Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp giảm tổn thất điện năng trên đường dây trung thế tại tổng công ty điện lực TP hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.92 KB, 89 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Khối lượng quản lý lưới điện 2011- 2016
Bảng 2.2. Khối lượng đầu tư 2011-2015
Bảng 2.3.

Điện thương phẩm 2011-2015

Bảng 2.4.

Cơ cấu điện thương phẩm theo thành phần phụ tải tại TCT Điện

lực Thành phố Hà nội
Bảng 2.6. Khối lượng thực hiện quản lý hệ thống đo đếm điện năng
Bảng 2.7. Sản lượng điện tiết kiệm 2011-2015
Bảng 2.8. Kết quả giảm TTĐN 2011-2015
Bảng 2.9. Kết quả thực hiện TTĐN trên lưới điện trung áp của Tổng
công ty giai đoạn 2011-2015
Bảng 2.10. Kết quả thực hiện giảm TTĐN giai đoạn 2011-2015 của


3

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài:
Trong bối cảnh của nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay một
doanh nghiệp muốn thành công không thể bị động trước những thay đổi của


môi trường. Do vậy, các doanh nghiệp phải đối phó với sự cạnh tranh ngày
càng gia tăng và có tính quốc tế. Cách duy nhất để các Doanh nghiệp hoạt
động thành công và bảo vệ được thị phần trong nước là phải có các chiến lược
rõ ràng.
Mục tiêu chủ yếu của quản lý chiến lược là tạo được sự thành công lâu
dài cho công ty. Công tác quản lý chiến lược có thể chia ra thành hoạch định
chiến lược, triển khai chiến lược, và kiểm soát chiến lược. Hoạch định chiến
lược là nhiệm vụ chủ yếu của quản lý chiến lược vì nó tạo nền tảng cho hai
nhiệm vụ kia và là cơ sở để tạo ra những chiến lược thành công.
Việc giảm rào cản pháp lý và việc tồn cầu hố đã làm gia tăng cường
độ cạnh tranh. Với sự thay đổi nhanh hơn về công nghệ, cùng với sự rút ngắn
vòng đời sản phẩm trên thị trường và sự gia tăng những thị trường năng động,
đã làm tăng đáng kể các nguy cơ phạm phải sai lầm chiến lược. Cơng ty nào ít
chú trọng đến cơng tác hoạch định chiến lược có thể sẽ bị rơi vào tình trạng
bế tắc. Nhiều lãnh đạo cơng ty và các nhà nghiên cứu quản trị cho rằng việc
hoạch định chiến lược một cách có hệ thống, có cơ sở thực tế là một yêu cầu
thiết yếu cho sự thành công lâu dài của công ty.
Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội có nhiệm vụ đảm bảo điện phục vụ
chính trị - an ninh - quốc phịng, văn hóa xã hội và phát triển kinh tế của toàn
TP Hà Nội, quản lý vận hành an toàn lưới điện từ 110kV đến 0,4kV; cung cấp
điện năng và kinh doanh điện năng trên phạm vi Thành phố Hà Nội. Do đó,
cơng tác quản lý lưới điện có vai trị quan trọng trong hoạt động của Tổng


4

Công ty Điện lực TP. Hà Nội, ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công của Tổng
Công ty và cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động của Tổng Công
ty, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh điện năng của Tổng
Công ty.

Xuất phát từ thực tế nêu trên và qua thời gian làm việc tại Tổng Công
ty Điện lực Thành phố Hà Nội, qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn tôi đã
chọn đề tài: “Phân tích và Đề xuất một số giải pháp giảm tổn thất điện năng
trên đường dây trung thế tại Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội”.
2.

Mục đích nghiên cứu:
Phân tích thực trạng cơng tác quản lý lưới điện tại Tổng Công ty Điện
lực TP. Hà Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng đó, luận văn tìm ra một số
nguyên nhân ảnh hưởng tới tổn thất điện năng trên lưới điện trung thế hiện
nay và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm giảm tổn thất điện năng trên
đường dây trung thế tại Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội.

3.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng cơng tác quản lý lưới điện, các yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp đến tổn thất điện năng trên lưới điện trung thế.
- Các tồn tại và nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tổn thất điện năng trên lưới
điện trung thế tại Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp giảm tổn thất điện năng trên đường dây trung thế tại
Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tổ ảnh hưởng đến tổn thất điện năng trên tồn
bộ lưới điện trung thế của Tổng Cơng ty Điện lực TP. Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Phân tích và nghiên cứu các yếu tố kỹ thuật liên quan
đến giảm tổn thất điện năng trên toàn bộ lưới điện trung thế của Tổng Công ty
Điện lực TP. Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu:



5

Sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp các số liệu được
thu thập từ các nguồn khác nhau: lấy dữ liệu sơ cấp trên cơ sở điều tra khách
hàng và dữ liệu thứ cấp từ các đơn vị trong Tổng Công ty, các tư liệu, tài liệu
nghiên cứu có liên quan... để đánh giá tình hình một cách sát thực, làm cơ sở
cho việc đưa ra các nhận xét, đánh giá, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể và
các điều kiện để thực hiện các giải pháp đề ra.
6.

Dự kiến đóng góp mới:
Luận văn sẽ góp một phần trong cơng tác giảm tổn thất điện năng trên
đường dây trung thế tại Tổng Công ty Điện lực TP. Hà Nội, góp phần cho sự
tăng trưởng của Tổng Cơng ty.
7.Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, Luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết.


