Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Tài liệu Luận Văn “Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao tính bắt buộc trong nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.92 KB, 47 trang )



Luận Văn
“Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao tính bắt buộc
trong nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO”
MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
I. Sự cần thiết phải triển khai BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Đặc điểm hoạt động của xe cơ giới trong giao thông đường bộ
1.1. Tình hình phát triển phương tiện cơ giới
1.2. Tình hình tai nạn giao thông và nguyên nhân
2. Sự cần thiết khách quan phải triển khai BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba
3. Tác dụng của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
3.1. Đối với chủ xe
3.2. Đối với người thứ ba
3.3. Đối với xã hội
II. Nội dung cơ bản của BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Đối tượng bảo hiểm
1.1. Đối tượng được bảo hiểm
1.2. Điều kiện để phát sinh bảo hiểm trách nhiệm dân sự
2. Phạm vi bảo hiểm
2.1. Các rủi ro được bảo hiểm
2.2. Các rủi ro loại trừ: theo điều 13 chương II QĐ 299/1998/QĐ - BTC
3. Phí bảo hiểm


3.1. Phí bảo hiểm
3.2. Phương pháp tính phí
3.3. Các yếu tố làm tăng phí
4. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia
4.1. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe cơ giới
4.2. Trách nhiệm và quyền lợi của công ty bảo hiểm
5. Công tác giám định và giải quyết bồi thường
5.1. Thiệt hại của bên thứ ba
5.2. Tính toán mức bồi thường của người gây thiệt hại
5.3. Giải quyết bồi thường của công ty bảo hiểm
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX-
PJICO GIAI ĐOẠN 1996-2000
I. Vài nét sơ lược về Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO
II. Thực tế công tác triển khai
1. Công tác khai thác
1.1. Về mặt số lượng xe cơ giới
1.2. Về doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới
2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất
3. Công tác giám định
4. Công tác bồi thường
5. Kết quả triển khai nghiệp vụ
III. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện BHTNDS chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba
1. Kết quả thực hiện Nghị định 115/CP/1997
2. Những hạn chế trong quy tắc BHTN dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
3. Nguyên nhân hạn chế
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH

NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN
BẢO HIỂM PETROLIMEXX (PJICO)
I. Những khó khăn, thuận lợi và tồn tại của Công ty PJICO
1. Những thuận lợi
2. Khó khăn cơ bản
3. Những tồn tại
II. Những giải pháp thực hiện bắt buộc BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
của một số Công ty tại Hội thảo lần 2 (20/10/2000)
1. Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI)
2. Giải pháp của Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh
3. Giải pháp của The Tokyo Marine and fire insurace Co, Ltd. nhằm bắt buộc các chủ
phương tiện xe máy
4. Giải pháp của PJICO trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân
sự chủ xe cơ giới
5. Đánh giá lại toàn bộ giải pháp của công ty
6. Một số kiến nghị
6.1. Công tác khai thác
6.2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
6.3. Công tác giám định bồi thường
6.4. Công tác khác
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, phương tiện sử dụng trong ngành
giao thông vận tải cũng được cải tiến đến chóng mặt cả về số lượng lẫn chất lượng. Hàng năm có hàng
nghìn phương tiện hoạt động được điều khiển từ con người thu: xe đạp, xe máy, ôtô
Song song với sự tiến bộ này là tình hình giao thông đường bộ ngày càng phức tạp, tai nạn giao
thông ngày càng nhiều gây thiệt hại lớn về tài sản tính mạng cho con người cũng như cho toàn xã hội.
Để giảm bớt những thiệt hại đó nhằm đảm bảo an toàn cho xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích hoạt

động kinh doanh, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex gọi tắt PJICO đã triển khai loại hình “bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba “ (BHTNDS). BHTNDS là nghiệp vụ bảo
hiểm quan trọng, nó đồng thời thực hiện hai mục tiêu là:
- Thực hiện tốt nghị định 115/1997 NĐ/CP (quy định về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giớ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp cHo những người bị thiệt hại về
thân thể và tài sản do cơ giới gây ra, đồng thời giúp chủ xe cơ giới khắc phục được hậu quả).
- Đóng góp không nhỏ trong tổng doanh thu hàng năm của công ty.
PJICO mới tham gia hoạt động trên thị trường bảo hiểm được 6 năm nhưng đã khẳng định được
vị trí của mình trên thị trường bảo hiểm và triển khai nghiệp vụ BHTNDS có hiệu quả. Mặc dù vậy công
ty cũng không thể tránh khỏi những thiếu xót, vướng mắc trong quá trình hoạt động, triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm dân sự từ khâu khai thác đến khâu bồi thường. Để nhấn mạnh vai trò to lớn của
nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, qua thời gian thực tập tại văn phòng KVI
-28C Lê Ngọc Hân cùng với thực tế công ty, em đã chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp nhằm
nâng cao tính bắt buộc trong nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty
Cổ phần Bảo hiểm PJICO” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung bài viết gồm:
Chương I. Những vấn đề chung về BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Chương II. Tình hình triển khai nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại
Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO giai đoạn 1995- 2000.
Chương III. Những giải pháp nhằm thực hiện tốt nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy cô trong khoa bảo hiểm và cán bộ nhân
viên văn phòng KVI - 28C Lê Ngọc Hân đã giúp em hoàn thành tốt đề tài.
Bài viết này không tránh khỏi thiếu xót do tài liệu và thời gian có hạn. Em rất mong được sự góp
ý chân thành của thầy cô đã giúp em hoàn thiện tốt hơn cho đề tài này.


