷ IX đầu thế kỷ X như phế tích 2B Cát Tiên. Tuy nhiên có thể nói rằng: ngay
quần thể di tích số 2 cũng đã có 1 khung niên đại khá rộng từ cuối thế kỷ VIII
sang đầu thế kỷ X. Ngơi tháp 1A có bình đồ chữ nhật, chỉ có một cửa chính
khơng cửa giả cùng với các hiện vật rất quan trọng cho việc xác định niên đại
16


là tượng Linga - Yoni rất lớn cùng với quy mơ tháp khá lớn, lại xây trên đồi
cao, có hình thức khá giống với ngôi tháp Smabor PreKuk ở Campuchia cùng
với các hiện vàng có văn tự Pallava thế kỷ VIII có thể cho phép chúng ta nghĩ
đến 1 niên đại khá sớm cho di tích này, niên đại đàu thế kỷ VIII.
Các di tích cịn lại do bị sụp đổ nghiêm trọng và các di vật quá ít để có
thể đốn định 1 cách tương đối chính xác song có thể thấy các kiến trúc ở đây
có những niên đại rất khác nhau và về hình thức kiến trúc có ảnh hưởng rất
nhiều của Chân Lạp.
Vào thế kỷ VII-VIII, các quốc gia trên biển gồm nhiều tiểu quốc đang
trong thời kỳ phát triển hết sức hưng thịnh: Bàng Bàng, Tốn Tốn, Xích Thổ
(tên gọi của Malayxia, Philippin, Inđơnêsia lúc bấy giờ) có quan hệ với Bắc
Trung Quốc là những tiểu quốc riêng biệt, không thống nhất hay được ghép
lại trong đế chế Phù Nam.
3.3 Vấn đề chủ nhân và vị trí của di tích Cát Tiên trong lịch sử
Có nhiều lý giải được đưa ra về chủ nhân của di tích Cát Tiên vào ngày
12/12/2008, tại thành phố Ðà Lạt đã diễn ra Hội thảo khoa học về di tích
Thánh địa Cát Tiên. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng khi nghiên cứu những gì
xuất lộ qua các đợt khai quật Cát Tiên cộng với quy chiếu những hiểu biết dân
gian đã cho rằng "Thánh địa này là của người Mạ bản địa cổ xưa vì cư dân
hiện hữu lâu đời, độc nhất quanh di tích này là người Mạ". Còn giáo sư
Lương Ninh (Trường ÐH KHXH&NV, ÐH Quốc gia Hà Nội) nhận định:
"Chính cư dân bản địa tự làm cho mình" nhưng ơng cũng cho rằng, khơng

nhất thiết cư dân bản địa thời Thánh địa Cát Tiên xuất hiện là người Mạ ngày
nay. PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng và KTS Nguyễn Minh Khang (Cục Di sản
Văn hóa) lại cho rằng thuộc cư dân Champa. Tuy nhiên, hai nhà nghiên cứu
này khẳng định: "Có thể chủ nhân của Cát Tiên là một tộc người khác
Champa, Phù Nam, Chân Lạp lẫn Khơme... nhưng cùng chịu ảnh hưởng văn
hóa Ấn Ðộ là điều quá rõ!".

17


Dù các đánh giá trái ngược nhau nhưng vẫn thấy một điểm chung là
nhiều nền văn hóa đã hịa nhuộm vào đền đài bên ngồi và trong lịng di tích
Cát Tiên, đó là yếu tố Champa, Ĩc Eo, là văn minh Ba Tư (Tây Á), Kusana
(Trung Á), là Bà La Môn giáo, Hindu giáo, rồi cả Phật giáo... Đây là đặc
trưng riêng của di tích Cát Tiên. Vì thế, sẽ cịn rất nhiều thời gian và cơng sức
để giới khoa học có thể biết được chủ nhân thật sự của nền văn hóa này
Về chủ thể văn hóa di tích Cát Tiên, hiện cho đến nay giới khoa học
chưa có một kết luận chung về chủ nhân của nền văn hóa. Có 3 giả thuyết
khác nhau được đề xuất như sau:
- Thuyết bản địa, được nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu đề xuất như cố GS.
Trần Quốc Vượng, một số nhà khảo cổ đương đại như PGS.TS. Đặng Văn
Thắng, Th.S. Võ Văn Thắng v.v. Theo thuyết này, “Vương quốc Cát Tiên cổ”
nằm giữa vùng văn hóa Phù Nam, Chămpa và Chân Lạp (khơng cùng niên đại
phát triển, vì vậy nên gọi là vùng văn hóa), có quan hệ giao thoa văn hóa mật
thiết với cả ba vùng này, tuy vẫn có hệ thống các đặc trưng mang tính bản sắc
của chính mình, tìm thấy ở các đặc điểm kết cấu bình đồ kiến trúc, cấu trúc
kiến trúc, gạch, hoa văn, kỹ thuật xây dựng v.v.. Một số nhà khoa học đặt ra
giả thuyết “vương quốc Cát Tiên cổ” là một “tiểu quốc nơng nghiệp lúa
nước”, có trung tâm nằm ở đồng bằng Định Quán – La Nga về phía hạ nguồn
sông Đồng Nai. Các hội thảo năm 2001, 2008 nhiều lần các nhà khoa học