6

NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔN THẤT ĐIỆN NĂNG.
1.1 Khái niệm về tổn thất điện năng.
Trong kinh doanh điện năng khâu đầu tiên chính là khâu ghi chỉ số
công tơ đếm điện tại đầu nguồn do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) bán
ra và khâu cuối cùng là q trình ghi chỉ số cơng tơ đếm điện từ các công
tơ đo điện từng nhà hoặc hiện trường của khách hàng, tuy nhiên tổng sản
lượng điện năng đo đếm ở khâu cuối cùng < tổng sản lượng điện năng đo

đếm ở đầu nguồn.
Hiệu số giữa tổng lượng điện năng do các nhà máy điện phát ra với tổng
lượng điện năng các hộ tiêu thụ nhận được trong cùng một khoảng thời gian
được xem là mất mát (tổn thất ) điện năng trong hệ thống truyền tải.
Lượng tổn thất được tính bằng cơng thức:

∆ Q = QSL - QHTD
Trong đó:
∆ Q : Lượng điện bị tổn thất trong q trình truyền tải, tính từ
nguồn phát đến các hộ tiêu thụ (đơn vị: KWh).
QSL : Sản lượng điện đầu nguồn (đơn vị: KWh).
Q

HTD

: Sản lượng điện thương phẩm thực hiện bán cho các hộ tiêu

dùng (đơn vị: KWh).
Mức tổn thất điện năng về mặt giá trị được tính bằng lượng điện bị
tổn thất về mặt hiện vật nhân với giá điện bình quân của một KWh điện
trong khoảng thời gian đó:

GH =Ptb*∆ Q
Trong đó:
GH : giá trị điện năng bị tổn thất (đơn vị : đồng, nghìn, triệu,… )


7

∆ Q: lượng điện năng bị tổn thất (đơn vị : KWh )

Ptb : giá điện bình quân 1 KWh (đơn vị : đồng, nghìn, triệu,… )
Lượng điện nhỏ hơn ở khâu cuối cùng so với tổng sản lượng đo ở đầu
nguồn người ta gọi là tổn thất điện năng.
Một phần lượng điện năng tổn thất này tiêu hao cho quá trình truyền tải
điện từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng đó là tiêu hao trên dây dẫn, các máy
biến thế, thiết bị đo, đếm điện.
Một phần lượng điện năng tổn thất này mất mát trong quá trình tổ chức
quản lý, tổ chức bán điện.
Vậy “tổn thất điện năng trên lưới điện là lượng điện năng tiêu hao cho
quá trình truyền tải và phân phối điện khi tải điện từ ranh giới giao nhận với
các nhà máy phát điện qua lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối đến các hộ
tiêu thụ điện. Tổn thất điện năng còn được gọi là điện năng dùng để truyền tải
và phân phối điện. Trong hệ thống điện, tổn thất điện năng phụ thuộc vào đặc
tính mạch điện, lượng điện truyền tải, khả năng của hệ thống và vai trị của
cơng tác quản lý”. [Nguồn tài liệu:Hướng dẫn các biện pháp cơ bản về quản
lý kỹ thuật – vận hành và quản lý kinh doanh để giảm tổn thất điện năng - Tập
đoàn điện lực Việt Nam]
Mức độ tổn thất là khác nhau tại mỗi thời điểm khác nhau, mỗi vùng
mỗi quốc gia khác nhau. Vì tổn thất phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau,
việc giảm tổn thất điện năng có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi quốc gia chính vì
vậy mà hiện nay cần phải áp dụng các biện pháp để nhằm làm giảm tổn thất
điện năng.
Có nhiều cách phân loại tổn thất điện năng tùy theo phương pháp và
mục đích phân loại.


Theo các giai đoạn phát sinh tổn thất thì tổn thất được phân loại:


Tổn thất điện năng


8

Theo
tính chất
tổn thất

Theo các giai đoạn
phát sinh

Tổn thất
Tổn thất trong
ở khâu
quá trình truyền tải và
tiêu thụ
phân phối

Tổn thất trong
quá trình sản xuất

Tổn thất
kỹ thuật

Tổn thất thương mại

Tổn thất điện năng nói chung bao gồm:
* Tổn thất điện năng trong quá trình sản xuất (quá trình phát điện).
* Tổn thất điện năng trong quá trình truyền tải và phân phôi điện năng.
* Tổn thất điện năng trong quá trình tiêu thụ.
- Tổn thất trong quá trình sản xuất (quá trình phát điện)

Trong quá trình sản xuất điện, phải sử dụng các máy phát điện. Do không
sử dụng đồng bộ hệ thống máy phát điện nên không phát huy được hết cơng suất
của máy móc và hiệu quả kinh tế không cao. Do máy phát không phát huy được
hết công suất nên một lượng điện cũng đã bị tổn thất.
- Tổn thất trong quá trình truyền tải và phân phới điện năng
Trong q trình truyền tải và phân phối điện năng, người ta chia tổn
thất thành 02 loại: Tổn thất kỹ thuật và tổn thất thương mại.
+ Tổn thất kỹ thuật.
Tổn thất kỹ thuật là số lượng điện năng bị mất mát, hao hụt dọc
đường dây trong quá trình truyền tải điện từ nguồn điện đến hộ tiêu thụ,
bao gồm tổn hao trên đường dây, tổn hao trong máy biến áp ( cả tăng và


9

giảm áp ), tổn hao trong các đường cấp và tổn hao trong các cuộn của
đồng hồ đo đếm.
Tổn thất kỹ thuật cao hay thấp phụ thuộc vào công nghệ sản xuất
truyền tải điện. Thực tế trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, những cơ sở
sản suất hay kinh doanh nếu có trình độ quản lý tốt thì có thể tránh được
tình trạng hao phí thất thốt. Nhưng đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh
điện năng thì đây là một tổn thất tất yếu phải có, khơng thể tránh khỏi vì
phải có một lượng điện năng phục vụ cho cơng nghệ truyền tải điện.
Chúng ta có thể giảm lượng tổn thất này bằng cách đầu tư công nghệ, kỹ
thuật nhưng khơng thể giảm tới 0. Ở mỗi trình độ kỹ thuật nhất định,
lượng tổn thất này có thể giảm tới một lượng tối thiểu để đảm bảo công
nghệ truyền tải.
Thông thường, trong tổng điện năng tiêu thụ để phục vụ công nghệ
truyền tải gồm khoản 65% tiêu tốn trên đường dây, 30% trong máy biến
áp, còn trong các phần tử khác của mạng ( cuộn điện kháng, thiết bị bù,

thiết bị đo lường,…) chiếm khoảng 5%.
Bắt nguồn từ sai sót trong tổ chức quản lý kinh doanh điện, dẫn tới
sai sót trong đầu tư xây dựng cải tạo lưới điện. Tổn thất kỹ thuật xảy ra ở
trên các đường dây, trong máy biến áp, phụ thuộc vào thông số kỹ thuật
của đường dây và máy.
Chúng ta có thể tham khảo về tỉ lệ tổn thất kỹ thuật ở một số nước : các
nước phát triển có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến: Mỹ, Singapoer,…thì tỷ
lệ này là 4%. Các nước trong khối ASEAN tỷ lệ tổn thất là 6,7%, các nước
chậm phát triển thì tỷ lệ này là 20-30%. (3)
+ Tổn thất thương mại
Là lượng điện tổn thất trong quá trình phân phối điện đến người tiêu
dùng do sự vi phạm quy chế sử dụng điện. Đó là lượng điện bị tổn hao do