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA


I. Sự cần thiết phải triển khai BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Đặc điểm hoạt động của xe cơ giới trong giao thông đường bộ
Trong nhịp độ phát triển không ngừng về kinh tế thì giao thông đóng vai trò quan trọng trong mọi
sự phát triển, là huyết mạch, là một ngành kinh tế kỹ thuật có vị then chốt. Giao thông ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến các ngành kinh tế, kỹ thuật, an ninh, quốc phòng
1.1. Tình hình phát triển phương tiện cơ giới
Trong những năm gần đây, giao thông nước ta có sự phát triển vượt bậc với các hình thức vận
chuyển ngày càng phong phú, từ vận chuyển bằng phương tiện thô sơ đến vận chuyển bằng phương tiện
vận tải cơ giới. Do sự phát triển của cơ chế thị trường, hàng loạt xe cơ giới các loại được tham gia lưu
hành trong giao thông. Có thể nhận xét sự gia tăng phương tiện cơ giới đường bộ của Việt Nam trong 10
năm qua ở những nét cơ bản sau:
- Số lượng phương tiện tăng tương đối nhanh đặc biệt là ô tô. Từ năm 1990 đến năm 2000 bình
quân hàng năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 17,8% trong đó ô tô tăng 7,6%, xe máy là xấp xỉ 19,5.
Năm 2000 so với 1990 phương tiện cơ giới đường bộ tăng 4,5 lần; ôtô tăng 2,14 lần; xe máy tăng 4,63 lần
trong đó năm 1993 phương tiện tăng cao nhất. Từ năm 1998 đến nay tỷ lệ này giảm khoảng 7%.
- Vài năm gần đây mức độ tăng của các phương tiện cơ giới đường bộ của Việt Nam khá
cao song mức cơ giới hoá vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực.
Việt Nam có 75 xe/1.000 dân trong khi Thái Lan 190 xe/1.000 dân, Malasia 340 xe/1.000 dân.
- Tỷ lệ xe cũ nát cao, điều kiện an toàn thấp, tổng số phương tiện ô tô vào kiểm định so với thực
tế lưu hành còn qúa thấp (số phương tiện chạy bằng xăng là 45%,dicsel là 55%).
Số lượng xe theo đăng ký chênh lệch với số xe thực tế hoạt động. Theo số liệu đăng ký thì tổng số
ôtô năm 2000 là 750.000 xe nhưng số xe vào kiểm định (lưu hành trên đường) là chưa đến 500.000 xe.
Theo dự đoán của các chuyên gia thì trong thập kỷ tới phương tiện cơ giới của nước ta vẫn tăng cao, mức
tăng trưởng chỉ căn cứ dự báo theo GDP thì cứ mỗi năm khi GDP tăntg 1% thì tổng lượng vận tải đường
bộ tăng từ 1.2% đến 1.5%, đặc biệt trong giai đoạn tới (2.006) nước ta thực hiện các cam kết cắt giảm
thuế thì lượng xe tung ra càng nhiều.

Bảng 1: Viện chiến lược bộ GTVT dự báo phương tiện cơ giới đường bộ
Năm 2000 2010 2020

Tổng số xe các loại (chiếc) 750.000 1.400.000 3.200.000
Tổng số xe máy (chiếc) 6.000.000 8.000.000 12.000.000
(Nguồn: Theo báo cáo thống kê của Uỷ Ban An Toàn Quốc Gia)
1.2. Tình hình tai nạn giao thông và nguyên nhân
Tai nạn giao thông là một vấn đề mang tính xã hội: Hầu hết các nước trên thế giới đều phải đối
mặt với tình trạng tai nạn giao thông gia tăng (dù ở các mức độ khác nhau) cũng như đối mặt với các vấn
đề xã hội khác. Theo số liệu thống kê của Liên hiệp Quốc thì hàng năm trên thế giới có khoảng 250 ngàn
người bị chết và khoảng 7 triệu người bị thương vì tai nạn giao thông do ôtô gây ra.
Tình hình tai nạn giao thông ở Việt Nam (số liệu thống kê tai nạn giao thông từ năm 1999 đến
năm 2000) cho thấy:
- Mỗi năm thường xảy ra 5.150 vụ tai nạn, làm khoảng 2.080 người bị chết, trên 5.100 người bị
thương (từ năm 1988 - 1991).
- Giai đoạn 1992 - 1996 kể từ sau khi có nghị định 36/CP, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tăng
cường đảm bảo an toàn giao thông thì bình quân tỷ lệ gia tăng tai nạn giao thông năm nay so với năm
trước như sau: 7,97% về số vụ; 5,53% số người chết; 9,5% về số người bị thương. Năm 1999 tỉ lệ số
người bị thương chết vì tai nạn giao thông tăng nhanh và 8 tháng đầu năm 2.000 tỉ lệ này vẫn tiếp tục gia
tăng có tới 15.370 vụ tai nạn giao thông làm 5.274 người chết, 16.19 người bị thương.
Tám tháng đầu năm 2.000 xảy ra 47 vụ tai nạn ôtô chở khách làm chết 12 người, bị thương 479
người. Điển hình là tai nạn trên quốc lộ 46 ở Thanh Chương Nghệ An làm 17 người chết, vụ tai nạn ở
Khánh Hoà làm 12 người chết Trong đó cả năm 1999 xảy ra 52 vụ tai nạn ôtô hành khách làm chết 146
người, bị thương 474 người.
Như vậy tai nạn ôtô khách đang trở thành một vấn đề cần được quan tâm đặc biệt, những vụ tai
nạn này không chỉ làm chết người mà còn làm cho mọi người dân thực sự lo ngại.
2. Sự cần thiết khách quan phải triển khai BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Lịch sử phát triển bao đời nay đã cho thấy những rủi ro bất ngờ luôn xảy ra ngoài ý muốn của con
người. Mà tính mạng con người là vô giá không thể tính toán bằng tiền cụ thể, cũng khó có thể đánh giá
được thiệt hại về sức khoẻ một cách chính xác.
Công cuộc phát triển về giao thông vận tải đã đem lại sự phồn vinh cho toàn xã hội song điều đó
lại cũng chính là nguyên nhân gây ra tai nạn, làm thiệt hại đến tính mạng sức khoẻ, tinh thần, tài sản của
con người và của toàn xã hội, gây nên khó khăn về kinh tế, tình cảm cho người bị nạn.

