Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tài liệu Anime - Hoạt hình Nhật Bản doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.52 KB, 11 trang )

Anime

Hoạt hình Nhật Bản hay còn gọi là Anime (tiếng Nhật: アニメ phát âm là
a-ni-me, là từ vay mượn của tiếng Anh, từ chữ animation có nghĩa là "phim hoạt
hình"), chỉ các bộ phim hoạt hình sản xuất tại Nhật Bản hay với phong cách Nhật
Bản. Cũng giống như phim truyền hình, nó bao gồm rất nhiều thể loại khác nhau
(hành động, hài, tình cảm, phiêu lưu, ). Hiện nay anime chiếm 60% số lượng
phim hoạt hình được sản xuất trên toàn thế giới
[1]
.
Ở Nhật Bản, anime chủ yếu được phát trên truyền hình (ở Nhật, đa phần
các kênh truyền hình là của tư nhân). Những bộ anime chiếu trên TV thường được
phát theo mùa (season), được gọi là TV series, mỗi 1/2 mùa thường bao gồm 12
tập (episode), vì thế những TV series thường có 12 tập (nửa mùa) hoặc 26 tập (một
mùa), hay 52 tập (hai mùa). Cá biệt có những anime rất dài như Inu Yasha (167
tập), Doraemon, hay Naruto và mới nhất là Bleach. Anime thường được chiếu vào
buổi khuya, trên những kênh nổi tiếng như Tokyo TV, TBS. Sau khi đã công chiếu
trên các kênh truyền hình, các công ty sản xuất anime thường cho lồng lại tiếng
Anh và phát hành trên DVD tại thị trường nước ngoài để kiếm thêm lợi nhuận.
Nhật Bản là nước duy nhất mà khán giả vẫn thường đến rạp rất đông để
xem những phim hoạt hình chiếu trên rạp. Những phim này có thể có cốt truyện
hoàn toàn mới (như Mononoke Hime, hay Spirited Away), hoặc đôi khi chỉ là một
phim rút gọn của một bộ TV series (Rahxephon hay Shakugan no Shana có nội
dung giống y chang TV series, nhưng được rút gọn còn 90 phút). Hãng làm phim
anime nổi tiếng nhất là Studio Ghibli.
Ngoài ra, các anime còn có thể có "OVA" (Original Video Animation),
thường gồm khoảng 3 hay 4 tập. Những OVA này được phát hành thẳng ra thị
trường trên DVD mà không chiếu trên TV bao giờ. Nguyên nhân như sau:
 Có thể sau khi phát hành một TV series, nhà sản xuất muốn
làm thêm một vài cốt truyện cũng về các nhân vật đó, nhưng không ăn nhập
với cốt truyện chính, vì thế phát hành lẻ.