10

tình trạng các tập thể, xí nghiệp, hộ tiêu thụ lấy cắp điện, khách hàng bị
bỏ sót, đội ngũ cán bộ quản lý yếu kém hoặc cố ý móc ngoặc thông đồng
với khách hàng, việc ghi sai số công tơ, thu tiền điện không đúng kỳ hạn,
giá điện không phù hợp với loại điện sử dụng.
+ Tổn thất ở khâu tiêu thụ
Mức độ tổn thất ở khả năng này phụ thuộc vào khả năng sử dụng,
điều kiện trang bị các thiết bị phụ tải ở các hộ dùng điện. Nguyên nhân
gây nên tổn thất ở khâu này là việc sử dụng điện không hợp lý của các đối
tượng sử dụng điện.
Ví dụ: Trong các hộ sử dụng điện, nếu sử dụng dây dẫn không đủ
lớn so với phụ tải, cách điện khơng tốt trên các phần cách điện thì sẽ dẫn
đến mất mát điện năng.
Tất cả mọi tổn thất đều diễn ra phía sau đồng hồ đo đếm điện của
cơ sở kinh doanh điện, nên các thành phần, đối tượng sử dụng điện cần

biết rõ nguyên nhân để giảm tổn thất cho chính mình bằng cách chọn
phương thức sử dụng hợp lý, tiết kiệm nhưng lại có hiệu quả nhất. Đối
với ngành điện, để giảm tỷ lệ tổn thất, trước tiên phải phân tích được
nguyên nhân gây nên tổn thất điện năng, xác định được nơi nào, khâu
nào điện năng thất thốt nhiều nhất.
1.2 Các phương pháp tính tốn tổn thất điện năng
Có nhiều phương pháp khác nhau để tính tổn thất sau đây là một số
phương pháp tính: Phương pháp so sánh: Là phương pháp dùng để so sánh
các chỉ tiêu, để phân tích các xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu;
phân tích nhịp độ biến động tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu so sánh mức
biến động của kỳ trước so với kỳ thực hiện. Phân tích nhịp độ thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh của từng khoảng thời gian của một năm. Đánh giá
mức độ biến động so với mục tiêu dự kiến, trị số thực tế sẽ được so sánh với


11

mục tiêu đề ra. Phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường có thể so
sánh số thực tế với hợp đồng đơn hàng và tổng nhu cầu.
Phương pháp loại trừ: Là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố tới kết quả kinh doanh bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các
nhân tố khác. Phương pháp liên hệ: do giữa các mặt, các bộ phận của kết quả
kinh doanh có mối liên hệ mật thiết với nhau, phương pháp này sẽ đánh giá
tác động của từng mặt, từng yếu tố tới kết quả chung, cũng như sự tác động
qua lại của các mặt, các yếu tố. Các chỉ tiêu tổn thất điện năng bao gồm chỉ
tiêu tương đối, chỉ tiêu tuyệt đối, chỉ tiêu bình quân:
- Chỉ tiêu tuyệt đối là các chỉ tiêu biểu hiện bằng các số tuyệt đối. Việc
đánh giá tổn thất điện năng trong kinh doanh qua các chỉ tiêu tuyệt đối cho
thấy sự biến đổi về khối lượng của các nội dung so sánh. Nói cách khác, các
chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng giảm của chỉ tiêu so với kỳ trước hay so

với kế hoạch đề ra của doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu tương đối đo bằng tỷ lệ phần trăm của sự biến đổi. Nếu so với
thời kỳ trước, tỷ lệ này phản ánh tốc độ phát triển: nếu so với kế hoạch đặt ra
thì nó lại cho thấy tỷ lệ hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch, qua đó thấy được nỗ
lực của doanh nghiệp hoặc mức độ chính xác của kế hoạch được lập.
- Chỉ tiêu bình quân phản ánh mức trung bình cộng của các nhân tố tổn
thất cùng loại cùng lĩnh vực, là cơ sở để đánh giá sự phát triển của doanh
nghiệp trong thời kỳ dài nhằm tìm ra được các yếu tố làm giảm tổn thất điện
năng và phát huy những tiềm năng của bản thân doanh nghiệp.
[Nguồn tài liệu:Hướng dẫn các biện pháp cơ bản về quản lý kỹ thuật –
vận hành và quản lý kinh doanh để giảm tổn thất điện năng - Tập đồn điện
lực Việt Nam] Trong đó: ΔA là tổn thất điện năng trên lưới điện đang xét
(kWh) AN là tổng điện nhận vào lưới điện (kWh) AG là tổng điện giao đi từ
lưới điện (kWh) A là tổng điện nhận vào lưới điện đang xét (kWh) Xác định


12

tổn thất điện năng của lưới điện qua tính tốn tổn thất điện năng kỹ thuật. Các
đơn vị phải thực hiện tính tốn tổn thất điện năng qua các thơng số lưới điện
và phương thức vận hành để xác định được tổn thất điện năng kỹ thuật của
lưới điện thuộc phạm vi đơn vị quản lý ở mức nào để trên cơ sở đó có biện
pháp phù hợp giảm tổn thất điện năng.
[Nguồn tài liệu:Hướng dẫn các biện pháp cơ bản về quản lý kỹ thuật –
vận hành và quản lý kinh doanh để giảm tổn thất điện năng - Tập đồn điện
lực Việt Nam] Trong đó: ΔA: tổn thất điện năng trong giai đoạn đang xét
(kWh) ΔP0: tổn thất công suất không tải (kW) ΔPmax: tổn thất công suất tại
thời điểm công suất cực đại của lưới điện (kW) T: thời gian tính tốn của giai
đoạn xem xét tổn thất điện năng (giờ) Kđt : hệ số đồ thị phụ tải ảnh hưởng
đến tổn thất điện năng trong giai đoạn tính tốn Si , Smax: giá trị phụ tải đầu