Như vậy tai nạn giao thông là mối đe dọa từng ngày từng giờ đối với các chủ phương tiện, mặc
dù nhà nước ta đã có nhiều biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tai nạn một cách tích cực song vẫn không thể
tránh khỏi. Khi tai nạn xảy ra thì việc giải quyết hậu quả thường phức tạp, kéo dài, cho dù nhà nước có
quy định rõ chủ phương tiện phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản do
việc lưu hành xe của mình gây ra theo nguyên tắc “gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu”.
Phần lớn các vụ tai nạn xảy ra đều được bồi thường theo thoả thuận giữa chủ phương tiện và
người bị hại nên dẫn đến nhiều khúc mắc trong việc bồi thường (hoặc bồi thường không xứng đáng hoặc
bồi thường không đúng thiệt hại thực tế), có những vụ tai nạn chủ xe không có điều kiện để giải quyết bồi
thường, nhiều trường hợp lái xe bị chết trong vụ tai nạn đó cho nên việc giải quyết tai nạn trở nên khó
khăn hơn.
Nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị hại và giảm bớt gánh nặng cho chủ xe BHTNDS của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba ra đời và đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội. Chính phủ đã ban hành
NĐ30/HĐBT và hiện nay được thay bằng NĐ 115/CP/1997 “về chế độ thực hiện bảo hiểm bắt buộc
TNDS của chủ xe cơ giới”. Như vậy càng khẳng định quyết tâm của Chính phủ thực hiện triệt để loại
hình bảo hiểm này. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để các công ty bảo hiểm đẩy mạnh công tác bảo hiểm
cho chủ xe cơ giới tại Việt Nam.
3. Tác dụng của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
3.1. Đối với chủ xe
BHTNDS của chủ xe cơ giới không chỉ đóng vai trò to lớn đối với người bị thiệt hại mà còn đối
với cả xã hội, nó là tấm lá chắn vững chắc cho các chủ xe khi tham gia giao thông.
- Tạo tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin, khi điểu khiển các phương tiện tham gia giao thông.
- Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh TNDS, trong đó có lỗi của chủ xe thì
công ty bảo hiểm nơi mả chủ xe tham gia ký kết bảo hiểm tiến hành bồi thường nhanh chóng để các chủ
xe phục hồi lại tinh thần, ổn định sản xuất., phát huy quyền tự chủ về tài chính, tránh thiệt hại về kinh tế
cho chủ xe.
- Có tác dụng giúp cho chủ xe có ý thức hơn trong việc đề ra các biện pháp hạn chế, ngăn ngừa tai
nạn bằng cách thông qua bảo hiểm TNDS của chủ xe.
- Góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị nạn. Đây là mục đích cao
cả trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba.
3.2. Đối với người thứ ba

- Thay mặt người thứ ba bảo vệ quyền lợi chính đáng cho họ. Vì khi chủ xe gây tai nạn thì công
ty thay mặt của xe bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân một cách nhanh chóng, kịp thời mà không
phụ thuộc vào tài chính của chủ xe.
- BHTNDS cũng giúp cho người thứ ba ổn định về mặt tài chính cũng như về mặt tinh thần, tránh
gây ra căng thẳng hay sự cố bất thường từ phía người nhà nạn nhân (trong trường hợp người thứ ba bị
chết).
3.3. Đối với xã hội
- Từ công tác giám định cũng như công tác bồi thường sau mỗi một vụ tai nạn, công ty bảo hiểm
sẽ thống kê được các rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro để từ đó đề ra biện pháp đề phòng hạn chế tổn
thất một cách hiệu quả nhất, giảm bớt những đáng kể do hậu quả tai nạn giao thông gây ra cho mỗi người,
giảm bớt thiệt hại cho toàn xã hội. Đây là một hoạt động thể hiện phương châm "phòng bệnh hơn chữa
bệnh".
- BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba còn làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách
nhà nước, đồng thời làm tăng thu cho ngân sách cho nhà nước. Việc đóng phí sẽ là nguồn chủ yếu để chi
trả bồi thường cho người thứ ba.
Đây là mục đích chủ yếu của nghiệp vụ của nhà nước Việt Nam, nó thể hiện vai trò trung gian
hoà giải có tính chất pháp lý của công ty bảo hiểm.
Với tư cách là một nghiệp vụ bảo hiểm, BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba vừa
mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn cao cả trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Một lần nữa BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba lại khẳng định sự cần
thiết khách quan cũng như tính bắt buộc của nghiệp vụ BHTN dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba.
II. Nội dung cơ bản của BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Đối tượng bảo hiểm
1.1. Đối tượng được bảo hiểm
Theo điều 5 chương II của NĐ 115 CP/1997.
* Đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân cư của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm bồi thường hay nghĩa vụ ngoài hợp
đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba do việc lưu hành xe gây tai nạn.
* Điều kiện để được bảo hiểm.

Đối tượng bảo hiểm không được xác định trước, chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn có phát
sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ
thể.
1.2. Điều kiện để phát sinh bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Thông thường phải có đủ bốn điều kiện sau:
- Điều kiện thứ nhất: Phải có thiệt hại về tài sản, tính mạng hay sức khoẻ của bên thứ ba.
- Điều kiện thứ hai: Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý mà
lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm quy định khác của Nhà nước.
- Điều kiện thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả của hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe)
với những thiệt hại của người thứ ba.
- Điều kiện thứ tư: Chủ xe (lái xe) phải có lỗi.
Thực tế chỉ cần thực hiện ba điều kiện thứ 1,2,3 là phát sinh trách nhiệm dân sự đối với người thứ
ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên trách nhiệm dân sự của chủ xe sẽ không phát
sinh, và do đó sẽ không phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc có thể không
vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của xe cơ giới mà không hoàn toàn do lỗi của chủ
xe. Ví dụ ôtô đang chạy với tốc độ lớn trên đường thì bị làm văng lốp xe ra ngoài làm bắn vào người đi
đường gây tai nạn chết người. Trong trường hợp này trách nhiệm dân sự có thể phát sinh nếu có đủ 3
điều kiện đầu tiên.
Trong BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, khi xảy ra tai nạn thiệt hại cho người thứ ba
thì người được bảo hiểm bồi thường là chủ xe hoặc người đi diện chi chủ xe được pháp luật công nhận.
Người thứ ba của BHTNDS chủ xe cơ giới có thể là người đi bộ hay đi xe đạp hoặc các phương
tiện cơ giới khác nhưng không bao gồm những trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra do bản thân phương tiện được bảo hiểm.
- Thiệt hại về tính mạng sức khoẻ xảy ra do bản thân người được bảo hiểm, người điều khiển xe
hay bất kỳ người nào khác đi trên đường.
- Thiệt hại mà phương tiện gây ra cho những người mà chủ xe có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
- Thiệt hại do hai xe cùng chủ đâm vào nhau.
- Trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự của lái xe.
- Các khoản phạt mà lái xe hoặc chủ xe phải chịu.
2. Phạm vi bảo hiểm