 Có thể do nội dung của anime quá ngắn, chiếu trên TV có
một hai tập không ai chấp nhận, vì thế bán DVD.
 Có thể do nội dung của anime không phù hợp để chiếu trên
TV (bạo lực hay tình dục).
Lịch sử phát triển
Bước khởi đầu
Khác với manga (truyện tranh nhật bản), anime ra đời khá lâu về sau. Xuất
phát ban đầu là từ khi hoạt hình phương Tây có những bước chuyển biến lớn và
tạo ra được hành loạt độc giả hâm mô. Sau đó, các họa sĩ Nhật Bản đã bắt tay vào
nghiên cứu cách làm hoạt hình. Anime đầu tiên là một đoạn phim rất ngắn được
làm năm 1907, chỉ vỏn vẹn có 3 giây. Công việc này được bắt đầu từ năm 1914,
nhưng mãi 4 năm sau, vào năm 1918, anime đầu tiên – Momotaro mới được ra đời.
Mặc dù vậy, có lẽ là do không thu hút được nhiều người xem do bản thân chất
lượng anime lúc đó và thị hiếu của người xem cũng không hướng về nên nền công
nghiệp anime bị đình trệ cho đến khi Chikara To Onna No Yononaka – anime đầu
tiên có lồng tiếng của Nhật Bản ra đời vào năm 1932.
Nhưng có lẽ đó vẫn là chưa đủ vì vào thời điểm này, hoạt hình phương Tây
đã tự đưa mình lên những tầm cao mới khi hoạt hình của Công ty Walt Disney trở
nên nổi tiếng và chứng tỏ được vị trí của mình ngang tầm với phim người thật.
Và có lẽ nếu không có một người thì không chỉ anime mà cả manga của
Nhật Bản đều đã đi vào lãng quên. Người đã làm nên kì tích đó là Osamu Tezuka.
Với những tác phẩm của mình, ông đã tạo ra nhiều sự thay đổi lớn cho nền hoạt
hình Nhật. Với nét vẽ khá đơn giản, không thực sự phức tạp về chi tiết cá nhân
cho nhân vật, manga của Osamu đã trở nên nổi tiếng ở Nhật. Nhưng không chỉ có
một mình Osamu mà còn một người nữa đã đóng góp một phần quan trọng cho
nền công nghiệp anime của Nhật, đó là Hiroshi Okawa người tạo lập ra hãng Toei
Animation. Kéo theo đó là việc hợp tác giữa hãng và Osamu. Điều này đã đưa
hàng loạt manga của Osamu lên anime.
Cách mạng Anime
Trong suốt những năm 80 của thế kỷ 20, trào lưu Suparobo anime rất ăn

khách, và thể loại mecha chiếm đa số những anime được sản xuất. Những anime
về "Super Robot" này bắt đầu với Mazinger Z, và sau đó có hàng loạt như Getter
Robo, Dancouga, nói chung đại loại là có một nhà bác học tạo được robo khổng lồ
do một số cậu/cô bé lái, để chống lại người ngoài hành tinh xâm lăng. Ngày nay
các fan gọi thể loại này là oldschool. Gần đây có một số nhà sản xuất cố gắng khôi
phục thể loại Suparobo với những loạt anime như Gao Gai Gar, nhưng thất bại
thảm hại.
Tiếp theo đó phải kể đến sự ra đời của loạt phim về robot Gundam. Loạt
anime Gundam của hãng Sunrise tuy cũng là mecha, nhưng người lớn hơn, có cốt
truyện sâu sắc và mô phỏng theo Thế chiến thứ hai. Một bên là Amuro Ray, anh
hùng của phe Earth Federation (tương tự như phe Đồng Minh), một bên là Char
Aznable của Neo Zeon (tương tự như phe Trục). Loạt Gundam cổ điển đã đưa ra
những vấn đề lớn và nghiêm túc, như hai phe đều là người, đều có theo đuổi lý
tưởng riêng, đều có tình cảm chứ không chỉ là những anh hùng bắn bọn ngoài
hành tinh gian ác rồi chiến thắng vui vẻ.Dù một số series mới như Gundam Seed
Destiny bị chỉ trích khá nhiều nhưng loạt Anime này đã lấy lại được uy tín với
series mới nhất Gundam 00 là một trong nhưng Anime được đón xem nhiều nhất
tại Nhật cuối năm 2008.
Bộ anime đã làm thay đổi cả thể lại mecha chính là Neon Genesis
Evangelion của hãng GAINAX do Hideaki Anno đạo diễn. Bộ phim ẩn chứa nhiều
thông điệp mà các khán giả con nít không thể tiếp thu nổi. Chính vì vậy, khi mới
chiếu lần đầu, NGE không được hâm mộ mấy, nhưng sau lại trở thành anime luôn
xếp trong top 10 anime nỗi tiếng nhất mọi thời đại. Macross cũng là một bộ thể
loại mecha khá nổi tiếng trước đó. Anime dần có xu hướng có nhân vật trẻ con
hơn là người lớn, và ít bạo lực đẫm máu hơn.
Bộ anime Cowboy Bebop đã đạt được danh tiếng không chỉ trong nước mà
cả nước ngoài, nhờ phong cách cowboy đặc sắc và nhạc jazz và nhạc blues. Kéo
theo sau đó là hàng loạt phim như Akira, Ghost in the shell Các hãng phim thi
nhau nhảy vào thị trường và các thể loại của anime cũng do đó mà tăng dần.
Những anime như Fruits Basket, Tiny Snow Fairy Sugar, Ichigo Mashimaro hoàn

