MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ODA
1.1. Nguồn vốn ODA
1.1.1. Nguồn gốc ra đời của ODA
1.1.2. Khái niệm ODA
1.1.3. Phân loại ODA
1.1.4. Đặc điểm của ODA
1.2. Vai trò của vốn ODA đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
1.2.1. Vai trò của ODA đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
1.2.2. Những xu hướng mới của ODA trên thế giới
Chương II: THỰC TRẠNG THU HÚT, SỬ DỤNG ODA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
ODA ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
2.1. Nhu cầu ODA với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
2.2. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong tăng trưởng kinh tế
2.2.1. Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam
2.2.2. 20 năm từ 1993-2012
2.2.3. 9 tháng đầu năm 2013
2.3. Tình hình giải ngân ODA 9 tháng đầu năm 2013
2.4. Tác động của ODA đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Chương III: ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT, SỬ DỤNG ODA VỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
3.1. Đánh giá việc sử dụng ODA
3.1.1. Thành tựu
3.1.2. Hạn chế
3.2. Giaỉ pháp và định hướng thu hút và sử dụng ODA hiệu quả
KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp công nghiệp hoá(CNH), hiện đại hoá(HĐH) đất nước với mục
tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
đã đi được một chặng đường khá dài. Nhìn lại chặng đường đã qua chúng ta có thể
thấy rằng chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm đạt trên 7%, đời sống của nhân dân ngày càng được
1
nâng và không cao những đạt được những thành tựu về mặt kinh tế mà các mặt của
đời sống văn hoá- xã hội, giáo dục, y tế cũng được nâng cao rõ rệt, tình hình chính
trị ổn định, an ninhquốc phòng được giữ vững, các mối quan hệ hợp tác quốc tế
ngày càng được mở rộng. Đạt được những thành công đó bên cạnh sự khai thác
hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng một vai trò
quan trọng và trong đó viện trợ phát triển chính thức(ODA) của các quốc gia và tổ
chức quốc tế giữ vai trò chủ đạo. Thực tế tiếp nhận, sử dụng vốn và thực hiện các
dự án ODA thời gian qua cho thấy ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối
với phát triển đất nước, ODA đã giúp chúng ta tiếp cận, tiếp thu những thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế
và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội tương đối hiện đại. Để tìm hiểu rõ
hơn về thực trạng thu hút và sử dụng ODA ở nước ta, nhóm em đã quyết định lựa
chọn đề tài: “ODA và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” để nghiên cứu.
2
Chương I:
Tổng quan về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA:
1.1.1. Nguồn gốc ra đời của ODA:
Đại chiến Thế giới thứ 2 kết thúc cũng là thời điểm mở đầu cho một cuộc
chiến mới kéo dài gần nửa thế kỷ, đó là chiến tranh lạnh giữa phe Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) và Tư bản chủ nghĩa, mà đứng đầu là Liên Xô và Hoa Kỳ. Hai cường
quốc này thực thi nhiều biện pháp, đặc biệt là về kinh tế để củng cố hệ thống đồng
minh của mình.
Đối với Hoa Kỳ, nền kinh tế không những không bị tàn phá mà ngày càng
giầu có nhờ chiến tranh. Năm 1945, GNP của Hoa Kỳ là 213,5 tỷ USD, bằng 40%
tổng sản phẩm toàn thế giới. Ở thái cực khác, các nước đồng minh của Hoa Kỳ lại
chịu tác động nặng nề của cuộc chiến tranh. Sự yếu kém về kinh tế của các nước
này khiến Hoa Kỳ lo ngại trước sự mở rộng của phe XHCN. Để ngăn chặn sự phát
triển đó giải pháp quan trọng lúc bấy giờ là giúp các nước tư bản sớm hồi phục
kinh tế. Năm 1947, Hoa Kỳ triển khai kế hoạch Marshall, viện trợ ồ ạt cho các
nước Tây Âu. Từ năm 1947 đến 1951 Hoa Kỳ viện trợ cho các nước Tây Âu tổng
cộng 12 tỷ USD (tương đương 2,2% GDP của thế giới và 5,6% GDP của Hoa Kỳ
lúc bấy giờ). Về phía mình, Liên Xô cũng sử dụng biện pháp trợ giúp kinh tế để
củng cố và gia tăng số lượng các nước gia nhập phe XHCN. Với tinh thần “quốc tế
vô sản” Liên Xô đã tài trợ cho nhiều quốc gia trên thế giới, từ các nước ở châu Âu,
châu Á, đến châu Phi và Mỹ La-tinh. Năm 1991, khi Liên Xô tan rã, tổng số tiền
các nước còn nợ Liên Xô lên đến con số khổng lồ, quy đổi ra đôla Mỹ là 120 tỷ.
Viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Tây Âu và của Liên Xô cho các nước XHCN
được coi là các khoản ODA đầu tiên. Mặc dù mục tiêu chính của các khoản viện
trợ này là chính trị nhưng chúng cũng đã có tác dụng nhất định giúp các nước tiếp
nhận phát triển KTXH. Đến năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các nước
3
đang và kém phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giầu đối với sự
phát triển của các nước nghèo, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
thành lập Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu,
khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém
phát triển. Kể từ khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra đời vào năm 1961, thuật ngữ
ODA được chính thức sử dụng, với ý nghĩa là sự trợ giúp có ưu đãi về mặt tài
chính của các nước giầu, các tổ chức quốc tế cho các nước nghèo.
1.1.2. Khái niệm ODA:
ODA là tên gọi tắt của ba chữ tiếng Anh: Official Development Assistance,
có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính
thức.
Năm 1972, OECD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra khái
niệm ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính
của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít
nhất 25%”.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các
nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Liên hiệp quốc, trong một
phiên họp toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước phát triển
dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền vững về kinh tế và xã
hội của các nước đang phát triển.
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
ban hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ
thì ODA được định nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA)
được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các
tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ.
4
Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu ODA bao gồm các khoản viện trợ
không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ
chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên
hợp quốc (United Nations -UN), các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước
đang và chậm phát triển.
1.1.3. Phân loại nguồn vốn ODA:
Theo hình thức cung cấp:
- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp vốn ODA mà nước tiếp nhận
không phải hoàn trả lại cho các Nhà tài trợ.
- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều
kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không
hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có
ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc;
- ODA vayhỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay
ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính
chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng
buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
Theo phương thức cung cấp:
- ODA hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ
thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho
vay ưu đãi.
- ODA phi dự án: Bao gồm các loại hình sau:
o Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ)
hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hóa được chuyển qua
hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách.
o Hỗ trợ trả nợ (hỗ trợ ngân sách).
5
- ODA hỗ trợ chương trình: là khoản vốn ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ
được sử dụng như thế nào.
Theo Nhà tài trợ:
- ODA song phương: là nguồn vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp
cho Chính phủ nước tiếp nhận. Thông thường vốn ODA song phương được tiến
hành khi một số điều kiện ràng buộc của nước cung cấp vốn ODA được thoả mãn.
- ODA đa phương: là nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế cung cấp cho
Chính phủ nước tiếp nhận. So với vốn ODA song phương thì vốn ODA đa phương
ít chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại, nhưng đôi khi lại chịu những áp lực
mạnh hơn về chính trị.
Căn cứ theo mục đích:
- Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công
nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư,
phát triển thể chế và nguồn nhân lực… hình thức hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ
không hoàn lại.
Căn cứ theo điều kiện:
- ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
- ODA có ràng buộc nước nhận:
o Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay dịch vụ
bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc
6
kiểm soát (đối với viện trợ song phương) hoặc các công ty của các nước thành viên
(đối với viện trợ đa phương).
o Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một
số dự án cụ thể.
1.1.4. Đặc điểm của ODA:
Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức quốc
tế đối với các nước đang và chậm phát triển.