2.1. Các rủi ro được bảo hiểm
Người bảo hiểm nhận bảo hiểm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và
làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Công ty bảo hiểm bồi thường những thiệt hại về vật chất, về
người, về tài sản được tính toán theo những nguyên tắc cụ thể nhất định. Theo mục 3 điều 11 chương II
thì công ty bảo hiểm còn phải thanh toán cho chủ xe những chi phí mà họ đã chi ra nhằm phòng ngừa hạn
chế thiệt hại. Những chi phí này chỉ được bồi thường nếu phát sinh sau khi tai nạn xảy ra và được coi là
khoản chi phí cần thiết và hợp lý.
Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm được hạn mức trong mức trách nhiệm ghi trong
hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Như vậy bản thân chủ xe phải tự bảo hiểm cho phần trách
nhiệm vượt quá mức này (theo mục 3 điều 2 chương I QĐ số 299/QĐ - BTC/1998).
Trong BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, các thiệt hại nằm trong phạm vi trách
nhiệm của người bảo hiểm bao gồm:
- Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba.
- Thiệt hại về tài sản hàng hoá của bên thứ ba.
- Thiệt hại về tài sản làm thiệt hại đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập.
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế thiệt hại, các chi
phí đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả).
Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn,
chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân người được bảo hiểm mà công ty bảo hiểm có thẻ mở rộng phạm vi
bảo hiểm của mình cho những rủi ro khác. Những bảo đảm bổ sung trong BHTNDS của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba kéo theo một khoản phí đóng thêm của người khác được bảo hiểm.
2.2. Các rủi ro loại trừ: theo điều 13 chương II QĐ 299/1998/QĐ - BTC
Người được bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn mặc dù có
phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong các trường hợp sau:
- Tai nạn xảy ra do hành động xấu, cố ý của chủ xe, lái xe.
- Tai nạn xảy ra do hành động xấu, cố ý của người thứ ba.
- Xe không có giấy phép lưu hành.
- Lái xe chưa đủ tuổi lái xe theo quy định của pháp luật.
- Lái xe không có bằng lái hoặc có những không hợp lệ hoặc bằng lái xe bị đình chỉ hay tạm giữ.
- Điều khiển xe trong tình trạng say rượu, bia, ma tuý, hay các chất kích thích tương tự khác

- Lái xe sử dụng không được sự đồng ý của chủ xe.
- Xe được sử dụng để chuyên chở chất cháy, chất nổ trái phép.
- Xe trở quá trọng tải hoặc quá số khách quy định.
- Xe có hệ thống lái ben phải.
- Xe sử dụng để tập lái hoặc đua thể thao.
- Xe đang sửa chữa hay đang trong thời gian chạy thử sau khi sửa chữa.
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành.
- Đồ vật trở trên xe rơi xuống đường gây thiệt hại cho người thứ ba.
- Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp, bị cướp trong tai nạn.
- Thiệt hại đối với người không phải là người thứ ba như đã nêu ở phần đối tượng bảo hiểm.
- Thiệt hại gián tiếp do xe bị tai nạn làm ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm giá
thương mại.
- Chiến tranh và các nguyên nhân tương tự khác chiến tranh.
- Tai nạn xảy ra ngoài phạm vi lãnh thổ nước sở tại tham gia bảo hiểm (trừ một số trường hợp có
thoả thuận từ trước)
- Lái xe gây tai nạn bỏ trốn.
Ngoài ra người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như: vàng, bạc, đá, quý,
tiền đồ cổ, tranh ảnh quý, thi hài, hài cốt
Sở dĩ các công ty bảo hiểm phải đưa ra các điều khoản loại trừ như vậy là để tránh tình trạng
những lái xe ẩu, vô trách nhiệm coi thường pháp luật đặc biệt là coi thường luật lệ giao thông của các chủ
xe và lái xe. Hơn nữa các công ty bảo hiểm còn tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm, làm như vậy thì bảo
hiểm mới có tác dụng theo đúng nguyên tắc “chỉ bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên”.
3. Phí bảo hiểm
3.1. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe phải nộp cho nhà bảo hiểm để thành lập nên một quỹ
tiền tệ tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo pham vi bảo hiểm. Có thể
coi phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm nên nó có thể tăng giảm phụ thuộc vào tình hình cung,
cầu trên thị trường.
Biểu phí nghiệp vụ BHTNDS do Bộ Tài Chính quy định ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm có thể
thoả thuận với chủ xe cơ giới để đảm bảo theo biểu phí cao hơn hoặc phạm vi rủi ro bảo hiểm rộng theo

quy tắc bảo hiểm, biểu phí mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đăng ký với Bộ Tài Chính.
Phí bảo hiểm trong nghiệp vụ BHTNDS được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo
hiểm đóng phí BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo số lượng đầu phương tiện của
mình.
Mặt khác, các đầu phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác suất gây ra tai nạn khác
nhau. Do đó phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (hoặc nhóm phương tiện) tuỳ theo
mỗi đầu phương tiện.
3.2. Phương pháp tính phí
Do phí BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được thu theo mỗi đầu phương tiện hay
thu theo số lượng mỗi loại phương tiện hoạt động. Các phương tiện khác nhau có xác suất gây ra tai nạn
khác nhau. Nên phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (thường tính theo năm) là:
P =f +d.
Trong đó: p - phí bảo hiểm/phương tiện.
f - phí thuẩn.
d - phụ phí.
Phí thuần được xác định theo công thức.
F = { eqf (Σdi
*
Ti; Σci) }
Trong đó: Si - số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường
trong năm i.
Ti - số tiền bồi thường bình quân một vụ tai nạn trong năm i/
Ci - số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm i.
n - số năm thống kê thường từ 3 -5 năm i = (1,n)
Như vậy thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ năm cho mỗi đầu phương tiện
tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó.
Ở Việt Nam thì phụ phí thường từ 20% - 30% phí cơ bản.
d = { eq f (% phụ phí * phí cơ bản; (1 - % phụ phí) ) }
Đây là cách tính bảo hiểm cho các phương tiện giao thông thông dụng trên cơ sở quy luật số
đông. Đối với các phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như kéo rơmoóc, xe chở hàng

nặng thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản.
Đối với các phương tiện hoạt động ngắn (dưới 1 năm) thời gian tham gia bảo hiểm được tính tròn
tháng và phí bảo hiểm được xác định như sau:
Pngắn hạn = {eq f (Pnăm * số tháng xe không hoạt động; 12 tháng }
Trường hợp đã tham gia đóng phí cả năm nhưng vào một thời điểm nào đó xe không hoạt động
nữa hoặc chuyển quyền sở hữu cho người khác mà không chuyển bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được
hoàn trả lại phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian còn lại của năm (làm trong tháng) với điều kiện như
sau:
Phí hoàn lại = { eq f ( Phí năm * số tháng xe hoạt động; 12 tháng) }
Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm của chủ phương tiện, tuỳ theo số lượng phương tiện, người bảo
hiểm sẽ quy định thời gian, số lần nộp mức phí tương ứng có xét giảm phí theo tỷ lệ tổn thất và giảm phí
theo số lượng phương tiện tham gia bảo hiểm (tối đa thường giảm 20%). Nếu không thực hiện đúng quy
định sẽ bị phạt ví dụ như:
- Chậm từ 1 ngày đến 2 tháng phải nộp thêm 100% mức phí cơ bản.
- Chậm từ 2 tháng 4 tháng phải nộp thêm 200% mức phí cơ bản.
- Chậm từ 4 tháng trở lên nộp thêm 300% phí cơ bản.
- Hoặc huỷ hợp đồng bảo hiểm.
3.3. Các yếu tố làm tăng phí
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải đóng cho nhà bảo hiểm khi tham gia bảo
hiểm và phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện.
- Phí thuần tăng:
+ Do số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm tròn năm thấp.
+ Do số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường
trong năm là nhiều.
+ Số tiền bồi thường bình quân một vụ tai nạn lớn.
- Phu phí tăng:
+ Do các chi phí trong quản lý nghiệp vụ tăng.
+ Chi phí khai thác, giám định bồi thường tăng.
- Do chủ xe tham gia bảo hiểm nhưng quá thời hạn đóng phí.
- Ngoài ra: Những lái xe không có kinh nghiệm, không thuộc đường, không thuộc các biển báo xe

