Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

“Phân tích lý luận Triết học MácLênin: “Sự phát triển hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên” và sự vận dụng lý luận trong cách mạng XHCN ở nước ta”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.03 KB, 19 trang )

Phần Mở Đầu
Hơn một trăm năm kể từ khi học thuyết hình thái kinh tếxã hội của C.Mác ra đời, lịch sử lồi người đã có những bước
phát triển to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhưng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ nguyên
những giá trị to lớn và bền vững trong việc nhận thức về xã hội.
Học thuyết kinh tế hình thái kinh tế-xã hội cung cấp cơ sở
khách quan để nghiên cứu xã hội: sự phát triển của hình thái
kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, điều đó cho thấy
các hình thái kinh tế xã hội vận động theo những quy luật
khách quan cón có của nó chứ khơng phải của con người. Chính
vì vậy, nó đem đến cho con người phương pháp nhận thức đúng
về xã hội, đó là đi từ nhận thức các quy luật vận động phát
triển khách quan của xã hội lồi người để giải thích về các hiện
tượng xã hội, găn với một hình thái kinh tế xã hội cụ thể.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng sáng tạo lý luận “Sự
phát triển hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên”
và lý luận về hình thái kinh tế xã hội, Đảng đã thực hiện các
chủ trương, chính sách phù hợp trong q trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Để làm rõ luận
điểm của mình, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Phân
tích lý luận Phân tích lý luận Triết học Mác-Lênin: “Sự phát triển
hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên” và sự
vận dụng lý luận trong cách mạng XHCN ở nước ta” cho bài tiểu
luận của mình.
Với thời gian tìm hiểu khơng nhiều, cũng như kiến thức
trong lĩnh vực này còn hạn chế nên tiểu luận khơng tránh khỏi
những thiếu xót. Tác giả rất mong nhận được đánh giá góp ý từ
q thầy cơ.
Tơi xin chân thành cảm ơn!



Phần Nội Dung
1. Hình thái kinh tế xã hội
1.1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội
“Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, tương ứng với
lực lượng sản xuất ở một trình độ phát triển nhất định và một
kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản
xuất đó.”
Ngồi những mặt cơ bản như lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng thì hình thái kinh tế- xã hội
cịn có những quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình và các quan
hệ xã hội khác. Các quan hệ đó gắn bó chặt chẽ với quan hệ
sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của các quan hệ xã hội.
Trước khi lo nghĩ đến những vấn đề chính trị, nghệ thuật,
khoa học,... thì nhu cầu tối thiểu của một con người là phải ăn,
uống, ở, mặc. Đây là những nhu cầu đơn giản nhất nhưng là
thiết yếu nhất để con người có thể tồn tại. Tại sao lại bàn đến
con người ở đây. Bởi con người chính là trung tâm, là nguyên
nhân, là một trong những nhân tố tạo nên hình thái KT - XH.
Những thứ cơ bản cho nhu cầu tồn tại của con người hồn
tồn khơng có sẵn trong tự nhiên, mà con người muốn sống
phải sáng tạo lại hiện thực, những sản phẩm cần thiết để sống
phải được tạo ra chứ khơng có trong tự nhiên dưới dạng trực
tiếp sẵn có. Sống là phải sáng tạo và sáng tạo một cách thực
tiễn hay nói cách khác là phải sản xuất để mà sống. Mỗi một
con người có sự suy nghĩ sáng tạo khác nhau, nên cách thức
sáng tạo làm việc khác nhau, vì vậy mỗi xã hội lại có phương
thức sản xuất khác nhau.
Phương thức sản xuất là cách thức sản xuất ra của cải vật