xuất tuyến tại các thời điểm ti , tmax. A: điện năng nhận vào của lưới điện
trong khoảng thời gian T (kWh)
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tổn thất điện năng
Từ khâu sản xuất đến khâu cuối cùng là khâu tiêu thụ, điện năng bị
tổn thất một lượng không nhỏ. Điện năng bị hao tổn do ảnh hưởng của
rất nhiều nhân tố. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin đề cập đến
nguyên nhân dẫn đến tổn thất điện năng trong quá trình truyền tải và
phân phối điện năng.
1.3.1. Các nhân tớ khách quan
Để đảm bảo tính kinh tế và trong sạch về môi trường, các nhà máy
điện thường được xây dựng tại nơi có nguồn năng lượng: cơ năng của
dòng nước, nhiệt năng của than đá, dầu mỏ,…Do đó, phải truyền tải điện
từ nhà máy điện đến các nơi tiêu thụ. Nhiệm vụ này được thực hiện nhờ
hệ thống điện. Hệ thống điện là tập hợp các Nhà máy điện, đường dây
truyền tải điện, mạng phân phối và các hộ dùng điện, nhằm thực hiện


13

nhiệm vụ sản xuất, truyền tải, phân phối và sử dụng điện năng một cách
tin cậy, kinh tế và chất lượng đảm bảo.
Sơ đồ 02 : Sơ đồ hệ thống điện:
12345

Nhà máy điện Trạm tăng Đường dây Trạm hạ áp Nơi tiêu thụ tải điện
Phần hệ thống điện bao gồm các trạm biến áp và các đường dây tải
điện: gồm hàng chục các bộ phận rất đa dạng: máy biến áp, máy cắt, dao cách
ly, tụ bù, sứ xuyên thanh cái, cáp ngầm, cột, đường dây trên không; phụ kiện
đi nối dây dẫn và dây chống sét với cột, sứ cách điện,…Các bộ phận này đều
phải chịu tác động của thiên nhiên (gió, mưa, ăn mịn, băng giá, sét, dao động,

nhiệt độ, bão từ, rung động do gió, văng bật dây,…). Hệ thống điện của nước
ta phần lớn là nằm ở ngồi trời, do đó tất yếu sẽ chịu ảnh rất lớn của điều kiện
tự nhiên. Sự thay đổi, biến động của mơi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn
tới sự tổn thất điện năng của ngành điện.
Nước ta nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, nên độ ẩm tương đối cao,
nắng lắm mưa nhiều đã gây khơng ít khó khăn cho việc bảo dưỡng thiết bị
và vận hành lưới điện. Các đường dây tải điện và máy biến áp đều được
cấu thành từ kim loại nên độ ẩm cao làm cho kim loại nhanh bị ơ xi hố
và như vậy dẫn đến hiện tượng máy biến áp và dây tải điện sử dụng không
hiệu quả nữa, lượng điện bị hao tổn.
Mạng lưới truyền tải điện phải đi qua nhiều khu vực, điạ hình phức
tạp. Đồi núi, rừng cây,…nên khi sự cố điện xảy ra, làm tổn thất điện do
phóng điện thống qua cây cối trong hoặc gần hành lang điện, đốt rừng
làm rẫy trong hành lang điện. Địa hình phức tạp làm cho cơng tác quản lý


14

hệ thống điện, kiểm tra sửa chữa, xử lý sự cố gặp khơng ít khó khăn, nhất
là vào mùa mưa bão, gây ra một lượng tổn hao không nhỏ.
Thiên tai do thiên nhiên gây ra: gió, bão, lụt, sét,…làm đổ cột điện,
đứt dây truyền tải, các trạm biến áp và đường dây tải điện bị ngập lụt trong
nước, làm cho nhiều phụ tải lưới điện phân phối bị sa thải do mạng điện hạ
áp bị hư hỏng, ảnh hưởng đến sản lượng truyền tải điện. Nhiệt độ môi
trường cao làm cho dây tải điện nóng hơn so với bình thường nên sản lượng
điện truyền tải không đạt chất lượng, bị hao hụt do toả điện ra bên ngoài.
Thiên tai do thiên nhiên gây nên tổn thất lớn đối với nền kinh tế nói
chung và ngành điện nói riêng. Đơn cử như trận lụt thế kỷ xảy ra tại các
tỉnh miền trung vào những tháng cuối năm 1999: một số trạm biến áp và
đường dây 110 KV bị ngập trong nước nhiều ngày liền, không thể vận

hành được, nhiều phụ tải trên lưới điện phân phối bị sa thải do mạng lưới
điện áp bị hư hỏng, ảnh hưởng nhất định đến sản lượng truyền tải điện; sự
cố sạt lở móng trụ vị trí 371 đường dây 110 KV Huế - Đà Nẵng có nguy
cơ gây sự cố lớn cho hệ thống,… theo số liệu thống kê của cơ quan chức
năng trong ngành thì những tổn thất của ngành do đợt thiên tai gây ra với
01 người chết, thiệt hại về tài sản khoảng gần 30 tỷ đồng trong tổng số
thiệt hại 3.300 tỷ đồng; có 55 vị trí cột điện, đường dây tải điện 110- 220
KV, 24 cột đường dây 500 KV Bắc Nam có nguy cơ bị đổ do xói lở trụ và
kè móng; 124,5 km đường dây cao, hạ thế và 61 trạm biến áp, dung lượng
22,380 KVA bị hư hỏng. Đặc biệt là toàn bộ nhà máy thuỷ điện An Điểm
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam bị phá huỷ hồn tồn.
1.3.2. Các nhân tớ chủ quan
Thứ nhất, cơng nghệ trình độ kỹ thuật của máy móc thiết bị trong
hệ thống truyền tải và phân phối điện năng
Trong quá trình phân phối và truyền tải điện năng thì tổn thất điện
năng là không tránh khỏi. Lượng tổn thất điện năng theo lý thuyết là