toàn không có một chút bạo lực nào cả, đã chiếm được cảm tình nhiều fan hâm mộ,
đa phần là nữ. Tuổi của người xem không chỉ dừng lại là trẻ em mà tiến dần đến
với người lớn. Ông Taro Aso, chính khách Nhật thừa nhận mình cũng là người rất
hâm mộ manga Rozen Maiden.
Cách tạo hình nhân vật cũng đã có nhiều thay đổi. Ngày nay, thay vì các
nhân vật được vẽ tối, có gương mặt chi tiết khá giống kiểu cartoon của Mỹ, các
nhân vật anime thường có tóc và quần áo màu sáng và rực rỡ hơn, khuôn mặt được
vẽ đơn giản nhưng moe (xinh) hơn, với mắt to, mũi và miệng rất nhỏ. Những nhân
vật kiểu chibi (nhỏ nhắn) thường được ưa chuộng. Phim hài cũng được ưa thích
hơn, và anime thể loại mecha như Full Metal Panic! cũng đã rất thành công khi
chuyển thể thành anime comedy với Full Metal Panic! Fumoffu.
Kịch bản anime cũng được chú trọng hơn, và những anime như Ergo Proxy
có tính triết lý khá cao, hay Welcome to the NHK! đưa ra vấn đề xã hội. Tuy nhiên,
không phải mọi chuyện đều tốt đẹp, do có quá nhiều anime được sản xuất hàng
năm, kịch bản đa phần là nhai lại các thể loại như harem và có cả những anime sao
chép nội dung của phim khác như DearS là phim nhái Chobits. Thêm nữa, một số
lượng lớn anime bạo lực nhảm nhí và vô số hentai khiến nhiều người nghĩ xấu về
anime, như Microsoft viết: "Anime: a Japanese style of animated cartoon, often
with violent or sexually explicit content" Microsoft® Encarta® 2007. © 1993-
2006 Microsoft Corporation. All rights reserved.
Đặc điểm
Ngành công nghiệp anime có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiều người. Trước
hết là sự kết hợp giữa anime, manga và game visual novel. Khi một manga được
khán giả hâm mộ và trở nên ăn khách, ngay lập tức nó được các công ty làm anime
mua bản quyền và tạo thành anime phát lên TV. Nhóm họa sĩ CLAMP có rất
nhiều manga được chuyển thành phim. Ngược lại, nếu anime với một cốt truyện
mới trở nên nổi tiếng thì sẽ có hàng loạt manga nhiều tập được phát hành ăn theo,
ví dụ như The Melancholy of Haruhi Suzumiya. Ngoài ra, những hãng làm game
visual novel như TYPE-MOON hay Aqua Plus đã có nhiều game được chuyển thể
sang anime như Tsukihime, FATE/Stay night, Comic Party, To Heart. Một số