chất mà trong đó lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất
định, thống nhất với các quan hệ sản xuất tương ứng với nó.
1.2. Cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội
1.2.1.
Lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất là là mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất, lực lượng sản
xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất gồm có đối tượng lao động và tư liệu lao
động. Đối tượng lao động là những cái mà con người muốn tác
động vào để biến nó trở thành những sản phẩm con người
mong muốn. Nó là tồn bộ những tài ngun thiên nhiên có sẵn
mà con người đã, đang và sẽ trực tiếp sử dụng và đưa vào sản
xuất; nó cịn là những sản phẩm khơng có sẵn trong tự nhiên
mà do con người bằng lao động của mình đã tạo ra như: các
loại hoá chất, sợi tổng hợp, các chất hợp kim, các loại nguyên
vật liệu mới, giống và cây con mới. Con người khơng bao giờ chỉ
bằng lịng với những thứ đang hiện có, việc tìm kiếm ra những
đối tượng lao động mới, việc tạo ra những sản phẩm mới luôn là
động lực cuốn hút mọi hoạt động sáng tạo của con người. Vì
vậy đối tượng lao động ln ln được biến đổi, đổi mới khơng
ngừng.
Tư liệu lao động chính là cơng cụ lao động (máy móc, thiết
bị, hệ thống công nghệ,...) để con người tác động vào đối tượng
lao động để tạo ra những sản phẩm mà mình mong muốn.
Ngồi ra, tư liệu lao động cịn có cả phương tiện lao động, đó là
những cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình sản xuất
như: nhà xưởng, kho bãi, bến cảng, sân ga, phương tiện liên

lạc, đường xá, cầu cống,... Tư liệu lao động luôn luôn được cải
thiện, biến đổi theo sự phát triển sáng tạo của con người. Chính
cơng cụ lao động và phương tiện lao động là cơ sở để đánh giá
sự phát triển của mỗi thời đại kinh tế, mỗi chế độ chính trị xã
hội.
Người lao động là nhân tố trung gian nối kết tư liệu lao
động với đối tượng lao động. Nếu một xã hội dù có tư liệu lao
động hiện đại đến đâu khơng có người lao động thì tác dụng
tích cực của tư liệu lao động cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hơn nữa,
tư liệu lao động cũng là do con người lao động tạo ra. Chính vì
vậy con người ln cần được quan tâm giáo dục và đào tạo để
phát huy sức mạnh trí tuệ của mình.
1.2.2.

Quan hệ sản xuất


Quan hệ sản xuất là toàn bộ mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã
hội. Nó thể hiện ở 3 mặt quan hệ cơ bản: quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất;
quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt kinh tế nói trên là một thể thống nhất hữu cơ, tạo
thành quan hệ sản xuất, trước đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất cũng thay đổi tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của
con người, chứ không phụ thuộc vào ý thức của con người. Sự
phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với tích
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong

những quy luật cơ bản nhất của đời sống xã hội. Tính chất của
lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu và sức lao động. Khi
công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để
sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội, khơng cần đến lao động
của nhiều người thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh
xảo và hiện đại của cơng cụ sản xuất; trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và kỹ năng, kỹ xảo của người lao động, trình độ phân
cơng lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của
nền sản xuất.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì
chun mơn hố và phân cơng lao động càng sâu. Trình độ
phân cơng lao động và chun mơn hố là thước đo trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
1.2.3.

Kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội,
những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng
tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Toàn bộ tư
tưởng xã hội là chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, khoa
học,... trong đó hệ tư tưởng chính trị, pháp luật là sự phản ánh
trực tiếp cơ sở hạ tầng và có vị trí chi phối tồn bộ đời sống tư
tưởng xã hội. Những tổ chức thiết chế tương ứng bao gồm cơ
quan quản lý Nhà nước các cấp từ Trung ương tới địa phương,
bộ máy bạo lực, quan đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,... các Đảng