15

lượng tổn thất kỹ thuật - lượng điện năng tiêu tốn để phục vụ cho công
nghệ truyền tải điện. Lượng điện năng tiêu tốn cho công nghệ này lớn hay
nhỏ đều phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật truyền tải. Do đó, nếu kỹ thuật
cơng nghệ của thiết bị càng tiên tiến thì sự cố càng ít xảy ra, và có thể tự
ngắt khi sự cố xảy ra,… dẫn đến lượng điện hao tổn càng ít. Để vận hành
máy truyền tải mất ít thời gian vận hành hơn, tốn ít năng lượng nên lượng
điện mất mát giảm. Ngược lại, thì lượng điện tổn thất sẽ rất lớn. Chính
điều này đã giải thích tại sao ở các nước kém phát triển tỷ lệ tổn thất điện
lại cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển.
Sự lạc hậu về thiết bị, công nghệ: hệ thống điện chắp vá, tận dụng,

chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh, sự cọc cạch trong hệ thống như với đủ
mọi dây dẫn tận dụng khác nhau,…Các bộ phận của hệ thống điện, với
cùng thời gian sẽ bị lão hố. Thêm vào đó sự phát triển như vũ bão của
khoa học- công nghệ kéo theo sự tiên tiến, hiện đại hố các thiết bị, máy
móc trong mọi lĩnh vực, kích thích tiêu dùng năng lượng nhiều hơn. Vì
vậy, nếu không quản lý, bảo dưỡng, giám sát đổi mới công nghệ truyền tải
sẽ dẫn đến tổn thất lớn. Những máy biến áp của thế hệ cũ không đáp ứng
được nhu cầu tải điện trong giai đoạn hiện nay, xuất hiện tình trạng máy
bị quá tải hoặc non tải, dây dẫn khơng có tiết diện đủ lớn để truyền tải dẫn
đến tình trạng q tải đường dây, cơng tơ cũ, lạc hậu, không hiển thị rõ
chỉ số, cấu tạo đơn giản làm cho người sử dụng dễ lấy cắp điện. Trong
ngành điện, sự đổi mới kỹ thuật không đồng bộ cũng sẽ dẫn đến tổn thất
điện năng. Ví dụ như hiện nay, ngành điện đang cải tạo, đổi mới lưới điện
để khắc phục tình trạng quá tải. Ngành điện đã thay các trạm biến áp có
cấp điện áp 35 KV, 15 KV bằng các máy biến áp có cấp điện áp 22 KV
nhưng đường dây và các trạm phân phối khơng được cải tạo đồng bộ dẫn
đến tình trạng khơng khai thác được cuộn 22 KV mà các cuộn 35, 15, 10,


16

6 KV vẫn bị quá tải. Như vậy, lượng tổn thất vẫn bị tăng do chạy máy
không tải và do một số trạm quá tải.
Tất cả những nhân tố trên đều dẫn đến tổn thất điện năng. Muốn
giảm được lượng điện tổn thất này thì phải cải tiến kỹ thuật công nghệ
truyền tải nhưng phải cải tiến đồng bộ.
Thứ hai, tổ chức sản xuất kinh doanh
Để quản lý tốt sản phẩm của mình, giảm lượng điện hao hụt trong quá
trình phân phối và truyền tải điện năng, người lao động đóng vai trị khơng
nhỏ, các cơng nhân, kỹ sư,…phải có trình độ chun mơn nghiệp vụ nhất

định. Phải thơng thạo về kỹ thuật, kinh tế, nghiệp vụ về điện để tuyên truyền,
hướng dẫn cho khách hàng trong quá trình mua hàng và phương pháp sử
dụng, nhất là an toàn điện, tránh xảy ra những tổn thất khơng đáng có. Phải
thơng thạo trong việc sử dụng, kiểm tra các thiết bị điện thuộc phạm vi mình
quản lý. Khi có sự cố xảy ra: chập, cháy, nổ,…thì những cán bộ cơng nhân
ngành điện phải được đào tạo chính quy và có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ tối
thiểu. Trình độ cán bộ, cơng nhân ngày càng cao thì xử lý các tình huống càng
kịp thời, chính xác. Bên cạnh đó, việc bố trí đúng người, đúng việc trong
ngành điện rất quan trọng, một mặt giúp họ phát huy hết khả năng của mình,
mặt khác đảm bảo được an tồn, bởi ngành điện là ngành có yêu cầu cao về
kỹ thuật. Được bố trí cơng việc phù hợp giúp cho cán bộ, cơng nhân say mê,
sáng tạo, tránh được các hành vi tiêu cực do chán nản gây ra: làm việc thiếu
nhiệt tình, khơng tận tuỵ hết lịng vì cơng việc, khi có sự cố xảy ra, xử lý
chậm chạp, không đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật, gây thiệt hại lớn; nhân
viên ghi công tơ không đều đặn theo lịch hàng tháng, ghi sai chỉ số, ghi chỉ số
khống,…; hiện tượng cán bộ cơng nhân viên ngành điện móc ngoặc với các
hộ sử dụng điện, ghi sai chỉ số công tơ, thu tiền khơng đúng kì hạn, tính sai
giá điện, làm hợp đồng không đúng với thực tế sử dụng,…


17

Theo mơ hình tổ chức quản lý điện hiện nay, tổn thất điện năng do Ban
kinh doanh ( hay chi nhánh ) chịu trách nhiệm về tổn thất. Các đội quản lý
công tơ và đội thu tiền điện không chịu trách nhiệm về tổn thất. Vì vậy, hiện
nay tình hình tổn thất điện năng tương đối lớn. Người quản lý khu vực sẽ dễ
không chịu trách nhiệm về tổn thất. Người quản lý khu vực sẽ dễ dàng cùng
với hộ tiêu thụ làm mất mát điện năng của Nhà nước. Do họ không chịu trách
nhiệm về tổn thất nên dẫn đến buông lỏng quản lý hộ tiêu thụ, tạo điều kiện
cho hộ tiêu thụ câu, nối trước công tơ làm thất thoát điện của Nhà nước. Mặt

