Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế: Mở đầu docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.41 KB, 7 trang )

Khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế:
Mở đầu

Kinh điển khởi nghiệp: Tìm chìa khóa dưới chân cột đèn


(*) Bài viết này được chuyển ngữ từ công trình có tên “Entrepreneurship
and economic growth,” của tác giả Randall G. Holcombe; Giáo sư giữ ghế
DeVoe Moore về Kinh tế học tại Florida State University. Công trình xuất
bản trên tạp chí khoa học The Quarterly Journal of Austrian Economics
1(2): 45-62 (1998).
Điều gì dẫn đến tăng trưởng kinh tế? Chấp nhận chút rủi ro do việc đơn giản
hóa quá mức, những lời giải đáp do các nhà kinh tế học đưa ra cho câu hỏi
này có thể được chia thành 2 trường phái chủ chốt. Một trường phái đi theo
tư tưởng kinh tế của Adam Smith (1776) và trường phái kia đi theo tư tưởng
của David Ricardo (1821). Smith, với mục tiêu bao trùm là nhằm tới sự hiểu
biết về quá trình tạo ra của cải, đã khởi sự học thuyết của mình bằng bài học
đầu tiên nói rằng việc phân công lao động bị giới hạn bởi quy mô của thị
trường. Khi các thị trường mở rộng, quá trình khởi nghiệp dẫn tới đổi mới và
sáng tạo, yếu tố lại dẫn tới việc tiếp tục phân công lao động và năng suất lao
động tăng lên.
Ngược lại, Ricardo tiên liệu rằng sản lượng kinh tế là hàm của các đầu vào
bao gồm đất đai, lao động và tư bản (vốn). Quá trình đầu tư có thể sản sinh
ra nhiều vốn hơn, nhưng do bị chế ngự bởi năng suất nhân tố cận biên giảm
dần và do sự tồn tại của các nhân tố bị cố định như đất đai hữu hạn, sự tăng
trưởng của dân số sẽ luôn luôn vượt trội sự tăng trưởng kinh tế, khiến cho
phần lớn dân số bị giới hạn ở mức thu nhập chỉ đủ tồn tại. Những tư tưởng
của Ricardo và bạn của ông, một nhân vật đương đại là Malthus (1798) đã
hình thành nên cách nhìn về kinh tế học như một ngành “khoa học sầu
thảm.“ Cách nhìn này rõ ràng là tương phản với cách nhìn của Smith về khởi
nghiệp và sáng tạo-đổi mới, những nhân tố dẫn đến của cải gia tăng nhanh


chóng.
Cách thức diễn đạt về tăng trưởng của trường phái Smith và Ricardo như
vừa nêu trên rõ ràng là đơn giản hóa rất nhiều, vì cả hai học giả đều có tầm
hiểu biết sâu sắc hơn nhiều về quá trình tăng trưởng so với sự biểu đạt ngắn
gọn ở trên. Ở khía cạnh nào đó, cách biểu đạt này khá “bất công” đối với cả
Smith lẫn Ricardo vì chưa thể trình bày rõ được độ uyên thâm và sự dồi dào
quan điểm cũng như kiến thức của các tiền bối này. Nhưng ở khía cạnh
khác, cách biểu đạt này cũng khá công tâm. Đó là vì sau tất cả những phân
tích và lập luận về quá trình tăng trưởng kinh tế, rốt cục Smith kết luận rằng
tiềm năng tăng trưởng kinh tế hầu như là vô tận, trong khi đó Ricardo nhìn
nhận rằng tiềm năng đó bị hạn chế ngặt nghèo bởi sự hữu hạn của nguồn lực
kinh tế (và nhân tố cụ thể nhất ông nói tới là đất đai). Nếu có cách nào để
nêu rõ sự tương phản các tư tưởng của các kinh tế gia, rõ ràng cách công
bằng là biểu đạt theo các kết luận cuối cùng.
Tầm nhìn của Smith về tăng trưởng kinh tế cho thấy chính xác hơn Ricardo,
nhưng nghề nghiệp kinh tế học lại bám sát các tư tưởng của Ricardo hơn là
của Smith trong việc phát triển tiếp lý thuyết về tăng trưởng kinh tế. Một
phần lý do là vì bản chất so sánh tĩnh của quá trình mô hình hóa kinh tế
(economic modeling) đã khiến cho cách tiếp cận hàm sản xuất của Ricardo
có tính ứng dụng tốt hơn đối với công tác xây dựng mô hình, trong khi đó
yếu tô “sáng tạo-đổi mới” của Smith dẫn tới tăng cường phân công lao động
xã hội lại rất khó có thể lên mô hình nghiên cứu một cách chính xác.
Hai nhà kinh tế học cổ điển


Adam Smith
(1723-1790)

David Ricardo
(1772-1823)

Khi mà kinh tế học đã ngày càng trưởng thành như một ngành khoa học ở
thế kỷ XX, các nhà kinh tế cũng đã sẵn sàng hơn để đương đầu giải quyết
những bài toán nằm trong nhóm vấn đề mô hình cân bằng tổng quát của nền
kinh tế, chứ không phải để giải quyết các bài toán khó “tham số hóa.”
[1]