phái chính trị, các tổ chức tơn giáo, và tổ chức quần chúng

khác. Những mối quan hệ nội tại giữa các bộ phận của kiến trúc
thượng tầng với nhau trong đó quan trọng hơn cả là mối quan
hệ giữa hệ tư tưởng chính trị với bộ máy quản lý Nhà nước; hệ
tư tưởng chính trị, bộ máy quản lý Nhà nước với các tổ chức
chính trị xã hội, các lĩnh vực khác nhau của đời sống tinh thần.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những mối quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của một hình thái KT - XH nhất định. Cơ sở
hạ tầng chính là tổng hợp các kiểu quan hệ sản xuất, đó là
những quan hệ vật chất, là cơ sở kinh tế của đời sống xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất đối kháng về mặt kinh tế của
cơ sở hạ tầng chính là cơ sở nảy sinh những đối kháng trong
kiến trúc thượng tầng, giai cấp nào thống trị về kinh tế sẽ thống
trị về chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tinh thần đối
với xã hội, trong đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý Nhà
nước có vị trí quan trọng nhất. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cơ sở hạ
tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Và kiến trúc thượng tầng
có tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
2. Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều
giai đoạn phát triển tiếp nối nhau từ thấp đến cao. Tương ứng
với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế xã hội. Sự vận động
thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử đều
do tác động của các quy luật khách quan, đó là q trình lịch sử
tất yếu.
Trong bộ “Tư bản” và các tác phẩm khác của Mác, theo
Mác, sự phát triển của xã hội loài người là một q trình lịch sử
tự nhiên, trong đó bản thân con người làm ra lịch sử của mình,
nhưng khơng phải con người làm ra lịch sử một cách tuỳ tiện,
một sự lựa chọn tuỳ ý, mà làm ra lịch sử phụ thuộc vào toàn bộ

sự phát triển đã qua của sinh hoạt vật chất của xã hội. Ngay cả
sinh hoạt tinh thần của xã hội cũng phản ánh sinh hoạt vật chất
của xã hội. Từ đây Mác & Ăng ghen đã nêu lên hàng loạt những
quy luật chi phối xã hội, đó là quy luật về quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật về


tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, về cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc hạ tầng.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán chính trị kinh tế học”,
Mác viết: “Trong sản xuất xã hội, để cung cấp cho đời sống của
mình, con người hình thành những quan hệ nhất định, tất yếu
khơng phụ thuộc vào ý chí của mình - những quan hệ sản xuất
phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của những lực
lượng sản xuất vật chất của mình. Tập hợp những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội cơ sở hiện thực
trên đó dựng lên kiến trúc thượng tầng về pháp lý và chính trị
và phù hợp với cơ sở đó là những hình thái nhất định của ý thức
xã hội. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá
trình đời sống xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Nhưng
trong phương thức sản xuất thì cơng cụ lao động đánh giá trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, còn con người - người
cơng nhân giữ vai trị quyết định cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Quan hệ sản xuất ổn định tương đối, ngày càng mâu
thuẫn với lực lượng sản xuất không ngừng phát triển được biểu
hiện về mặt xã hội, là mâu thuẫn giai cấp dẫn đến cuộc đấu
tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã
hội có giai cấp đối kháng.
Các mặt hợp thành của hình thái kinh tế-xã hội khơng tách
rời nhau mà có mối liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên

những quy luật vận động, phát triển khách quan và phổ biến
của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ xã hội với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ
tầng với kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.
Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các
hình thái kinh tế xã hội vận động và phát tiển từ thấp đến cao
như một q trình lịch sử tự nhiên, khơng phụ thuộc vào mong
muốn của con người. Trong các quy luật khách quan chi phối sự
vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội thì quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất có vai trị quan trọng nhất.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình
thái kinh tế xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao đó
là con đường phát triển chung của nhân loại. Con đường phát


triển của mỗi dân tộc không chỉ bởi các quy luật chung mà còn
bị tác động bởi điều kiện về tự nhiên, chính trị, truyền thống
văn hóa, điều kiện quốc tế,...Chính vì vậy lịch sử phát triển
cũng hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những
nét độc đáo riêng trong sự phát triển của mình. Lịch sử nhân
loại là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái KT - XH, song
khơng vì vậy mà cho rằng sự phát triển và thay thế các hình
thái KT - XH ở mọi quốc gia, mọi lục địa đều diễn ra giống nhau
và tiến trình như nhau. Lịch sử không phát triển theo đường
thẳng và ở mỗi nước khác nhau có thể sẽ có những hình thái KT
- XH và trình độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên mỗi nước
không phải là sự phát triển riêng biệt, sự tác động và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa chúng được diễn ra dưới nhiều hình thức
sẽ có tác động quan trọng đến sự phát triển của các dân tộc và