Với mục tiêu trợ giúp các nước đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính
ưu đãi hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác. Thể hiện:
- Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD.
- Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài (chỉ trả
lãi, chưa trả nợ gốc). Vốn ODA của WB, ADB, Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật
Bản (Japanese Bank for International Cooperation - JBIC) có thời gian hoàn trả là
40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
- Thông thường vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này dưới 25%
tổng số vốn vay. Ví dụ OECD cho không 20-25% tổng vốn ODA. Đây chính là
điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.
- Các khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Lãi suất giao
động từ 0,5% đến 5% /năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường tài chính quốc tế
là trên 7% /năm và hàng năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa hai bên). Ví dụ lãi
suất của ADB là 1%/năm; của WB là 0,75% /năm; Nhật thì tuỳ theo từng dự án cụ
thể trong năm tài khoá. Ví dụ từ năm 1997-2000 thì lãi suất là 1,8%/năm.
Nhìn chung, các nước cung cấp vốn ODA đều có những chính sách và ưu tiên
riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ
7
thuật và tư vấn (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý). Đồng thời, đối tượng ưu tiên
của các nước cung cấp vốn ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể.
Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định:
Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm
theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể
là ràng buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và
thậm chí cả ràng buộc về chính trị. Thông thường, các ràng buộc kèm theo thường
là các điều kiện về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá và dịch vụ của nước tài
trợ đối với nước nhận tài trợ. Ví dụ, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50%
viện trợ phải mua hàng hóa và dịch vụ của nước mình… Canada yêu cầu cao nhất,
tới 65%. Thụy Sĩ chỉ yêu cầu 1,7%, Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là những
nước có tỷ lệ ODA yêu cầu phải mua hàng hóa và dịch vụ của Nhà tài trợ thấp.
Nhìn chung, 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hóa và dịch
vụ của các quốc gia viện trợ. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho
nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Các nước viện trợ nói chung đều
không quên dành được lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực
hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ.
ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ:
Vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất
khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, các nước nhận
ODA phải sử dụng sao cho có hiệu quả, tránh lâm vào tình trạng không có khả
năng trả nợ.
1.2. Vai trò của vốn ODA đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
1.2.1 Vai trò của ODA đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam:
Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như: Hàn Quốc,
Malaixia và từ tình hình thực tế trong nước, trong những năm gần đây Việt Nam đã
8
và đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế với xu hướng mở rộng và đa dạng
hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính trong chiến
lược này là thu hút ODA cho phát triển kinh tế. Vai trò của ODA được thể hiện ở
một số điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.Sự
nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng vốn đầu
tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do đó,
ODA trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư phát triển. Trải qua hai cuộc chiến tranh những cơ sở hạ tầng kỹ thuật của
chúng ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề hầu như không còn gì,
nhưng cho đến nay hệ thống kết cấu hạ tầng đã được phát triển tương đối hiện đại
với mạng lưới điện, bưu chính viễn thông được phủ khắp tất cả các tỉnh, thành phố
trong cả nước, nhiều tuyến đường giao thông được làm mới, nâng cấp, nhiều cảng
biển, cụm cảng hàng không cũng được xây mới, mở rộng và đặc biệt là sự ra đời
của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã tạo ra một môi
trường hết sức thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài
nước. Bên cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật một
lượng lớn vốn ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành giáo dục,
y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp …
Thứ hai, ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ
hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.Một trong những yếu tố quan trọng góp phần
đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả
năng tiếp thu những thành tựu khoa học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua
các dự án ODA các nhà tài trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao
trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài
liệu kỹ thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia nước
ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương trình tham
quan học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia sang
9
Việt Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền
công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này
các nhà tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn
bản, lâu dài đối với chúng ta.
Thứ ba, ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế .Các dự án ODA mà
các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh
tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó còn có
một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những điều đó góp phần vào việc
điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển.Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào
một nước, trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó.