khác, các đơn vị chuyên trách kỹ thuật và Ban kinh doanh có mối liên hệ
ngang, do đó dẫn đến sự chậm chạp trong việc xử lý sự cố vận hành mạng
lưới, tạo nên tình hình phức tạp trong cơng tác kinh doanh do luồng thông tin
quá lớn, số đầu vào nhiều.
Vấn đề tổ chức sản xuất trong kinh doanh bán điện còn chưa hợp lý,
dẫn đến sự bất bình của người sử dụng điện. Đó là tình trạng: nhiều đường
dây, trạm là tài sản của khách hàng, ngành điện khai thác bán điện cho nhiều
phụ tải khác chưa làm được thủ tục bàn giao tài sản nên khi có sự cố đã xảy ra
tình trạng đùn đẩy trách nhiệm sửa chữa dẫn đến mất điện kéo dài của một số
khách hàng. Thủ tục, giấy tờ và thời gian lắp đặt công tơ kéo dài, hiện tượng
tiêu cực của một số cán bộ công nhân viên ngành điện cấu kết với khách hàng
để lấy cắp điện vì mục đích vụ lợi vẫn cịn phổ biến, nhiều nơi vẫn còn hiện
tượng nhũng nhiễu, phiền hà khách hàng, còn nhiều hiện tượng thiếu trách
nhiệm trong khi thực hiện ghi chỉ số cơng tơ hoặc cịn hiện tượng các đơn vị
hạch tốn sai trong cơng tác kinh doanh. Chính sự bất bình này dẫn đến
những hiện tượng tiêu cực của người sử dụng điện: câu móc trộm điện, quay
ngược cơng tơ, vơ hiệu hố cơng tơ,…dẫn đến tổn thất điện năng.
Vậy, để quản lý tốt sản phẩm của mình trong đó có giảm lượng điện
năng hao tổn thì việc tổ chức sản xuất hợp lý, tạo mối liên hệ cân đối, hài hoà


18

giữa các bộ phận, phải có một đội ngũ nhân viên có trình độ, tinh thần trách
nhiệm cao với cơng việc là hết sức cần thiết. Tổ chức sản xuất kinh doanh
không hợp lý tất yếu dẫn đến hoạt động của ngành kém chất lượng, điện cung
cấp không đầy đủ cả về số lượng và chất lượng, hao tổn điện năng nhiều.
Thứ ba, quản lý khách hàng
Ngành điện là ngành cơ sở hạ tầng, tạo nên động lực của toàn bộ nền
kinh tế xã hội. Điện năng là một loại sản phẩm hàng hoá đặc biệt quan trọng,

gắn với đời sống hàng ngày của con người. Chính vì vậy, khách hàng tiêu thụ
điện rất đa dạng, thuộc mọi tầng lớp, mọi lĩnh vực, mọi miền và mọi vùng của
quốc gia, từ khách hàng chỉ tiêu thụ 2-3 KWh/tháng đến những khách hàng
tiêu thụ hàng triệu KWh/ tháng.
Khách hàng của ngành điện gồm sản xuất công nghiệp, sản xuất nông
nghiệp, thuỷ lợi, dịch vụ thương mại và sinh hoạt tiêu dùng ở đô thị, nông
thôn và miền núi. Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong cơ chế mới,
mục tiêu phát triển khách hàng của ngành là:
* Hướng phát triển khách hàng vào các thành phần công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ thương mại, nhất là các xí nghiệp liên doanh với nước
ngồi, các xí nghiệp có 100% vốn nước ngồi. Đây là những khách hàng sử
dụng nhiều điện, giá bán cao, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tăng doanh
thu của ngành.
* Đối với những khách hàng khác, hướng việc phát triển khách hàng
vào các khu dân cư tập trung dọc trục đường giao thơng, gần với lưới điện, có
thể giảm bớt kinh phí đầu tư mà vẫn bán được điện.
Do khách hàng của ngành điện rất đa dạng và phong phú như vậy nên
việc quản ký khách hàng đối với ngành điện là tương đối khó khăn. Quản lý
khách hàng không tốt dẫn đến việc tổng điều tra và ký lại hợp đồng mua bán
chưa đầy đủ, tên người sử dụng điện khác với tên người ký hợp đồng, địa chỉ


19

không rõ ràng, gây nên hiện tượng thất thu tiền điện. Quản lý khách hàng theo
từng khu vực, phân loại khách hàng theo từng đặc điểm sẽ giúp cho việc ghi
công tơ và thu ngân được đúng tiến độ, không quá hạn lịch ghi công tơ hàng
tháng, công việc này góp phần giảm tổn thất điện năng một cách đáng kể.
Khách hàng được quản lý sát sao, có hệ thống giúp cho ngành điện nắm
vững được mục đích sử dụng điện của từng hộ để tính giá điện cho phù hợp,

khi có sự cố xảy ra, biết rõ đang xảy ra ở khu vực nào, từ đó có biện pháp xử
lý hợp lý, kịp thời.
Quản lý khách hàng thông qua quản lý công tơ các hộ sử dụng điện; các
công tơ chết cháy không đạt chất lượng phải được thay kịp thời. Các hình
thức vi phạm hợp đồng sử dụng điện phải bị xử phạt nghiêm minh.
Như vậy, công tác quản lý khách hàng tốt sẽ góp phần rất lớn vào việc
giảm tổn thất điện năng của ngành điện.
1.4. Ý nghĩa của việc giảm tổn thất điện năng

Giảm tổn thất điện năng là một vấn đề cần thiết không chỉ đối với
ngành điện, không chỉ đối với riêng Điện Việt Nam mà đối với ngành điện các
nước trên thế giới. Giảm tổn thất điện năng có một ý nghĩa to lớn đối với nền
kinh tế quốc dân và ngành điện.
Theo EVN, năm 2003 Việt Nam giảm được 1% điện năng tổn thất sẽ
tiết kiệm được 237.400MW, tương ứng với gần 179 tỷ đồng (tổng sản lượng
điện phát ra năm 2003 là 7.2 tỷ KWh).
Ngành điện là một ngành sản xuất kinh doanh sản phẩm điện nên muốn
tiếp tục duy trì và phát triển thì ngành điện phải có lợi nhuận để thực hiện tái
đầu tư mở rộng để phát triển. Nếu sản phẩm điện mua về từ các nhà máy phát
điện, trong quá trình truyền tải và phân phối bị tổn thất 100% thì các Cơng ty
kinh doanh điện sẽ khơng có lợi nhuận, thâm hụt ngân quỹ do chỉ có đầu ra
mà khơng có đầu vào và các Cơng ty kinh doanh thuộc ngành điện sẽ nhanh
chóng bị phá sản, không tồn tại.