của lịch sử nói chung. Tính chất khơng đồng đều này biểu hiện
ở một số dân tộc tiến lên phía trước, một số dân tộc khác lại
ngưng trệ do rất nhiều nguyên nhân chi phối, một số nước do
những điều kiện cụ thể lại bỏ qua một hình thái kinh tế đó. Tuy
nhiên, sự bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử xã
hội chứ khơng phải theo ý muốn chủ quan của con người.
C.Mác từng lưu ý rằng: “Một số dân tộc, một số quốc gia
bỏ qua một vào giai đoạn để đến với một giai đoạn xã hội cao
hơn khơng phải là khơng có điều kiện mà nó phải tuân theo các
điều kiện như: Phương thức sản xuất định bỏ qua đã lạc hậu, lỗi
thời; Phương thức mà xã hội ấy muốn thiết lập thì nó đã hình
thành hoặc ít ra nó cũng đang hình thành và tỏ rõ được tính ưu
việt của nó; Phải có sự giúp đỡ của quốc tế; Ngồi ra bản thân
dân tộc đó phải có được lực lượng cách mạng-một chính đảng
có đầy đủ năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng ấy.”
Như vậy, quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của sự phát triển
xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự,
mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế xã hội
trong những điều kiện nhất định. Với những giá trị khoa học và
cách mạng như vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ
sở triết học đặc biệt quan trọng để xác lập lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Sự vận dụng lý luận trong cách mạng XHCN ở Việt Nam


Tin tưởng sắt đá vào nguyên lý phát triển macxit, Hồ Chí
Minh đã khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là đường đi tất yếu của
lịch sử nhân loại. Người viết: “Loài người đã trải qua sự phát
triển từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội
phong kiến rồi đến xã hội tư bản, xã hội tư bản với bản chất vô

nhân đạo và đầy mâu thuẫn

trong lịng nó, cũng giống như

những quy luật của lịch sử xã hội, xã hội tư bản sẽ chuyển sang
xã hội chủ nghĩa - cộng sản chủ nghĩa”. Tư tưởng sâu xa của
HCM không chỉ là ở sự lựa chọn hướng đi của dân tộc phù hợp
với quy luật phát triển của lịch sử. Giá trị nhân văn trong cách
nhìn mới của HCM là ở chỗ người xem xã hội XHCN là hướng đi
tối ưu của lồi người. Chính vì vậy, ngay từ khi đất nước cịn
chìm

đắm trong vịng nơ lệ, HCM đã quyết chọn con đường

cách mạng dân quyền để thực hiện dân sinh, tiến lên CNXH.
CNXH, với bản chất nhân đạo và đầy sức sống của nó, nơi thể
hiện lý tưởng cao đẹp của con người, có khả năng tự tạo ra sức
mạnh nội sinh để thúc đẩy xã hội đi lên phù hợp với lý tưởng
chân chính của nhân dân Việt Nam. Độc lập dân tộc & CNXH đã
trở thành nhân lõi xuyên suốt lý tưởng xây dựng XH mới



triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh.
Việc xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp thực hiện con
đưòng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong mấy chục năm
qua là kết quả của sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta,
trong đó rõ nét nhất là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và
lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, về con

đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Sự vận dụng sáng
tạo đó thể hiện rõ nét trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (từ 1986


đến nay), đã có thể tạo ra sự biến đổi sâu sắc về vật chất, về
kinh tế - xã hội của xã hội nước ta trên tất cả các lĩnh vực. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho
nên nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất q độ. Q trình thực hiện con đuờng đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta cũng nhất định diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định
Mục tiêu tổng quát khỉ kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây
dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp,
tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc. Trước mắt, từ nay đến giữa thế kỷ
XXI, cần phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong Cương lĩnh cũng xác định, để thực hiện thành cơng các
mục tiêu đó, cần phải thực hiện tốt tám phương hướng cơ bản:
1. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; 2.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân. thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; 4. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; 5. Thực hiện đường lối đối