Do đó, một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh,
phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng
không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải
trả cho việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc
hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong
hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ
làm phí tổn đầu tư gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các
cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho
môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở
hạ tầng là rất lớn và nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành
được do đó ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà
nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI.
10
Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh
doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI góp phần
quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.2.2. Những xu hướng mới của ODA trên thế giới:
Trong thời đại ngày nay, dòng vốn ODA đang vận động với nhiều sắc thái
mới. Đây cũng chính là một trong những nhân tố tác động tới việc thu hút nguồn
vốn ODA. Do đó, nắm bắt được xu hướng vận động mới này là rất cần thiết đối với
nước nhận tài trợ. Những xu hướng đó là:
Thứ nhất, Ngày càng có thêm nhiều cam kết quan trọng trong qua hệ hỗ trợ
phát triển chính thức như:
Giảm một nửa tỷ lệ những người đang sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực
vào năm 2015.
Phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các nước vào năm 2015.
Giảm 2/3 tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi vào năm 2015.
Hoàn thiện hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đảm bảo sức khoẻ sinh
sản không muộn hơn năm 2015.
Thực hiện các chiến lược quốc gia và toàn cầu hoá vì sự phát triển bền vững
của các quốc gia.
Thứ hai, Bảo vệ môi trường sinh thái đang là trọng tâm ưu tiên của các nhà
tài trợ.
11
Thứ ba. Vấn đề phụ nữ trong phát triển thường xuyên được đề cập tới trong
chính sách ODA của nhiều nhà tài trợ.Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong
đời sống kinh tế - xã hội được hưởng những thành quả của phát triển, đồng thời
phụ nữ cũng góp phần đáng kể vào sự phát triển. Vì thế sự tham gia tích cực của
phụ nữ và đảm bảo lợi ích của phụ nữ được coi là một trong những tiêu chí chính
để nhìn nhận việc thực hiện tài trợ là thiết thực và hiệu quả.
Thứ tư, Mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ ngày càng cụ thể. Tuy nhiên
ngày càng có sự nhất trí cao giữa nước tài trợ và nước nhận viện trợ về một số mục
tiêu như: Tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế ; Xoá đói giảm nghèo; Bảo vệ môi
trường…
Thứ năm, nguồn vốn ODA tăng chậm và cạnh tranh giữa các nước đang phát
triển trong việc thu hút vốn ODA đang tăng lên.
Vì vậy, Chúng ta cần nắm bắt được những xu thế vận động của dòng vốn ODA
để có những biện pháp hữu hiệu thu hút ODA của các nhà tài trợ.
Chương II:
THỰC TRẠNG THU HÚT, SỬ DỤNG ODA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ODA ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
2.1. Nhu cầu ODA với đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam:
Đất nước ta đang thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH theo đường lối đề ra tại
đại hội Đảng lần thứ VIII với mục tiêu tăng mức thu nhập bình quân đầu người lên
mức 1500 USD vào năm 2020 tức là tăng gấp 7 lần so với mức năm 1995. Để thực
12
hiện được mục tiêu này mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm phải là
8%/năm. Về mặt lý thuyết, muốn đạt được mức tăng trưởng này vốn đầu tư phải
tăng ít nhất là 20%/năm cho đến năm 2015 tức là mức đầu tư cho năm 2000 phải
gấp 2,5 lần năm 1995, cho năm 2005 phải gấp 6,2 lần tức là giai đoạn 2001- 2005
vào khoảng 60 tỷ USD. Trong đó vốn ODA khoảng 9 tỷ USD. Theo “Danh mục dự
án đầu tư ưu tiên vận động vốn ODA thời kì 2001- 2005”, chính phủ đã đưa ra
hàng trăm dự án trong từng lĩnh vực như sau:
Về năng lượng, có 9 dự án với tổng vốn ODA dự kiến trên 1,2 tỷ USD trong
đó lớn nhất là dự án thuỷ điện Đại Thi ở Tuyên Quang(360 triệu ), nhà máy nhiệt
điện Cẩm Phả(272 triệu), nhà máy thuỷ điện thượng Kon tum(100triệu USD).
