Tác động của chính sách và các quy định đối với
hoạt động ngân hàng (Phần 2)
Trong khi những lý do cho việc quản lý ngân hàng đã được xác định rõ thì những
ảnh hưởng của các quy định đối với hoạt động ngân hàng lại vẫn đang được tranh
luận. Một trong những lý thuyết quản lý đầu tiên được nhà kinh tế học George
Stigler đưa ra với nội dung là các công ty trong những ngành chịu sẹ quản lý chặc
chẽ thường tìm cách thoát khỏi hàng rào quy định, tạo ra lợi nhuận mang tính độc
quyền bởi vì thực tế là các quy định thường ngăn cản sự gia nhập của các công ty
khác vòa những ngành được kiểm soát. Do vậy, ngân hàng có thể phải chịu tổn
thất nếu các quy định thay đổi bởi vì họ không còn được hưởng sự bảo hộ độc
quyền. Mặt khác Sam Peltzman cho rằng các quy định đã che chở cho công ty
khỏi tác động của những biến động trong nhu cầu và chi phí, giảm bới rủi ro. Nếu
đúng như vậy, điều đó hàm ý rằng sự thay đổi của các quy định buộc ngân hàng
phải đối mặt với rủi ro lớn hơn và cuối cùng, tao ra nhiều vụ phá sản ngân hàng
hơn.
Gần đây, Edward Kane đã lập luận rằng các quy định có thể làm tăng thêm niềm
tin của khách hàng, theo đó có thể tạo ra sự trung thành của khách hàng với ngân
hàng. Kane tin rằng trên thực tế các cơ quan quản lý cũng cố gắng đưa ra những
quy định hữu ích để mở rộng ảnh hưởng của mình đối vớ các công ty được kiểm
soát nói riêng và với công chúng nói chung. Hơn nữa, ông còn cho rằng giữa các
doanh nghiệp chịu sự quản lý và các cơ quan quản lý hiện đang diễn ra một cuộc
đấu tranh, được gọi là sự "đấu tranh biện chứng trong quản lý". Điều đó nghĩa là,
một khi quy định đã được soạn thảo và đưa ra thi hành, các ngân hàng chẵn chắn
sẽ nghiên cứu để tìm ra những vấn đề xung quanh điều luật mới nhằm tối đa hóa
lợi ích của nó. Nếu các ngân hàng thành công trong việc chinh phục hệ thống quy
định hiện hành, những điều luật mới sẽ lại được đặt ra, lại khuyến khích ngân hàng
tìm ra sự đổi mới trong dịch vụ, và bởi vậy cuộc đấu tranh giữa các doanh nghiệp
chịu sự quản lý với các cơ quan quản lý rõ ràng sẽ tiếp diễn. Kane tin rằng các quy
định cũng tạo ra những động lực đối với các doanh nghiệp ít bị kiểm soát hơn, cố
gắng lôi kéo khách hàng từ các doanh nghiệp bị kiểm soát nhiều hơn. Tình trạng
này dường như đã xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng những năm gần đây khi các
quỹ đầu tư, các chương trình hưu trí, và các tổ chức tài chính ít bị kiểm soát đã
chiếm được nhiều khách hàng tốt nhất của ngân hàng.
Các luật ngân hàng quan trọng
Một phương pháp hữu ích để xem xét hiệu lực tác động của các quy định quản lý
đối với ngành ngân hàng là nghiên cứu các bộ luật quan trọng. Chúng cung cấp
cho các cơ quan quản lý tiểu bang và liên bang thẩm quyền quản lý và sự định
hướng trong hoạt động.
Luật ngân hàng và tiền tệ quốc gia (1963-1964). Bộ luật Liên bang quan trọng
đầu tiên về ngân hàng ở Mỹ là "Luật ngân hàng và tiền tệ quốc gia" (National
Currency and Bank Acts) được thông qua trong thời kỳ nội chiến. Bộ luật này đã
thiếp lập một hệ thống chuyên trách về các ngân hàng quốc gia. Đây là một cơ
quan được tách ra từ Bộ tài chính Mỹ, đó là Cục kiểm soát tiền tệ (Comptroller of
the Curency) hay Cơ quan quản lý ngân hàng quốc gia (Administrator of National
Banks). Bất cứ ai muốn thành lập ngân hàng cũng có thể nhận được cấp giấy phép
với điều kiện họ phải tuân thủ các quy định của liên bang, đồng thời cam kết đủ
vốn để thành lập ngân hàng.