game như Super Robot Taisen cũng đã rất thành công khi ăn theo những loạt
anime về robot. Ngược lại, những anime mới nổi tiếng như Zero no Tsukaima,
Strawberry Panic! đã được chuyển thể thành game cho hệ máy PS2 không lâu sau
khi chúng được phát trên TV.
Nói đến anime ngoài phần hình, không thể không nói đến phần tiếng. Đội
ngũ diễn viên lồng tiếng (Seiyuu) là một lực lượng không thể thiếu. Họ là những
người chuyên nghiệp được đào tạo trường lớp bài bản. Megumi Hayashibara là
một diễn viên lồng tiếng cực kỳ nỗi tiếng, và cũng là ca sĩ, thường thể hiện luôn
các ca khúc trong phim. Cô nổi tiếng với vai Lina Inverse trong phim Slayers, hay
Rei Ayanami trong Neon Genesis Evangelion.
Mỗi một series anime thường có nhạc phim riêng, được các nhạc sĩ chuyên
sáng tác nhạc cho anime viết. Những bản nhạc này được dùng riêng cho mỗi
anime đó, và sau đó được phát hành album gọi là OST (Original Soundtrack). Một
số OSTs rất nổi tiếng là Cowboy Bebob, Vision of Escaflowne, Noir,
hay .hack//SIGN. Những nhà soạn nhạc cho anime nổi tiếng có Yoko Kanno, hay
Yuki Kajiura.
Sự khác biệt giữa anime và cartoon
Không giống như phim hoạt hình của Mỹ, vốn chỉ nhằm vào trẻ em, anime
được đông đảo giới trẻ trên thế giới hâm mộ. Các fan của anime chủ yếu từ tuổi
teen đến hơn 30 tuổi. Tuy nhiên, phần đông những người xem anime nghiệp dư ở
nước ngoài chỉ biết đến những anime thuộc thể loại hành động cho trẻ em hay
Shōnen manga như Dragon Ball hay Yugi Oh trong khi những phim đó không thật
sự có danh tiếng gì ở quê nhà.
Ngoài ra, phim hoạt hình của Mỹ thường không có cốt truyện rõ ràng,
muốn kéo dài bao nhiêu cũng được, ví dụ như mèo Tom và chuột Jerry chạy qua
chạy lại, hay Batman đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác. Anime thường có
cốt truyện không dài lắm. Mỗi tập anime (episode) trung bình dài 25 phút, kể cả
đoạn giới thiệu đầu và cuối phim. Đoạn giữa thường có một khúc ngắt khoảng vài
giây gọi là Eyecatch. Cốt truyện anime thường diễn ra và kết thúc trong khoảng từ
12 đến 26 tập như vậy. Tuy một số anime được kéo rất dài (như Naruto chẳng

hạn), và những anime này do đó trở nên được nhiều người biết đến, nhưng do nội
dung thường chẳng có gì mà cố gắng kéo ra thật dài nên kết quả là chỉ có trẻ con
xem.
Một điểm khác biệt nữa là anime thường có chi phí sản xuất thấp hơn nhiều
so với phim hoạt hình Mỹ, do vậy nên dù truyền thống là vẽ bằng tay, nhưng gần
đây các công ty thường chuyển cho các công ty con ở Hàn Quốc vẽ để giảm chi
phí, hoặc dùng kỹ thuật 3D để hỗ trợ. Các nhà sản xuất anime thường dùng xảo
thuật để giảm chi phí sản xuất, ví dụ như chiếu những góc quay che miệng nhân
vật, để khỏi phải vẽ môi nhấp nháy. Cử động của môi các nhân vật anime cũng
không bao giờ chi tiết như trong phim hoạt hình Mỹ. Tuy nhiên đặc biệt cũng có
những anime có giá thành sản xuất cực đắt như Gunslinger Girl.
Tác phẩm của fan hâm mộ
Ở Nhật có vô số fan hâm mộ anime, một số hâm mộ quá mức gọi là otaku.
Ở Tokyo, những hội chợ anime (convention) thường xuyên được tổ chức, nơi mà
các fan hâm mộ bán và mua những tác phẩm của chính mình, như poster các nhân
vật anime, truyện fan tự vẽ (doujinshi), hay búp bê tự làm (idol). Ngoài ra còn có
cosplay, v.v.
Đối với những fan không sống ở Nhật, việc chờ đợi những anime mới được
phát hành sàn Mỹ hay Châu Âu hay chiếu trên TV ở đấy là rất khó khăn. Thường
cả năm sau khi chiếu ở Nhật, các anime mới được lồng tiếng Anh xong và phát
hành ra nước ngoài. Đối với các fan ở các nước nghèo, rất hiếm. Và Fansub là cứu
cánh cho các fan tội nghiệp này. Fansub là những anime được phụ đề tiếng Anh
bởi những nhóm fan hâm mộ, được truyền tải qua Internet, thường dùng Bit
Torrent. Quá trình làm một fansub như sau: hội fansub đó ít nhất phải có một
người quen ở Nhật, khi người này xem anime trên TV sẽ thu lại, rồi tải lên mạng.
Nhóm fansub sau đó phải dịch các đối thoại trong tập phim, rồi lồng phụ đề vào.
Do đa phần các fan nghèo, nên họ dùng Torrent để cho các fan khác tải xuống.
Với cách này, các fan hâm mộ ở ngoài nước Nhật có thể xem được phim mới chỉ
sau một tuần. Tuy nhiên, các nhóm fansub thường ngừng việc làm khi các công ty
anime đăng ký bản Mỹ. Và các bạn sau khi xem fansub, không nên bán lại cho