Trong lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ có 33 dự án với trên 1,8 tỷ USD.
Về cầu có 7 dự án với trên 150 triệu USD, lớn nhất là dự án cải tạo cầu Long Biên
( 72 triệu USD). Về đường biển có 10 dự án với số vốn 600 triệu USD lớn nhất là
xây dựng cảng tổng hợp Thị Vải( 170 triệu USD). Đường sông có 4 dự án với hơn
450 triệu USD lớn nhất là cải tạo giao thông thuỷ, kè chỉnh trị Sông Hồng khu vực
Hà Nội (255triệu USD). Đường sắt có 5 dự án với khoảng 1,4 tỷ USD trong đó
riêng riêng xây dượng 2 tuyến đường sắt trên cao Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội với
tổng số vốn 1,13 tỷ USD. Cấp nước và vệ sinh đô thị có 50 dự án với trên 1 tỷ
USD.
Về nông nghiệp có 33 dự án cần triển khai từ nay đến 2005 với tổng vốn
ODA khoảng 700 triệu USD, trong đó có những dự án lớn như: Chương trình di
dân và kinh tế mới( 300 triệu USD), Phát triển dâu tằm tơ (120 triệu USD). Thuỷ
lợi có 41 dự án với khoảng 1,5 tỷ USD, trong đó dự án quy mô lớn nhất là Thuỷ lợi
Cửa Đạt ở Thanh Hoá( 200 triệu USD), Thuỷ lợi Tả Trạch ở Thừa Thiên Huế( 170
triệu USD). Lâm Nghiệp có 15 dự án và khoảng trên triệu USD, Thuỷ Sản có 15
dự án và khoảng 600 triệu USD. Giáo Dục - Đào tạo có 24 dự án với 400 triệu
USD, lớn nhất là trang bị Đại học Quốc Gia Hà Nội (75 triệu USD).
13
Lĩnh vực Y tế- xã hội có 42 dự án với khoảng 1 tỷ USD. Văn hoá thông tin
có 11 dự án với khoảng 300 triệu USD lớn nhất là tháp truyền hình Hà Nội( 135
triêụ USD). Lĩnh vực khoa học - công nghệ - môi trường có 35 dự án với trên 1,5
tỷ USD, lớn nhất là khu công nghệ cao Hoà Lạc( 480 triệu USD). Trong Bưu chính
viễn thông có 5 dự án với khoảng 450 triệu USD, lớn nhất là cáp quang biển trục
Bắc Nam( 200 triệu USD). Ngoài ra còn có hàng chục dự án hỗ trợ kỹ thuật cho
các ngành, lĩnh vực với mức vốn bình quân mỗi dự án dưới 10 triệu USD.
Trên đây mới chỉ là số vốn cần thiết hỗ trợ từ chính phủ các nước và các tổ
chức quốc tế mà chưa kể số vốn đối ứng không nhỏ trong nước. Những dự án trên
liệu có được thực hiện hay không? Câu trả lời chính là từ chúng ta. Thực hiện được
điều này thể hiện khả năng về khai thác, phối hợp các nguồn lực của chúng ta và
điều quan trọng là giúp chúng ta thực hiện được những mục tiêu đề ra.
2.2. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong tăng trưởng kinh tế:
2.2.1. Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam:
a) Các nhà tài trợ:
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất
nhiều và hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài
trợ đa phương đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam.
Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan
Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật
Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ
Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po.
Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam trong giai đoạn
1993-2012 với khoảng 19,81 tỷ USD. Pháp đứng thứ hai với 3,91 tỷ USD. Hàn
Quốc đứng thứ ba với 2,33 tỷ USD.
Các nhà tài trợ đa phương gồm:
14
Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc
Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của các nước xuất
khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait.