trên các trục lộ đường. Trước khi tham gia bảo hiểm chủ xe không khai báo tiền sử các vụ tai nạn đã xảy
ra trước đây để công ty bảo hiểm còn biết có nên ký hợp đồng bảo hiểm với chủ xe hay bị tai nạn giao
thông hoặc tăng mức phí nếu nhà bảo hiểm yêu cầu.
4. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia
4.1. Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe cơ giới
* Trách nhiệm của chủ xe cơ giới: theo điều 8 chương I QĐ số 299/1998/QĐ - BTC thì chủ xe cơ
giới phải thực hiện như sau:
- Thứ nhất: Khi yêu cầu bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kê khai đầy đủ và trung thực những nội
dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm.
- Thứ hai: Khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm:
+ Cứu chữa, hạn chế thiệt hại về tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn, báo ngay cho cảnh sát giao
thông nơi gần nhất để phối hợp giải quyết tai nạn. Trừ khi có một số lý do chính đáng, trong vòng 5 ngày
kể từ ngày xảy ra tai nạn, chủ xe cơ giới phải gửi cho doanh nghiệp bảo hiểm giấy báo tai nạn ghi rõ
(ngày giờ, địa điểm xảy ra tai nạn, giấy đăng ký giấy thông báo tai nạn,họ tên chủ xe, lái xe, nguyên nhân
tai nạn và biện pháp xử lý ban đầu ).
+ Không được di chuyển tháo dỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của doanh nghiệp bảo
hiểm, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm bảo an toàn cho người và tài sản hoặc phải thi hành
theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
- Thứ ba: Bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm
trong phạm vi số tiền đã bồi thường kèm theo toàn bộ chứng từ có cần thiế liên quan tới trách nhiệm của
người thứ ba.
- Thứ tư: Chủ xe cơ giới phải trung thực trong việc thu thập và cung cấp các tài liệu, chứng từ và
hồ sơ yêu cầu bồi thường và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình xác minh
tính chân thực của các tài liệu chứng từ đó.
- Thứ năm: Trong trường hợp thay đổi mục đích sử dụng xe, chủ xe cơ giới phải thông báo ngay
cho doanh nghiệp bảo hiểm biết được điều chỉnh lại tỷ lệ phí cho phù hợp.
Nếu chủ xe cơ giới không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm quy định trên thì doanh nghiệp bảo
hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền tiền tương ứng với thiệt hại do lỗi của chủ xe cơ giới
gây ra.
* Quyền lợi của chủ xe.

- Có quyền yêu cầu công ty bảo hiểm bổ sung hay sửa đổi hợp đồng, đề xuất công ty mở rộng
phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
- Khi tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, chủ xe được công ty bảo hiểm bồi thường tuỳ thuộc
vào mức độ thiệt hại thực tế và mức độ lỗi của chủ xe.
- Chủ xe có quyền yêu cầu đòi bồi thường trong vòng 6 tháng kể từ ngày xảy ra tai nạn trừ trường
họp do nguyên nhân khách quan hay bất khả kháng theo quy định của pháp luật.
- Chủ xe có quyền khiếu nại nhà bảo hiểm trong trường hợp bồi thường không thoả đáng hay
không bồi thường mà không rõ lý do.
Thời hạn thanh toán của công ty bảo hiểm là 15 ngày kể từ khi nhận hồ sơ bồi thường đầy đủ, hợp
lệ và không kéo dài quá 30 ngày. Thời hạn khiếu nại đòi bồi thường của chủ xe là 3 tháng kể từ ngày công
ty bảo hiểm thanh toán hay từ chối bồi thường.
4.2. Trách nhiệm và quyền lợi của công ty bảo hiểm
* Công ty bảo hiểm có trách nhiệm.
- Cung cấp đủ cho chủ xe cơ giới những quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm có liên quan tới
BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
- Hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi cho chủ xe cơ giới tham gia bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm có trách nhiệm giám định tai nạn và hậu quả tai nạn khi nhận được giấy yêu
cầu bảo hiểm. Nếu qua xác minh thấy vụ tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của công ty thì công ty xúc
tiến các công việc như sau:
+ Phối hợp với công an, cảnh sát giao thông tiến hành giám định hiện trường, xác định mức lỗi
của mỗi bên.
+ Tranh thủ ý kiến của chủ xe và lời khai báo của nhân chứng qua tờ khai tai nạn kết hợp với hiện
trường nghiên cứu các tài liệu cần thiết và xem xét lại một lần nữa nguyên nhân tai nạn.
+ Tiến hành xác định minh thiệt hại đối với người thứ ba.
- Sau khi giám định xong công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại khi
rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm theo phần lỗi của chủ xe (bồi thường thiệt hại về người, về tài sản).
- Các công ty bảo hiểm phải có các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, xây dựng cải tạo đường
xá cầu cống, hoàn chỉnh hệ thống đèn báo, biển báo giao thông. Ngoài ra còn giáo dục ý thức cho chủ xe
(lái xe) thực hiện tốt an toàn giao thông.
* Quyền lợi của công ty bảo hiểm.