khẳng định tính độc lập của tiểu quốc này, đồng thời còn đề xuất quan niệm
“Vương quốc Mạ”, “tiểu quốc trung lập” nằm giữa các vùng văn hóa Phù
Nam, Chămpa.. Thêm vào đó, luận án TS. Nguyễn Tiến Đông ngành lịch sử
(năm 2002) với chủ đề Khu di tích Cát Tiên – Lâm Đồng cũng khẳng định
tính trung lập của nền văn hóa này với chủ nhân là người Malayo-Polynesien.
Dĩ nhiên, giả thiết này cần được nghiên cứu sâu hơn.
- Thuyết văn hóa Phù Nam. Thuyết này dựa vào niên đại, điều kiện địa
lý – môi trường và những đặc điểm tương đồng qua so sánh văn hóa. Theo
thuyết này, vào những thế kỷ đầu CN vùng Cát Tiên đã có những nhóm cư
18


dân Phù Nam cư trú rải rác và đã có ý thức về một khu hành hương ở thượng
nguồn; và đến khi vương quốc Phù Nam tiêu biến vào khoảng TK 6, 7 sau CN
cũng là lúc cư dân Phù Nam di cư lên Đông Nam Bộ, cùng thúc đẩy phát triển
“Vương quốc Cát Tiên cổ” và xây dựng quần thể thánh tích Cát Tiên. Nằm
giữa các di chỉ Ĩc Eo – Phù Nam ở Ĩc Eo-Ba Thê, Gị Tháp và Cát Tiên cịn
có khác di tích rải rác khác phía bắc sơng Tiền như Gị Thành, kênh Chợ
Đệm, lưu vực hạ lưu sơng Đồng Nai…
- Thuyết văn hóa Chămpa. Một số đặc trưng điêu khắc, kiến trúc cùng
tính lân cận của địa bàn cư trú làm cơ sở cho nhận định này. Theo đó, quần
thể di tích Cát Tiên được cho là không gian ngoại vi hoặc sự tiếp nối của tiểu
quốc Panduranga (kinh đô ở vùng Phan Rang – Tháp Chàm hiện nay).
Và như thế về chủ nhân của di tích Cát Tiên vẫn đang là một câu hỏi lớn
cho rất nhiều nhà nghiên cứu của chúng ta phải trả lời làm sao để thuyết phục
nhất.

19



KẾT LUẬN
Quần thể di tích Cát Tiên được phân bố tập trung trên địa bàn rộng lớn,
bằng phẳng, chạy dọc theo tả ngạn sơng Đồng Nai. Các di tích thường tọa lạc
trên một ngọn đồi thấp hoặc tương đối thấp đây là trung tâm văn hóa, tơn giáo
của cư dân theo đạo Bà La Mơn giáo hay cịn gọi là thánh địa Bà La Môn
giáo.Qua 8 lần khai quật khảo cổ từ năm 1994 đến năm 2006, các nhà khoa
học đã làm xuất lộ nhiều thành phần kiến trúc khác nhau, thu thập được trên
một ngàn hiện vật.
Tiêu biểu nhất đó là sưu tập hiện vật bằng chất liệu vàng, bạc, đá bán
quý. Toàn bộ những di vật này hầu hết được khai quật từ trong lòng các đền
tháp ở Cát Tiên thờ : các vị thần (Brahma, Uma, Siva…). Đặc biệt nhất trong
sưu tập này là những Linga, Linga - Yoni bằng vàng, bạc, đồng, thạch anh vô
cùng phong phú, sinh động. Chính sự phong phú của loại hình Linga, Yoni ở
đây đã phần nào thể hiện sự giao lưu văn hóa của vùng đất này với văn hóa
Chămpa. Chúng vẫn mang những nét riêng bản địa được thể hiện rõ qua
những nét khạm khắc, chất liệu, loại hình Linga, Yoni … mà khơng nơi nào
có được. Căn cứ vị trí khai quật, loại hình, đề tài trang trí v.v.. cho thấy rằng,
các hiện vậy này đóng vai trị rất quan trọng trong nghi lễ tôn giáo, là linh hồn
của các đền tháp ở đây. Hầu hết các đền tháp, mộ tháp ở di tích Cát Tiên hiện
đang tồn tại ở dạng phế tích, đã sập hết phần mái, phần đế và một phần tường
cịn lại khơng ổn định, xộc xệch vì thế rất khó trong việc sác định khối kiến
trúc gây khó khăn trong việc phục dựng và trùng tu.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢOTÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng hợp các bài báo cáo khai quật di tích Cát Tiên - Lâm Đồng.
2. Kỷ yếu hội thảo khoa học di tích khảo cổ học Cát Tiên.
3. Trung tâm nghiên cứu khảo cổ học (1997), Một số vấn đề khảo cổ học

ở miền nam Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội.

21


PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

Hình 1. Vị trí khu di tích Cát Tiên [ảnh: sưu tầm]

22


Hình 2. Hội thảo khoa học về di tích Cát Tiên [ảnh: sưu tầm]

23


×