ngoại độc lập, tự chủ hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 6. Xây dựng nền tảng xã


hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; 7. Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân: và, 8. Xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh. Cương
lĩnh cũng nhấn mạnh: Trong quá trình thực hiện các phương
hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải
quyết tất cả mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế
thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ; khơng phiến diện, cực đoan, duy ý
chí;...
Trong 8 phương hướng cơ bản đã được xác định trong Cương
lĩnh thì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa được xác định là phương
hướng đầu tiên, đồng thời cùng với phương hướng đó là phương
hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thực chất, hai phương hướng này là nhằm xác lập
phương thức sản xuất công nghiệp - thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa - nhân tố quyết định trình độ phát triển của nền
sản xuất vật chất xă hội chủ nghĩa, nhân tố quyết định thắng lợi
của một chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm cùa

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội, mỗi xã hội đều được xác lập trên cơ sở của


trình độ phát triển nhất định của một nền sản xuất vật chất,
trong đó, nhân tố quyết định trình độ phát triển ấy, suy đến
cùng là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội tư
bản, sở dĩ phát triển ở trình độ cao hơn xã hội phong kiến và
các xã hội trước đó, bởi vì nó được xác lập trên cơ sở của nển
sản xuất được đặc trưng bởi trình độ phát triển cao của lực
lượng sản xuất - đó là trình độ lực lượng sản xuất theo phương
thức công nghiệp. Xã hội chủ nghĩa với tư cách là một xã hội
phát triển cao hơn xã hội tư bản, tất nhiên nó cũng chỉ có thể
được xác lập trên cơ sở của nền sản xuất công nghiệp. Q
trình đó chỉ có thể được tạo ra, bởi q trình cơng nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam là một nước căn bản cịn ở
trình độ nền sản xuất thủ công lạc hậu, để thực hiện con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội thì việc giải quyết vấn đề cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất lên trình độ
cơng nghiệp hiện đại, phải được coi là nhiệm vụ chiến lược
hàng đầu.
Trong các văn kiện gần đây của Đảng Cộng sản Việt Nam
đều xảc định nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về phương thức thực hiện, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta trong điều kiện hiện nay được xác định là con đường: có
thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có
những bước nhảy vọt; phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng
mọi khả năng đề đạt trình độ cơng nghiệp tiên tiến, đặc biệt là

công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những


thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hóa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) cũng nhấn mạnh
vai trị của khoa học và cơng nghệ: Khoa học và cơng nghệ giữ
vai trị then chốt trong việc phát triển lực luợng sản xuất hiện
đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao nâng suất, chất
lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh
tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong thời kỳ đổi mới, đã có sự nhận thức lại về bản chất và
vị trí, vai trị của kinh tế thị trường trong q trình thực hiện con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một bước nhận thức,
bổ sung và tiếp tục phát triển tư tưởng của Lênin về việc sử
dụng kinh tế nhiều thành phần, kinh tế hàng hóa trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ.
Khái niệm kinh tế thị trường chỉ trình độ phát triển cao của
kinh tế hàng hóa, được đặc trưng bởi phương thức phân bố các
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, không tuân theo cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, đó là kiểu tổ chức kinh tế, được định
đoạt từ một trung tâm kế hoạch của nhà nước, mà là tuân theo

cơ chế thị trường. Tức cơ chế phân bố nguồn lực tự do trên thị
trường, theo nguyên tắc kích thích các nhân tố sáng tạo trong


việc huy động và phát huy các nguồn lực cho q trình phát
triển sản xuất và kinh doanh, nhờ đó cơ chế này có thể huy
động dược tối đa và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực,
tức là các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội vào việc tăng
truởng và phát triển kinh tế.
Như vậy, bản thân cơ chế thị trường khơng mang tính giai
cấp, nhưng việc sử dụng kinh tế thị trường theo mục đích nào,
thì lại có thể mang tính giai cấp. Sự khác nhau cơ bản giữa kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là ở hai điểm cơ bản, đó là sự khác nhau về
mục tiêu xã hội và về vai trò của quan hệ sản xuất nền tảng
trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện hiện nay cần phải có
sự thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường trong tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng tiếp tục được khẳng
định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011): Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh vả hình thức phân phối. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan

trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Thành phần


kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được
khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan
kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng
phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại
thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng
xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền
của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều
có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối
bảo đảm cơng bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn
lực được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguốn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền
kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách và
lực lượng vật chất.
Xã hội XHCN với bản chất và sức sống của nó thì chỉ có thể
thực hiện được trên cơ sở một Nhà nước vững mạnh của dân,
do dân và vì dân. Đó là một Nhà nước do nhân dân làm chủ.