WB đứng đầu trong nhóm 6 ngân hàng phát triển với khoảng 20,1 tỷ USD.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam
kết.
Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp
quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA),
Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), Chương trình
Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc
về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp
quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi
trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và
Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và
Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Ngoài các nước là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ
mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,
15
b) Các lĩnh vực ưu tiên tài trợ:
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh
vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những
lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham
vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thu hút và sử dụng nguồn
hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử
dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm
nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát
triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao
công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
16
Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong thời
kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008) phù hợp với những định hướng ưu
tiên sử dụng vốn ODA nêu trên.
Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết
trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự
án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển
cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung,
Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông nông thôn và điện khí hóa nông
thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển
nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác, đã góp phần hỗ trợ phát
triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các
dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các
dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát
triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn, cải tạo và phát
triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng
hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công
nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn lớn và có ý nghĩa
trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong
và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát
triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm.
Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA
lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-
2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ
thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy
nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát
17
triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và một
số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt được tài trợ bằng nguồn vốn
ODA. Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà
Nẵng, hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng
đô thị quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải,
chất thải rắn,…
Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu
tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đã ký
đạt tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách
giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng
lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và
sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước
ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý.
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng
58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ
sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và
tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các
bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung
tâm truyền máu quốc gia, , tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng
chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ
xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi
18
trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên,
Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách
thông qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB,
ADB, IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách
kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,
2.2.2. 20 năm từ 1993-2012:
Theo báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện các công trình, dự án
quan trọng sử dụng vốn vay ODA, tổng vốn ODA ký kết từ năm 1993 đến 2012 đạt
trên 56,05 tỉ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết. Trong đó, vốn ODA vay
ưu đãi đạt 51,607 tỉ USD và chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt
6,76 tỉ USD và chiếm khoảng 11,6%.
Trong số 51,607 tỷ USD các khoản ODA vay ưu đãi đã ký kết, phần lớn có
lãi suất rất ưu đãi, thời gian vay và ân hạn dài. Khoảng 45% khoản vay có lãi suất
dưới 1%/năm, thời hạn vay từ 30-40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; khoảng 40%
khoản vay có lãi suất từ 1-3%/năm, thời hạn vay từ 12-30 năm, trong đó có 5-10
năm ân hạn; còn lại là các khoản vay có điều kiện ưu đãi kém hơn.
Mặc dù nguồn vốn ODA chỉ chiếm khoảng 4% GDP, song lại chiếm tỷ
trọng đáng kể trong tổng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bình quân chiếm
khoảng 15% - 17%). Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam
trong giai đoạn 1993 - 2012 với khoảng 19,81 tỷ USD. Pháp đứng thứ hai với 3,91
tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ ba với 2,33 tỷ USD. Trong khi đó, WB đứng đầu
nhóm 6 ngân hàng với khoảng 20,1 tỷ USD. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam kết.
19
Sự ủng hộ chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ từ phía các nhà
tài trợ đã góp phần tạo niềm tin và khuyến khích các doanh nghiệp và các nhà đầu
tư tư nhân nước ngoài tăng cường hoạt động thương mại và đầu tư ở Việt Nam.
Tuy nhiên, ODA vốn vay tăng trong khi viện trợ không hoàn lại giảm qua
các thời kỳ. Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam trở
thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010 thì chi phí vốn vay có xu
hướng tăng. Nhiều khoản vay ODA có điều kiện ràng buộc từ bên ngoài, làm chi
phí đầu vào cao, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ trong trường
hợp các dự án được vay lại nguồn vốn vay ODA của Chính phủ.
2.2.3. 9 tháng đầu năm 2013:
Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết 9 tháng đầu năm 2013 đạt 4.593
triệu USD, tăng 8,83% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng đầu năm 2013,
tình hình thực hiện và giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi đã có những chuyển
biến tích cực, đặc biệt là đối với các dự án, chương trình do JICA (Nhật Bản) và
WB tài trợ. Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân trong 9 tháng đầu năm
2013 ước đạt 3.130 triệu USD.