20

Trong trường hợp lượng điện tổn thất với tỷ lệ cao. Do đây chính là
một bộ phận cấu thành nên chi phí sản phẩm, nên khi tỷ lệ tổn thất cao tất yếu
sẽ dẫn đến giá thành điện cao. Công ty kinh doanh điện muốn có lợi nhuận để

thực hiện tái đầu tư thì giá bán phải cao hơn giá thành sản phẩm, giữa giá bán
và giá thành là mối quan hệ tỷ lệ thuận. Giá bán điện cao, theo quy luật cungcầu, dẫn đến sản lượng điện tiêu thụ giảm. Đối với ngành điện, đây là một
thiệt hại lớn, ngành sẽ thu hồi vốn lâu, như vậy, việc sử dụng đồng vốn không
hiệu quả, tất yếu dẫn đến phá sản. Nền kinh tế quốc dân cũng bị thiệt hại rất
lớn, bởi ngành điện có một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì
vậy, khi ngành điện khơng tự mình phát triển đi lên thì Nhà nước phải bù lỗ
bằng Ngân sách Chính phủ, mà nguồn ngân sách Chính phủ được thu từ các
thành phần kinh tế. Vậy, gánh nặng ngân sách buộc các thành phần kinh tế
muốn tồn tại phải tăng giá bán sản phẩm của mình, dẫn đến tình trạng hạn chế
tiêu dùng. Đây không phải là điều mong muốn của thị trường, của các doanh
nghiệp. Điều này làm cho nền kinh tế bị đình trệ, sản phẩm hàng hố khơng
được lưu thơng. Vậy tổn thất điện năng vơ hình chung đã kìm hãm sự phát
triển kinh tế xã hội.
Ngược lại, tỷ lệ tổn thất điện năng thấp sẽ mang lại lợi ích hết sức to
lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành điện nói riêng. Theo
số liệu tính toán và thống kê năm 2003, nếu giảm tổn thất điện năng xuống
0,5% thì sẽ tiết kiệm được trên 100 triệu KWh, tương đương 5 vạn tấn nhiên
liệu tiêu chuẩn khơng phải đốt và ít nhất tiết kiệm được hàng trăm triệu đồng
cho Nhà nước. Giảm được tổn thất điện năng tức là giảm được tỷ lệ thiết bị
phát điện của nhà máy, đồng thời giảm được nhiên liệu tiêu hao,…Điều đó
ảnh hưởng trực tiếp đến việc cải thiện đời sống nhân dân, góp phần vào việc
giảm chi phí cho tồn bộ q trình sản xuất, tạo điều kiện hạ giá thành bán
điện cho các hộ dùng điện, kích thích tiêu dùng.


21

Đối với các hộ sử dụng điện để sản suất, giá điện giảm sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thêm thu nhập thực tế. Các sản phẩm hàng
hố được kích thích tiêu dùng hơn do giá bán thấp, sức mua tăng lên.

Đối với Nhà nước, tổn thất điện năng giảm, ngành điện tiêu thụ được
nhiều điện, có lợi nhuận nên Nhà nước không phải bù lỗ, Ngân sách Nhà
nước được sử dụng đầu tư vào các công việc có ích khác, tạo sự phát triển
đồng đều cho xã hội.
Người dân, hộ sử dụng điện được dùng điện với giá thấp, chất lượng
cao: điện áp cố định, tần số ổn định do hệ thống điện được đầu tư mới, khơng
cịn hiện tượng câu móc điện làm cho điện sử dụng bị sụt tải,…nên độ bền
của các máy móc, thiết bị cao hơn. Khơng cịn xảy ra các tình trạng tai nạn về
điện đáng tiếc do vi phạm sử dụng điện, sự cố do điện gây ra: phóng điện,
chập điện,…
Việc giảm tổn thất điện năng có ý nghĩa rất lớn đối với toàn xã hội từ
Nhà nước đến ngành điện, các hộ tiêu dùng. Chính vì lẽ đó nên tổn thất điện
năng đã, đang và sẽ còn là vấn đề quan trọng, là mục tiêu số một của ngành
điện cần được giải quyết.
1.5. Một số giải pháp giảm tổn thất điện năng
Mục tiêu quan trọng hàng đầu hiện nay của việc kinh doanh điện năng
là giảm tổn thất điện năng. Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi phải
có những phương hướng nhất định. Sau đây là một số phương hướng nhất
định để giảm tổn thất điện năng.
1.5.1. Giảm tổn thất kỹ thuật
Nâng cao chất lượng điện áp:


22

+ Trong chế độ vận hành bình thường điện áp vận hành cho phép tại
điểm đấu nối được phép dao động so với điện áp danh định là ±5%. Điện áp
cuối đường dây không < - 5%.
+ Trong chế độ sự cố đơn lẻ hoặc trong q trình khơi phục vận hành
ổn định sau sự cố, cho phép mức dao động điện áp tại điểm đấu nối với khách

hàng sử dụng điện bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự cố trong khoảng +5% và –
10% so với điện áp danh định.
+ Trong chế độ sự cố nghiêm trọng hệ thống điện truyền tải hoặc khôi
phục sự cố, cho phép mức dao động điện áp trong khoảng ± 10% so với điện
áp danh định. [Nguồn tài liệu: Quy định của Bộ Công thương quy định hệ
thống điện phân phối số: 32/2010/TT-BCT ngày 30 tháng 7 năm 2010]
- Cải tạo hệ thống lưới điện:
+ Đẩy mạnh công tác đầu tư xây dựng, hồn thành đúng kế hoạch các
cơng trình chống q tải trước ngày 30/4 hàng năm.
+ Đại tu, sửa chữa đường dây điện có tiết diện nhỏ, nhiều chủng loại
dây dẫn, tiết diện dây dẫn khác nhau.
+ Tính tốn lại phương thức vận hành cho hợp lý, phân phối đều phụ tải
cho các đường dây điện, giảm thiểu bán kính cấp điện.
+ Kiểm tra đúng định kỳ ngày và đêm trạm biến áp và đường dây, kịp
thời sửa chữa, khắc phục những hiện tượng bất thường không để xảy ra sự cố.
+ Thường xun đo cơng suất những ngày nắng nóng và giờ cao điểm.
Đề xuất với Công ty biện pháp sử lý những đường dây, trạm biến áp đầy tải,
quá tải.
+ Chủ động phát quang tuyến dây, không để điện rò ra cây, dây leo làm
tổn thất điện năng, gây nguy hiểm đến tính mạng người và vật ni.
1.5.2. Giảm tổn thất thương mại
- Hồn thành cơng tác thay cơng tơ định kỳ của năm trong quý I, quý II
và đầu quý III hàng năm.