Cục kiểm soát tiền tệ không chỉ đánh giá sự cần thiết và cho phép thành lập các
ngân hàng quốc gia mới mà còn thường xuyên kiểm tra tất cả các ngân hàng đang
hoạt động. Tần suất và mức độ khắt khe của các cuộc kiểm tra thay đổi tùy theo
toàn bộ tình hình tài chính của ngân hàng. Trong vòng từ 12 đến 18 tháng, bất kỳ
ngân hàng quốc gia nào cũng bị đoàn thanh tra liên bang kiểm tra ít nhất 1 lần.
Thêm vào đó, Cục kiểm soát tiền tệ còn phải xem xét tất cả đơn xin thành lập chi
nhánh mới của các ngân hàng quốc gia và những vụ sát nhập trong đó có sự tham
gia của ngân hàng quốc gia. Cục kiểm soát tiền tệ có thể quyết định đóng cửa một
ngân hàng quốc gia, nếu nó cho là ngân hàng đó mất khả năng thanh toán hoặc gây
ra những tổn thất tài chính nghiêm trọng đối với người gửi tiền.
Luật Dự trữ liên bang (1913). Hàng loạt những cuộc suy thoái kinh tế nặng nề và
những vụ hoảng loạn tài chính cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã đưa đến sự thành
lập cơ quan quản lý ngân hàng liên bang thứ hai - Hệ thống dự trữ liên bang. Chức
năng chủ yếu của tổ chức này, đối với ngành ngân hàng, là đóng vai trò người cho
vay cuối cùng, cung cấp các khoản tín dụng tạm thời cho những ngân hàng đang
phải đương đầu với tình trạng tài chính khẩn cấp, giúp đỡ ổn định thị trường tài
chính, giữ vững lòng tin của công chúng. Cục dữ trữ liên bang (Fed) được lập ra
cũng nhằm mục đích cung cấp các dịch vụ quan trọng cho ngành ngân hàng, trong
đó có việc thiếp lập một mạng thanh toán bù trừ séc trên phạm vi toàn quốc. Tuy
nhiên, nhiệm vụ quan trọng của Fed ngày nay là kiểm soát tình hình tiền tệ - tín
dụng để thúc đẩy ổn định kinh tế. Nhiệm vụ cuối cùng này của Fed được gọi là lập
và quản lý chính sách tiền tệ.
Luật Mc Fadden - Pepper (1972). Các luật liên bang ban đầu không đề cập đến
việc liệu các ngân hàng quốc gia có thể thành lập chi nhánh không và nếu có thì
theo quy định nào. Ngoài ra, còn một vấn đề là các ngân hàng có giấy phép thành
lập liên bang có phải tuân thủ các luật của liên bang không hay chỉ phải tuân thủ
luật liên bang. Đạo luật Mc Fadden-Pepper đã trả lời những câu hỏi này, cho phép
các ngân hàng quốc gia mở chi nhánh tại thành phố đặt trụ sở chính nếu luật của
bang đó không cấm. Tuy nhiên việc lập chi nhánh ở các bang khác nhau nếu
không có sự đồng ý của chính quyền liên bang thì không được phép tiến hành. Kết
quả là các bang có quyền tự quyết định đối với cả ngân hàng do bang thành lập và
ngân hàng quốc gia hoạt động trong lãnh thổ bang về thời gian và địa điểm mà các
ngân hàng sẽ được phép thiết lập chi nhánh.
Luật ngân hàng Glass-Steagall (1933). Trong lịch sử, có lẽ luật ngân hàng liên
bang quan trọng nhất là luật Glass-Steagall, mang tên các nhà tài trợ của thượng
viện và hạ viện Mỹ, được thông qua trong thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc Đại suy
thoái. Luật Glass-Steagall quy định, các ngân hàng quốc gia sẽ được phép mở chi
nhánh tại bang nơi n gân hàng đặt trụ sở chính nếu luạt lệ của bang này cũng cho
phép các ngân hàng bang mở chi nhánh. Tuy nhiên, vì một sự thỏa hiệp chính trị,
ngân hàng quốc gia (bao gồm những ngân hàng lớn nhất nước Mỹ) không được
quyền tham gia vào các hoạt động ngân hàng đầu tư đói với hầu hết các đợt phát
hành chứng khoán, đặc biệt là không được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
trái phiếu và cổ phiếu mới - một đặc quyền trước đây của ngân hàng khi luật Mc
Fadden-Pepper 1972 được thông qua.