- Công ty bảo hiểm được phép sử dụng phí bảo hiểm để sử dụng các mục đích của mình (chi bồi
thường, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi các hoạt động đầu tư).
- Nhà bảo hiểm có quyền giám sát thực hiện đề phòng, ngăn ngừa tai nạn chủ xe hoặc các bên có
liên quan trong việc trục lợi bảo hiểm (lập hồ sơ giả, khai báo không trung thực ).
5. Công tác giám định và giải quyết bồi thường.
5.1. Thiệt hại của bên thứ ba
Theo quy định của pháp luật việc xác định mức độ thiệt hại về tài sản, tính mạng và sức khoẻ của
con người trong tai nạn xe cơ giới căn cứ vào nguyên tắc và cách thức xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
* Đối với thiệt hại về tài sản.
- Trường hợp thứ nhất: tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại mà không thể sửa chữa được.
Trong trường hợp này thiệt hại về tài sản được xác định bằng giá mua của tài sản cùng loại tương đương
trên thị trường tự do hoặc chi phí hợp lý để làm lại tài sản đó.,
- Trường hợp thứ hai: tài sản bị hư hỏng có thể sửa chữa được, thiệt hại ở đây là chi phí thực tế
hợp lý để sửa chữa tài sản đó, đưa nó về trạng thái trước khi bị hỏng. Nếu trong quá trình sửa chữa tài sản
đó, phải thay mới một hoặc nhiều bộ phận thì phải trừ đi giá trị hao mòn của bộ phận được thay thế. Thiệt
hại về tài sản không tính đến những thiệt hại về những hư hỏng phát sinh trong quá trình sửa chữa mà
không liên quan gì đến tai nạn.
Tuy nhiên trong cả hai trường hợp trên thiệt hại còn phải tính đến lợi ích của người thứ ba gắn
liền với việc sử dụng, khai thác tài sản cùng với những chi phí hợp lý để ngăn ngừa và khắc phục thiệt
hại.
* Đối với thiệt hại về người.
- Trong trường hợp nạn nhân bị thương:
+ Các chi phí hựp lý cho công việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất
hoặc giảm sút như: chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác (thuốc men, dịch truyền,
chi phí chiếu chụp X quang).
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc bệnh nhân ( nếu có theo yêu cầu
của bác sĩ trong trường hợp bệnh nhân nguy kịch) và khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có
nghĩa vụ nuôi thường.
+ Khoản thu nhập bị mất hoặc giảm sút của người đó. Thu nhập bị mất được xác định trong

trường hợp bệnh nhân điều trị nội trú do hậu quả của tai nạn. Nếu không xác định được mức thu nhập
này, sẽ căn cứ vào mức lương tối thiểu hiện hành. Khoản thiệt hại về thu nhập này không bao gồm những
thu nhập do làm ăn phi pháp mà có.
+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần.
- Trong trường hợp nạn nhân bị chết.
+ Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc, cứu chữa cho người thứ ba trước khi chết (xác định tương tự
như ở phần thiệt hại về sức khoẻ).
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí do thủ tục sẽ không được thanh
toán).
+ Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải cung cấp nuôi dưỡng (vợ, chồng, con cái
đặc biệt trong trường hợp người thứ ba là lao động chính trong gia đình). Khoản tiền trợ cấp này được xác
định tuỳ theo quy định của mỗi quốc gia, tuy nhiên sẽ được tăng thêm nếu hoàn cảnh gia đình thực sự khó
khăn.
5.2. Tính toán mức bồi thường của người gây thiệt hại
+ Mức độ lỗi của người gây thiệt hại.
+ Thiệt hại thực tế của bên thứ ba.
Công thức xác định mức bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường = lỗi của người gây thiệt hại x thiệt hại của bên thứ ba.
Trường hợp cả hai bên đều gây thiệt hại và bên thiệt hại cùng có lỗi thì bên gây thiệt hại vẫn phải
bồi thường phù hợp với mức lỗi của họ. Nếu hai xe đâm nhau với mức lỗi ngang nhau thì bảo hiểm có
trách nhiệm bồi thường cho mỗi bên với mức bằng 50% thiệt hại của bên kia.
Trong trường hợp chủ xe còn có một bên thứ khác cùng có lỗi gây ra tai nạn đó:
Số tiền bồi thường = (lỗi của chủ xe + lỗi của chủ xe khác) x thiệt hại của bên thứ ba.
Việc bồi thường được tính theo thực tế thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu, nhưng số tiền
bồi thường tối đa không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Nếu hai xe cùng một chủ đâm và nhau và hai xe đều bị thiệt hại đồng thời gây thiệt hại cho
người đi đường thì phần thiệt hại của hai xe không phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm.
Nhưng phần thiệt hại của người đi đường lại phát sinh trách nhiệm dân sự do đó bảo hiểm sẽ bồi thường
theo thiệt hại thực tế.
- Nếu hai hay nhiều xe cùng gây thiệt hại cho một hoặc một số người thì các công ty bảo hiểm

phải liên đới bồi thường cho nạn nhân theo mức độ lỗi của họ gây ra.
Trách nhiệm bồi thường của mỗi bên = thiệt hại của nạn nhân x mức độ lỗi của từng bên.
Trường hợp tai nạn xảy ra hoàn toàn do chất liệu, kết cấu, khuyết tật của chủ xe hoặc lái xe gây ra
vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho dù họ không có lỗi.
5.3. Giải quyết bồi thường của công ty bảo hiểm
* Tiếp nhận và hoàn chỉnh hồ sơ.
Khi xảy ra tai nạn thuộc trách nhiệm bồi thường của công ty, nhà bảo hiểm phải hướng dẫn và
giúp chủ xe hoàn chỉnh hồ sơ đòi bồi thường, đồng thời chủ xe phải cung cấp cho nhà bảo hiểm giấy tờ
liên quan đến vụ tai nạn. Thông thường một bộ hồ sơ đòi bồi thường như sau:
- Tờ khai tai nạn của chủ xe.
- Giấy yêu cầu đòi bồi thường.
- Biên bản khám nghiệm xe.
- Bản kết luận điều tra tai nạn (nếu có).
- Biên bản khám nghiệm hiện trường.
- Chứng từ hoá đơn liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba.
- Chỉ rõ nhận dạng nạn nhân và xe của họ, cung cấp tên và địa chỉ những nhân chứng (nếu có).
- Bản sao các giấy tờ (giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe ).
Tất cả những tài liệu trên liên quan đến tổn thất, những khiếu nại của nạn nhân như: các hoá đơn
chứng từ viện phí, các chi phí y tế
Nhà bảo hiểm xác định số tiền bồi thường.
Căn cứ vào hồ sơ tai nạn đã được thu thập, căn cứ vào việc tính toán trách nhiệm bồi thường của
người được bảo hiểm, căn cứ vào hạn mức trách nhiệm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy
chứng nhận bảo hiểm, nhà bảo hiểm có thể tính toán bồi thường cho chủ xe theo yêu cầu của họ bồi
thường trực tiếp cho nạn nhân.
Số tiền bồi thường = thiệt hại thực tế của bên thứ ba x lỗi của chủ xe.
Trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi của rmột người nào đó sau khi bồi thường nhà bảo hiểm sẽ thay
mặt chủ xe khiếu nại người có lỗi này. Nhà bảo hiểm sẽ từ chối bồi thường nếu có bằng chứng chứng
minh được sự thông đồng gian lận giữa nạn nhân và người được bảo hiểm.
Việc bồi thường của nhà bảo hiểm được tiến hành trong một lần, tuy nhiên có những trường hợp
để giảm bớt những khó khăn về tài chính cho chủ xe, nhà bảo hiểm có thể cho chủ xe ứng trước một số