người khác để kiếm lời, cũng như nên mua DVD chính hãng để ủng hộ các hãng
làm anime.
Các thể loại anime
Cũng như manga, anime gồm nhiều loại khác nhau.
 Action: Phim anime hành động (như Naruto)
 Adventure: Phim anime phiêu lưu (như Inu Yasha)
 Comedy: Phim anime hài (như School Rumble)
 Demetia: Những phim thuộc thể loại này thường "điên điên"
Fooly Coolly
 Detective: Phim anime thám tử (như Thám tử lừng danh
Conan)
 Drama: Phim anime kịch (như Aria, Honey & Clover)
 Fantasy: Phim anime có bối cảnh tưởng tượng, phép thuật
(như Slayers)
 Girls-with guns: Phim anime có mấy cô bắn súng (như Noir,
Chrno Crusade)
 Horror: Phim anime kinh dị (như Jigoku Shōjo)
 Mafia: Phim anime có mafia (như Gungrave)
 Samurai: Phim anime có samurai (như Rurouni Kenshin)
 Sci-Fi: Phim anime viễn tưởng (như Last Exile)
 Sports: Phim anime thể thao (như Captain Tsubasa)
 School: Phim anime trường học (như Azumanga Daioh)
 Parody: Những anime hài hước, nhái hay chọc những
anime/manga khác Excel Saga
 Vampire: Phim anime có quỉ hút máu (như Hellsing, Vampire
Hunter D)
 Bishōjo/Moe: Phim anime có các nhân vật chính là nữ, xinh
đẹp (như Mai-HiME)
 Bishōnen: Phim anime có các nhân vật chính nam, nhưng
thường được vẽ như nữ, hoặc những nhân nữ có nét đẹp nam tính (như Ran

The Samurai Girl)
 Mahō Shōjo: Phim anime có các nhân vật chính là nữ, có
phép thuật, biến hình (như Sailor Moon)
 Harem: Phim thường có một nhân vật nam không có điểm gì
đặc biệt nhưng được nhiều nhân vật nữ hâm mộ (như Love Hina, Ai Yori
Aoshi, Happy Lesson, Inukami, Seitokai no ichizon)
 Shōjo anime: Phim anime dành cho nữ, thường thiên về tình
cảm (như Fruits Basket)
 Shōnen anime: Phim anime dành cho nam, thiên về các loại
như khoa học viễn tưởng, thể thao, hành động, và thường mang tính chất
bạo lực (như Dragon Ball)
 Kodomo: Phim anime cho trẻ em (như Damekko Doubutsu)
 Seinen: Phim anime dành cho lứa tuổi thanh niên, trung niên
(như Akira)
 Mecha: Phim anime về robot hoặc máy móc (như Gundam)
 Shōnen ai: Phim anime về tình yêu giữa đồng tính nam,
thường nhẹ nhàng (như Graviation)
 Yaoi: Phim anime về tình yêu giữa đồng tính nam, có thể có
cảnh sex
 Shōjo ai: Phim anime về đồng tính nữ, thường nhẹ nhàng
(như Strawberry Panic!)
 Yuri: Phim anime về đồng tính nữ, có thể có cảnh sex (như
Kannazuki no Miko)
 Ecchi: Phim anime thường có những cảnh hở hang để gây
cười, dụ khán giả, nhưng không có cảnh sex (như Mahoromatic)
 Hentai: Phim anime bao gồm sex (cấm trẻ em dưới 18 tuổi)
(như La Blue Girl)



×