[1] Một nhà quan sát phát biểu rằng, “Khi công cụ duy nhất ta có là một
chiếc búa, thì mọi sự vật trông đều giống cái đinh.” Phương pháp nghề
nghiệp kinh tế học đối với việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế nhắc nhở
chúng ta về một câu chuyện cười trong đó một gã đàn ông đứng dưới cột đèn
đường tìm chìa khóa trong lúc một gã khác tiến đến hỏi xem có cần giúp đỡ.
“Anh đánh rơi chiếc khóa ở đâu,” người có nhã ý giúp hỏi. “Ở phía bên kia
đường,” trả lời. “Vậy tại sao anh lại tìm ở đây?” “À, do ở đây sáng hơn.”
Bài chúng ta đang thảo luận là một thứ ánh sáng đèn không được sáng rõ
lắm, nhưng có lẽ lại là nơi tìm được câu trả lời.
Trong phương pháp hàm sản xuất Ricardo, đầu tư là chìa khóa của tăng
trưởng kinh tế, trong khi đó theo quan điểm của Smith, sáng tạo-đổi mới dẫn
tới việc tăng mức phân công lao động xã hội chính là chìa khóa. Câu trả lời
của Smith dường như là hoàn toàn đúng đắn, nhưng ông lại không giải thích
quá trình sáng tạo diễn ra như thế nào. Kirzner (1973) đưa ra một hiểu biết
rất quan trọng về khía cạnh này của Smith bằng cách mô tả quá trình khởi
nghiệp (entrepreneurship) như một quá trình hành động dựa trên “cơ hội tạo
lợi nhuận mà trước đó chưa phát hiện ra.” Theo cách đó, sự khởi nghiệp theo
nghĩa của Kirzner có thể tạo ra “cỗ máy” tạo năng lượng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế theo trường phái Smith.
Theo cách Kirzner xem xét vấn đề, kiến
thức khởi nghiệp là những cơ hội tạo lợi
nhuận mà trước đó đã trôi qua “lãng
phí” mà không được chú ý. Những
người khởi nghiệp (entrepreneurs) hành

động dựa trên những hiểu biết về các cơ
hội đó và nền kinh tế trở nên có năng suất cao hơn bởi vì nó có thể sản sinh
ra sự thỏa mãn người tiêu dùng lớn hơn, ở mức chi phí thấp hơn. Sự kết nối
giữa quá trình khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế nằm ở chỗ các cơ hội lợi
nhuận trước đó chưa được để ý bắt buộc phải sinh ra từ đâu đó, và nguồn cơ
hội lợi nhuận phổ biến nhất chính là hiểu biết của những người khởi nghiệp.
Các ý tưởng khởi nghiệp xuất hiện khi người khởi nghiệp thấy rằng các ý
tưởng triển khai bởi những người đi trước có thể kết hợp lại để cho ra một
quá trình hoặc sản phẩm mới.
Các cơ hội khởi nghiệp có xu hướng xuất hiện trong bối cảnh thời gian-
không gian cụ thể nhất định, vì thế theo Hayek (1945) một nền kinh tế tập
trung thấp cho phép các cá nhân hoạt động kinh doanh dựa trên hiểu biết
khởi nghiệp, rồi tưởng thưởng cho hành vi khởi nghiệp, sẽ làm sản sinh ra
một môi trường xã hội thúc đẩy các tư tưởng khởi nghiệp ngày càng dồi dào.
Nhìn vào cách thức này, quá trình khởi nghiệp là nền móng của tăng trưởng
kinh tế. Các tư tưởng và kiến thức khởi nghiệp tạo ra nền móng để tiếp tục
sản sinh ra tư tưởng và kiến thức mới, cứ thế chúng thúc đẩy quá trình tăng
trưởng.
[2]

[2] Schumpeter (1934, p.154), bàn về một bối cảnh trong đó mọi lợi nhuận
bị tối thiểu hóa do cạnh tranh tại điểm cân bằng cạnh tranh, và một bối cảnh
khác, trong đó lợi nhuận tạo ra chính là trả công cho “công việc khởi
nghiệp.” Ông nói “Không có sự đầu tư cho phát triển cũng sẽ không thể có
lợi nhuận, mà không có lợi nhuận thì đừng hi vọng phát triển.” Rõ ràng thái
độ này nắm bắt rất rõ rệt cách thức quá trình khởi nghiệp giúp dẫn đến tăng
trưởng, nhưng Kirzner cũng ghi nhận lại một số khác biệt giữa cách tư duy
của ông và Schumpeter.
Trước khi bàn tiếp vào chi tiết của tăng trưởng kinh tế, cũng rất cần thiết nói
rõ ranh giới khác biệt giữa quá trình tăng trưởng kinh tế và một môi trường

thuận lợi cho tăng trưởng diễn ra. Sau khi hệ thống các nền kinh tế kế hoạch
tập trung thất bại ở Châu Âu năm 1989, chúng ta nhận ra rằng một môi
trường có tính kinh tế thị trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế vượt xa so
với môi trường kế hoạch hóa tập trung, và khoa học kinh tế thực chứng đã
xác nhận hoàn toàn rõ ràng quan sát này.
[3]

[3] Chẳng hạn chúng ta có thể xem tài liệu Gwartney, Lawson, and Block
(1996), Scully (1988, 1992), và Knack (1996).
Đề tài vai trò của thị trường trong quá trình tăng trưởng kinh tế rất phù hợp
đối với câu hỏi về chính sách kinh tế công “loại tổ chức nào giúp củng cố
tăng trưởng kinh tế,” nhưng lại có tính chất “ngoại vi” đối với các chủ đề lý
thuyết đang được xem xét. Câu hỏi được nghiên cứu kỹ trong bài luận này là
quá trình tăng trưởng kinh tế diễn ra như thế nào, trong một bối cảnh thị
trường cụ thể. Câu trả lời, tóm gọn trong một câu thôi, chính là những hành
động của quá trình khởi nghiệp tạo nên một môi trường giúp có thể diễn ra
những đổi mới-sáng tạo tự thân vận động, rồi sau đó lại tiếp tục dẫn đến sự
gia tăng năng suất lao động.
Saga.vn


×