tiền bồi thường. Sau khi đã hoàn chỉnh hồ sơ, tính toán số tiền bồi thường cụ thể, nhà bảo hiểm sẽ trừ đi
số tiền mà chủ xe đã ứng trước đây.
Trường hợp bảo hiểm trùng, người được bảo hiểm có thể được quyền lợi từ các hợp đồng đã ký,
xong số tiền bồi thường không vượt quá mức trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm đối vơí
người thứ ba.
Ngoài ra nhà bảo hiểm có thể bồi thường trợ cấp tối đa không vượt quá 50% mức trách nhiệm của
chủ xe đã tham gia đối với những trường hợp xe không gây tai nạn có thể tham gia bảo hiểm nhưng
không thuộc phạm vi bảo hiểm như:
+ Lái xe không có bằng lái hợp lệ.
+ Xe chở quá trọng tải hoặc vượt quá số hành khách quy định
Nói chung, trách nhiệm của các công ty bảo hiểm là giúp đỡ các đơn vị, chủ xe có tai nạn xảy ra,
động viên thường xuyên có khen thưởng xứng đáng đối với những đơn vị thực hiện tốt công tác phòng
ngừa, hạn chế tổn thất. Đồng thời công ty bảo hiểm là người đảm bảo thanh toán, bồi thường chính xác
đầy đủ, kịp thời. Bảo hiểm luôn phối hợp cùng với các cơ quan chức năng thực hiện tuyên truyền giác
ngộ người tham gia bảo hiểm cũng như việc chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, thực hiện.


CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX-PJICO GIAI
ĐOẠN 1996-2000

I. Vài nét sơ lược về Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO
Thực hiện Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, ngày
15/6/1995 Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO, sự hội tụ của 7 thành viên sáng lập gồm:
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
+ Tổng Công ty Xăng Dầu Việt Nam
+ Công ty Tái Bảo hiểm Quốc gia
+ Tổng Công ty Thép Việt Nam
+ Công ty Vật tư và Thiết bị toàn bộ

+ Công ty Điện Tử Hà Nội
+ Công ty TNHH Thiết Bị An Toàn
Đã chính thức ra đời và tham gia thị trường bảo hiểm.
Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO ra đời trong nền kinh tế thị trường phát triển, PJICO trở thành
mẫu hình trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
PJICO ra đời cũng là lúc thị trường bảo hiểm phát triển mở rộng, đây là cơ hội lớn cho Công ty
PJICO phát triển và phát huy cơ hội. Với tổng số vốn ban đầu hoạt động là 31 tỷ đồng nay lên tới hơn 120
tỷ đồng, tổng doanh thu phí trong 6 năm (từ năm 1996-2000) đạt 514,84 tỷ đồng, đây là một kết quả đáng
ghi nhận của PJICO.
Với số vốn góp thì nguồn lực chủ yếu là huy động từ các cổ đông (số vốn góp của các cổ đông
chiếm 85,5%), còn lại là huy động từ các đơn vị cá nhân, phần lớn là các cán bộ nhân viên của các cổ
đông sáng lập.
Trong 6 năm hoạt động với tinh thần quan tâm đến lợi ích của khách hàng và sự tồn tại phát triển
lâu dài của Công ty. Nên đến nay Công ty đã có những bước phát triển vượt bậc với doanh thu phí bình
quân đạt 3,9%, lãi đầu tư tăng dần qua các năm, lãi cổ tức duy trì ở mức độ 1,2% tháng cao hơn lãi suất
ngân hàng. Từ chỗ khách hàng của Công ty chủ yếu là các cổ đông, đến nay đã có hàng nghìn khách hàng
thuộc tất cả cả chính sách ngành nghề, lĩnh vực, các thành phần kinh tế tham gia bảo hiểm tại PJICO.
Hoạt động kinh doanh của Công ty bao gồm các nghiệp vụ bảo hiểm:
+ Nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải
+ Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải
+ Nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản
+ Nghiệp vụ tái bảo hiểm
+ Ngoài ra còn các hoạt động khác thực hiện liên quan tới bảo hiểm như công tác giám định, điều
tra, đầu tư, tín dụng
Với mạng lưới 200 đại lý, 9 chi nhánh và 5 Văn phòng đại diện hoạt động rộng trên 33 tỉnh, thành
phố (Sài Gòn, Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An, Khánh Hoà, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế,
Quảng Bình). Trụ sở chính của Công ty ở tại 22 Láng Hạ, 5 văn phòng đại diện ở các quận huyện (Cầu
Giấy, Gia Lâm, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng).
Công ty PJICO có mặt trên thị trường bảo hiểm đánh dấu bước khởi đầu cho sự phát triển về
Công ty cổ phần Nhà nước và sự trưởng thành có sự hoà nhập với thị trường chung bảo hiểm Việt Nam.

PJICO phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt, giúp cho khách hàng có sự lựa chọn để mua bảo hiểm theo
yêu cầu chính đáng của mình.
II. Thực tế công tác triển khai
Tuy mới được thành lập trên 6 năm nhưng PJICO đã vươn lên đứng thứ 4 với thị phần nghiệp vụ
bảo hiểm PJICO ngày một tăng
+ Bảo Việt chiếm khoảng 53% thị phần bảo hiểm
+ Bảo Minh chiếm khoảng 26% thị phần bảo hiểm
+ PVIC chiếm khoảng 8% thị phần bảo hiểm
+ PJICO chiếm độ khoảng 5,6% thị phần bảo hiểm.
+ Các Công ty khác 7,4% thị phần bảo hiểm.
Với sức mạnh nhỏ bé và nguồn tài chính hạn hẹp nhưng kỹ thuật đến với PJICO ngày càng nhiều
bằng sự cạnh tranh đầy thuyết phục của đội ngũ nhân viên có nhiều kinh nghiệm. Số lượng khách hàng
tăng dẫn đến tổng doanh thu các nghiệp vụ cũng tăng theo
Bảng 2: Chỉ tiêu doanh thu bộ phận hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO
thời kỳ 1996 - 2000
Chỉ tiêu
Năm
1996 1997 1998 1999 2000
Doanh thu B H con
người (tr.đ)
24.160 35.105 42.698 45.253 48.253
Doanh thu B H TNDS
(tr.đ)
16.029 24.115 31.410 32.160 36.160
Doanh thu B H tài sản
(tr.đ)
21.130 33.055 35.087 38.144 41.144
Doanh thu khác 1.075 1.805 1.445 2.433 3.443
Tổng 62.400 94.080 111.360 118.000 129.000
Nguồn: Theo báo cáo tổng kết của PJICO năm 1996-2000