Chính phủ là cơ quan Nhà nước cao nhất tập trung quyền lực


của

nhân dân do nhân dân giao phó vận hành theo cơ chế

pháp quyền, thực hiện mọi trách nhiệm vì cuộc sống của nhân
dân. Cán bộ là người đại diện cho ý chí của nhân dân, là cơng
bộc của dân. Một Nhà nước như vậy sẽ là nơi tập trung và thể
hiện toàn bộ sức mạnh của nhân dân, tạo ra sức mạnh xã hội.
Kinh tế quyết định chính trị, chính trị tập trung ở kinh tế. Vì
vậy cần phải tăng cường phát triển kinh tế cho đất nước, ngày
càng phải quan tâm đến vấn đề hợp tác hoá nhiều hơn để quy
tụ sức mạnh toàn dân trong xây dựng nền kinh tế mới, cải tạo
quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, từng bước cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội. Tóm lại cần phải có một nền kinh tế vững
mạnh, do nhân dân lao động làm chủ đất nước và làm chủ kinh
tế để bảo đảm cho đất nước phát triển.
Kinh tế là nền tảng và là yếu tố hàng đầu của phát triển xã
hội thì văn hoá - khoa học - giáo dục là nguồn lực nội sinh từ
thượng tầng kiến trúc tác động đến tận hạ tầng cơ sở, tạo nên
sự vận động của tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Vì vậy,
cần phải thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để nâng
cao năng suất lao động, tạo động lực chuyển biến nền KT - XH,
thay đổi quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, góp phần

làm


chuyển chất xã hội và đưa xã hội đi theo con đường XHCN.
Phát triển khoa học - kỹ thuật tất yếu gắn liền với giáo dục đào tạo con người. Con người là nội lực quyết định nhất của lực
lượng sản xuất; nó là chủ thể tạo ra, đồng thời sử dụng khoa
học - kỹ thuật, điều hành tồn bộ q trình xã hội. Vì vậy mà
Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Muốn xây dựng CNXH phải có con
người xã hội chủ nghĩa”

- “Những con người vừa hồng vừa


chuyên”. Sức mạnh của một dân tộc là tri thức, là trí tuệ “Một
dân tộc dốt là dân tộc yếu”. Phải diệt giặc dốt, nâng cao dân trí,
bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài. Dân trí là điều kiện để
thực hiện văn hoá - xã hội, tạo tiềm năng trí tuệ và sức vươn
lên một xã hội nhân văn.
Sức sống của phát triển lâu bền chỉ có được khi một xã hội
phát huy cao độ các yếu tố sức mạnh truyền thống và cái mới
hiện đại. Sự gắn bó hài hoà truyền thống - hiện đại là nguyên
tắc của phát triển. Bởi ở đó, tương lai được tiếp sức từ nguồn
sống của quá khứ và của hiện tại. Truyền thống là tinh hoa và
sức mạnh kết tụ từ ngàn đời của một dân tộc. Nó làm cơ sở cho
xã hội truyền thống đi vào hiện đại. Hiện đại nâng cao truyền
thống - đó là sức mạnh và sức bền của phát triển.
Yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế được thể hiện qua quan hệ
riêng chung trong triết lý phát triển xã hội. Dân tộc là bộ phận
của quốc tế. Một dân tộc phải nằm trong và dựa vào nhiều dân
tộc khác như là quan hệ tất yếu tự nhiên mới có thể cùng tồn
tại và trưởng thành. Xu thế và hoàn cảnh quốc tế là điều kiện
quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một quốc gia. Vì
vậy, cần phải học hỏi hợp tác quốc tế, giao lưu văn hoá xã hội