Tuy nhiên, xét tổng thể về việc thực hiện và giải ngân vốn ODA và vốn vay
ưu đãi vẫn chưa tạo được bước đột phá lớn. Mức độ giải ngân không đồng đều
giữa các ngành, lĩnh vực và địa phương. Mức độ giải ngân khá ở các chương trình,
dự án thuộc lĩnh vực giao thông, năng lượng điện, phát triển đô thị, nông nghiệp và
phát triển nông thôn.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) 9 tháng đầu năm 2013 ước đạt 5,14% so với cùng kỳ năm 2012.
20
Trong đó, khu vực nông, lâm ngư nghiệp và thủy sản tăng 2,39%; công nghiệp và
xây dựng tăng 5,02%; dịch vụ tăng khoảng 6,25%.
So với mức tăng 4,73% của cùng kỳ 9 tháng đầu năm 2012, mức tăng GDP 3
quý đầu năm nay đã có sự cải thiện đáng kể và có sự nhích lên qua từng quý, tuy
nhiên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 5,5% thì dư địa cho thực hiện 3 tháng cuối
năm còn rất hẹp và không phải là điều dễ dàng.
Trong khi đó, điều kiện kinh doanh tuy có cải thiện nhưng vẫn đầy khó
khăn, thách thức với các doanh nghiệp. Trong quý III, số doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới giảm so với quý trước: có 19.323 doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới với vốn đăng ký gần 88.000 tỷ đồng, giảm 17% về lượng và 23% về giá trị so
với quý II/2013.
Tính chung 9 tháng đầu năm, cả nước có 58.231 doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới với vốn đăng ký 281.359 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm
trước nhưng giảm 22% về vốn. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động quay trở lại
hoạt động gần 11.300 đơn vị, chủ yếu tập trung vào ngành bán buôn, bán lẻ, sửa
chữa ô tô, xe máy; xây dựng và công nghiệp chế biến chế tạo.
Điểm lạc quan là sản xuất công nghiệp đã có chiều hướng được cải thiện với
chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn ngành tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2012,
cao hơn mức tăng 5,3% trong 8 tháng đầu năm. Nhập siêu 9 tháng ước khoảng 124
triệu USD, bằng 0,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu
được giao là 7-8%. Riêng khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) xuất siêu gần 4 tỷ USD (nếu tính cả dầu thô xuất siêu khoảng 9,4 tỷ
USD).
2.3. Tình hình giải ngân ODA:
21
Theo báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện các công trình, dự án
quan trọng sử dụng vốn vay ODA, tính đến cuối năm 2012, tổng vốn ODA giải
ngân đạt 37,59 tỉ USD, chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết. Riêng 2 năm trở
lại đây, nhờ quyết tâm cao của Chính phủ, nỗ lực của các ngành, các cấp và nhà tài
trợ, giải ngân của một số nhà tài trợ quy mô lớn (Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới -
WB) đã có tiến bộ vượt bậc. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Nhật Bản tại Việt Nam
năm 2011 đứng thứ nhì và năm 2012 đứng thứ nhất thế giới, tỷ lệ giải ngân của
WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tình hình giải ngân vốn ODA trong 9 tháng
của năm 2013 đã có những chuyển biến tích cực với giá trị ước đạt trên 3,1 tỷ
USD. Trong 11 tháng đầu năm 2013, giải ngân ODA đạt 4 tỷ USD, tăng 13,5%.
Trong hai thập kỷ qua, tổng nguồn vốn ODA giải ngân đạt 37,59 tỷ USD,
chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc thực hiện giải
ngân vốn ODA vẫn còn chưa đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực và địa phương.
Mức độ giải ngân khá chỉ tập trung ở các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực giao
22
thông, năng lượng điện, phát triển đô thị, nông nghiệp và phát triển nông thôn. Có
thể thấy mức giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ qua các năm song chưa tương xứng
với mức cam kết.