23

- Thành lập Ban chỉ đạo giảm tổn thất của Cơng ty. Xây dựng chương
trình hoạt động cụ thể đối với từng đường dây, từng trạm biến áp có tổn thất
cao. Mỗi đồng chí trong Ban chỉ đạo giảm tổn thất được giao theo dõi từng

đường dây. Định kỳ kiểm tra và chốt chỉ số để tính tốn và theo dõi, đường dây
có tổn thất cao, kịp thời kiểm tra tìm ra ngun nhân và có biện pháp xử lý.
- Lắp đo đếm thí điểm đầu nguồn từng nhánh các TBA cơng cộng có
tổn thất cao, thực hiện chốt chỉ số các nhánh 3 ngày 1 lần để tính tốn tổn
thất, khoanh vùng và tập trung kiểm tra, giám sát nhánh có tổn thất cao.
- Hàng tháng kết thúc kỳ ghi chỉ số phải thường xuyên kiểm tra, phúc
tra các trường hợp khách hàng có sản lượng bất thường, khơng dùng nhằm kịp
thời phát hiện và khắc phục hệ thống đo đếm không đảm bảo tiêu chuẩn vận
hành, không để cơng tơ chết dài ngày. Mở hịm kiểm tra và dán lại tem niêm
phong hịm cơng tơ đối với các hịm cơng tơ bị rách tem niêm phong. Lập
danh sách và tổ chức kiểm tra các khách hàng có sản lượng điện thất thường.
- Kiểm soát sản lượng đầu nguồn tại các trạm trung gian, ranh giới (5
ngày 1 lần ghi chỉ số), theo dõi sản lượng khách hàng có trạm riêng qua các
kỳ ghi chỉ số (kỳ 1, kỳ 2), sản lượng các trạm công cộng sau kỳ ghi chỉ số, kịp
thời phát hiện, khoanh vùng tổn thất để kiểm tra, phát hiện nguyên nhân và
nhanh chóng khắc phục.
- Tổ chức tuyên truyền cho các khách hàng sử dụng điện ý thức sử
dụng điện đúng mục đích đăng ký, không vi phạm sử dụng điện, tố giác
những trường hợp vi phạm và các cá nhân tham gia.
1.5.3. Xây dựng ý thức và sắp xếp nguồn nhân lực hợp lý
Con người là chủ thể của mọi hoạt động, đặc biệt hoạt động sản xuất
lao động của ngành điện mang tính kỹ thuật rất cao nó địi hỏi lao động mang
tính phức tạp do đó lao động phải có trình độ chun mơn nghiệp vụ. Nếu
khơng nó khơng chỉ gây hậu quả cho ngành điện mà còn cho xã hội như


24

khơng đảm bảo an tồn vì vậy trong hoạt động kinh doanh điện nhân tố con
người là điều kiện quyết định trong việc thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh

doanh và thực hiện nhiệm vụ giảm tổn thất điện năng. Ngành điện đang là
đơn vị mang tính bao cấp do đó những thói quen của người lao động như: ý
thức kỷ luật chưa cao, thiếu tinh thần trách nhiệm, làm việc thiếu tự giác vẫn
chưa được xố bỏ hồn tồn, đây là những nhân tố trở ngại trong cơng tác
quản lý khách hàng và gây khó khăn cho mục tiêu giảm tổn thất điện năng.
Về trình độ, ngành điện tuy đã có đội ngũ cán bộ cơng nhân viên được
đào tạo cơ bản song vẫn thiếu nhiều cán bộ trẻ với kiến thức và tay nghề mới,
phù hợp với những tiến bộ khoa học. Do đó bên cạnh những thuận lợi khi
thực hiện triển khai biện pháp giảm tổn thất cũng còn nhiều hạn chế trong
việc đưa ra những biện pháp mới, sáng kiến mới. Như vậy nâng cao trình độ
kỹ thuật, nhiệm vụ kinh doanh, tăng cường ý thức kỷ luật lao động và tinh
thần trách nhiệm cho tồn thể cán bộ cơng nhân viên trong ngành điện là
nhiệm vụ hàng đầu của ngành điện là điều kiện nhằm thực hiện mục tiêu giảm
tổn thất điện năng.
1.5.4. Nâng cao công tác phối hợp và tổ chức thực hiện trong Công
ty
Điều kiện về tổ chức là cơ sở quan trọng trong công tác kinh doanh
điện năng. Thực hiện các biện pháp giảm tổn thất điện năng đòi hỏi phải có sự
phối hợp thống nhất nhịp nhàng giữa các bộ phận (giữa các Công ty Điện lực
– Trung tâm điều độ thơng tin – Phịng Đo lường), có sự chỉ đạo kịp thời của
cán bộ lãnh đạo, sự kiểm tra chặt chẽ của các ban ngành, Nhà nước, của lãnh
đạo cấp trên, những ý kiến tham mưu của các phòng ban chức năng. Quy trình
thực hiện địi hỏi phải tn theo những quy định nghiêm ngặt về thời gian và
từng bước công việc. Do vậy việc tổ chức sản xuất tốt sẽ làm giảm tổn thất
điện năng trong Công ty Điện lực nhanh nhất. Và ngược lại nếu như việc tổ


25

chức sản xuất mà không tốt, lỏng lẻo sẽ gây ra ảnh hưởng khơng tốt tới cả q

trình sản xuất kinh doanh điện năng do đó khơng thực hiện được mục tiêu
giảm tổn thất điện năng
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 của luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý thuyết về tổn thất
điện năng: Khái niệm tổn thất điện năng: Tổn thất điện năng kỹ thuật, tổn thất
điện năng phi kỹ thuật (thương mại). Các biện pháp quản lý kỹ thuật - vận
hành giảm tổn thất điện năng. Các biện pháp quản lý kinh doanh giảm tổn thất
điện năng. Đó là những cơ sở lý thuyết quan trọng để tiếp tục đi phân tích
thực trạng tổn thất điện năng tại Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
trong chương 2.


×