với thế giới để đất nước có điều kiện tiến xa và nhanh hơn nữa.
Yếu tố tự nhiên cũng hết sức quan trọng đối với sự phát
triển đất nước, nó là một trong những yếu tố của đối tượng lao
động. Vì vậy cần phải biết khai thác hợp lý các

tài nguyên,

đảm bảo tái sản xuất, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường.
Đảm bảo cho sức khoẻ con người - điều kiện quan trọng cho
sức mạnh của một quốc gia.


Tóm lại, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn là con
đường duy nhất đúng đắn, bởi nó có đủ cơ sở, lý luận khoa học
của chủ nghĩa Mác-Lênin và được thực tiễn từng bước chứng
minh là thích hợp. Xét về mặt lịch sử, đó là con đường lâu dài
và phải trải qua những bước trung gian của sự quá độ, phù hợp
với mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Con đường quá độ đó chỉ có
thể dẫn tới chủ nghĩa xã hội khi thực hiện thành cơng sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn kết với phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời với q trình đó
cịn phải là q trình hồn thiện hệ thống chính trị, pháp luật và
phát triển tồn diện các mặt văn hóa, xã hội.


Kết Luận
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội cung cấp cơ sở khách
quan để nghiên cứu xã hội, thể hiện rõ qua lý luận “ Sự phát
triển của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự

nhiên” với ý nghĩa thể hiện rằng hình thái kinh tế xã hội vận
động theo những quy luật khách quan vốn có của nó chứ khơng
tn theo ý muốn của con người. Nghiên cứu học thuyết về
hình thái kinh tế giúp ta có cơ sở để phân biệt giữa các thời kỳ
lịch sử khác nhau, tìm ra những nguyên nhân và cơ sở của sự
xuất hiện và biến đổi các hiện tượng xã hội trong khn khổ
những hình thái kinh tế xã hội nhất định một cách khoa học và
khách quan nhất. Lý thuyết về hình thái kinh tế khơng phải là
điều kết thúc về phát triển nhận thức xã hội, nhưng cho đến
nay, nó đã và đang đem đến cho ta một hệ thống phương pháp
luận rất cơ bản để nhận thức và đấu tranh xây dựng một xã hội
mới.
Hình thái kinh tế xã hội là cơ sở lý luận để Đảng nghiên
cứu mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhận thức
và vận dụng đúng nguyên tắc của lý luận về hình thái kinh tế
xã hồi giúp Đảng và nhà nước tăng cường hệ thống chun
chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động,
củng cố và hồn thiện những thích ứng với sự phát triển đa
dạng các thành phần kinh tế theo định hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội, tạo điều kiện giải phóng lao động, đẩy nhanh sự phát
triển của lực lượng sản xuất bằng việc hồn thành sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ứng dụng các thành
tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kết hợp


với sự tăng cường dân chủ nhân dân dưới sự lạnh đạo của
Đảng.
Tóm lại, qua bài tiểu luận này tác giả muốn nhân mạnh hai
vấn đề lớn. Thứ nhất, bản chất của phát triển là sự vận động
theo hướng đi lên của bản thân sự vật hiện tượng của giới tự

nhiên, con người và xã hội. Và hình thái kinh tế xã hội cũng
khơng nằm ngồi quy luật đó “Sự phát triển của hình thái kinh
tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên”, nó khơng do một ý thức
chủ quan nào mà nó vận động một cách tự nhiên khách quan.
Thứ hai, Đảng và nhà nước ta đã vận dụng lý luận về hình thái
kinh tế xã hội một cách sáng tạo, linh hoạt bằng việc lựa chọn
con đường bỏ qua tư bản chủ nghĩa quá độ lên xã hội chủ
nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa theo con
đường rút ngắn Đảng và Nhà nước đã xác định việc thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm, kết hợp
với phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, hồn thiện hệ thống chính trị, pháp luật và phát triển
tồn diện các mặt văn hóa xã hội.



×