23
CHƯƠNG III: Đánh giá và giải pháp thu hút sử dụng vốn ODA với tăng
trưởng kinh tế Việt Nam
3.1. Đánh giá việc sử dụng vốn ODA :
3.1.1. Thành tựu :
Việc các nhà tài trợ đồng hành cùng với sự nghiệp Đổi mới của Việt Nam và
cam kết dành hỗ trợ ODA cho Việt Nam trong suốt 20 năm qua đã thể hiện sự đồng
tình và ủng hộ chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn của Chính phủ và
những lợi ích mà chính sách này mang lại cho người dân, nhất là người nghèo ở
các vùng nông thôn, miền núi. Sự ủng hộ chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Chính phủ từ phía các nhà tài trợ đã góp phần tạo niềm tin và khuyến khích các
doanh nghiệp và nhà đầu tư tư nhân nước ngoài tăng cường hoạt động thương mại
và đầu tư ở Việt Nam. Mức độ đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
cho GDP của Việt Nam tăng mạnh từ 2% năm 1992 lên 18,97% năm 2012.
Các khoản ODA của Việt Nam đã ký kết trong 2 năm qua (bình quân khoảng
3 tỷ USD/năm) đã được sử dụng có hiệu quả để hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam
thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đời sống kinh tế - xã hội của đất nước và đạt
được những thành tựu phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội quan trọng. Nguồn vốn
ODA đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là trong những năm đầu của thập kỷ
90 khi Việt Nam đẩy mạnh cải cách như điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân, cải cách ngân hàng, hệ
thống tài chính quốc gia, hỗ trợ ứng phó với những tác động tiêu cực của khủng
hoảng và trì trệ của nền kinh tế toàn cầu và những khó khăn nội tại của kinh tế Việt
Nam trong những năm gần đây.
Vốn ODA đã hỗ trợ hiệu quả việc nghiên cứu và xây dựng chính sách
pháttriển, phát triển hệ thống thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
thông qua việc hỗ trợ xây dựng các luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật,
hoạt động truyền thông và đào tạo pháp luật, đáp ứng kịp thời nhu cầu xây dựng
24
Nhà nước pháp quyền trong tiến trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, hội nhập sâu vào khu vực và thế giới, nhất là trong quá trình chuẩn
bị gia nhập WTO và hậu WTO.
Nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng nhằm tăng cường năng lực, nâng
cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho xã hội của các ngành và lĩnh vực cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển chính sách, cải cách quản lý các ngành và lĩnh
vực này đáp ứng những yêu cầu chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; phát triển nông nghiệp; xóa đói giảm nghèo; cải thiện môi trường đô thị và
nông thôn; giảm nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Các tỉnh, thành phố trực thuộc TW với những mức độ khác nhau đều nhận
được các khoản ODA góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xóa
đói giảm nghèo; nâng cấp đô thị; cải cách hành chính công và nâng cao năng lực
cán bộ địa phương…
Vốn ODA hỗ trợ tăng cường năng lực con người thông qua các hoạt động
đào tạo trong và ngoài nước, chuyển giao công nghệ, cung cấp tri thức, chia sẻ
kinh nghiệm tiên tiến về quản lý kinh tế và xã hội; cải cách hành chính công ở các
cấp từ Trung ương đến địa phương.
Cụ thể, tổng số vốn ODA giải ngân trong chín tháng của năm 2013 ước đạt
hơn 3,1 tỷ USD.
Song đại diện Bộ cũng thừa nhận, xét tổng thể về việc thực hiện và giải ngân
vốn ODA vẫn chưa tạo được bước đột phá lớn. HIện, mức độ giải ngân không
đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực và địa phương. Mức độ giải ngân khá chỉ tập
trung ở các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực giao thông, năng lượng điện, phát
triển đô thị, nông nghiệp và phát triển nông thôn.
25