Qua bảng 2 ta thấy rằng, tổng doanh thu của Công ty cũng như các bộ phận của từng nghiệp vụ
khác tăng dần qua các năm. Trong tổng doanh thu nghiệp vụ thì nghiệp vụ bảo hiểm con người là lớn
nhất, mặc dù nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chưa thực sự chiếm phần lớn trong tổng doanh thu
nhưng nó đóng góp một phần không nhỏ trong tổng doanh thu nghiệp vụ.
So với các Công ty khác thì PJICO là một trong những Công ty có nghiệp vụ BHTNDS của chủ
xe cơ giới đối với người thứ ba mạnh nên mới duy trì ở mức doanh thu nghiệp vụ tăng liên tục qua các
năm cụ thể năm 1996 tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc là 62,4 tỷ đồng đến năm 2000 lên tới 129 tỷ đồng,
do PJICO có những thuận lợi sau:
- Là công ty ra đời sau nên đã thích ứng được với những thông tin, trang thiết bị hiện đại, cập
nhật và tiếp cận được thị trường nhanh. Đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình, có trình độ đại học.
- Khách hàng của PJICO vừa là khách hàng trong cổ đông và ngoài cổ đông (trong đó khách hàng
tự có của Công ty đã chiếm một số lượng lớn tham gia đều đặn hàng năm tại Công ty PJICO. Đây là điểm
mạnh trong cạnh tranh thị trường với các Công ty mạnh Bảo Việt, Bảo Ninh ).
- Ngoài những thuận lợi chủ quan là những thuận lợi khách quan như sự bùng nổ về số lượng xe
cơ giới. Từ năm 1999 đến năm 2000 bình quân hàng năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 16,8%; tuy
mức tăng vè số phương tiện cơ giới tham gia lưu hành lớn nhưng mức cơ giới hoá lại thấp. Đó là nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng tai nạn giao thông ngày một tăng, thiệt hại xảy ra cho chính chủ xe cơ giới
và người thứ ba.
Qua trên cho thấy Công ty PJICO đang đứng trước một tiền đồ mở rộng với nhiều hướng bước.
Vậy để đi con đường nào thì đó còn là cả quá trình khó khăn đòi hỏi công ty phải có định hướng sao cho
phù hợp.
1. Công tác khai thác
Đây là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm, khâu này quyết định đến sự
thành công hay thất bại của công ty trong kinh doanh nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba. Thực chất của khâu khai thác là vận vận động tuyên truyền cho các chủ xe cơ giới thấy
được sự cần thiết cũng như trách nhiệm của bản thân khi xe lưu hành và gây thiệt hại cho người khác.
PJICO đã đề ra khẩu hiệu cho hoạt động khai thác đó là “năng động, tích cực, khoa học, nhanh và
tôn trọng lợi ích của khách hàng hay cũng như cộng tác viên”, với phương châm “ chữ tín làm trọng, coi
trọng lợi ích của khách hàng là trên hết, nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng phục vụ khách
hàng”. Ngay từ khi thành lập, công ty đã không ngừng mở rộng địa bàn khai thác, đặt nhiều văn phòng

đại diện ở các tỉnh, thành phố lớn, hàng trăm tổng đại lý được mở rộng ở các khu vực đông dân cư, nhiều
người qua lại thuận tiện cho việc mua bán bảo hiểm để thực hiện khai thác tốt nhất. Triệt để nhằm bám sát
khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận và tham gia bảo hiểm tại Công ty. Phối hợp với các cơ
quan hành chính như Bộ tài chính, Bộ giao thông vận tải, Bộ công an, cảnh sát cùng tiến hành triển khai
nghiệp vụ.
Sau khi ra đời Nghị định 115 CP/1997 “Bàn về phạm vi bảo hiểm và trách nhiệm bảo hiểm”,
Nghị định này quy định phạm vi bảo hiểm rộng hơn so với Nghị định 30 của Hội đồng bộ trưởng, ngoài
BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, chủ xe còn phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe đối với hàng hoá trở trên xe theo hợp đồng bảo hiểm vận chuyển hành khách.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm
- Bổ sung quy định về quyền lợi của chủ xe cơ giới.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của các bộ và Uỷ Ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nhằm hướng dẫn thi hành và phối hợp triển khai thực hiện.
- Bổ sung các quyết định về xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm chế độ bảo hiểm bắt buộc
nhằm đảm bảo thi hành Nghị định trong thực tế triển khai.
Kết quả đạt được qua tình hình thực tế triển khai theo Nghị định 115 CP/1997, sau 6 năm hoạt
động trên thị trường bảo hiểm cạnh tr anh gay gắt PJICO vẫn đứng vững và hoạt động với hiệu quả cao cụ
thể:
1.1. Về mặt số lượng xe cơ giới
Số lượng xe cơ giới tham gia vào lưu thông qua các năm tăng dần, năm 2000 lượng xe cơ giới
tham gia lưu thông là nhiều nhất đặc biệt là xe máy tăng 150% (thêm 50%). Số xe tham gia bảo hiểm
cũng như tỷ lệ xe tham gia bảo hiểm tăng dần từ năm 1996 đến năm 2000 (năm 1996 là 0,51%, đến năm
2000 là 0,685%), còn về số tuyệt đối năm 1996 số xe tham gia bảo hiểm là 23.418 xe, năm 2000 số xe
tham gia bảo hiểm là 41.420 xe.
Thực tế lượng xe máy trong lưu thông gấp gần 12 lần xe ô tô nhưng lượng xe máy lại tham gia
bảo hiểm ít hơn xe ô tô rất nhiều vì nước ta chưa bắt buộc được trực tiếp xe máy tham gia bảo hiểm trách
nhiệm dân sự mà chỉ bắt buộc được với ô tô (nhưng với số lượng chưa triệt để vẫn còn rất thấp).
Năm 1997, công ty đã thu hút được 33.426 chiếc xe tăng 10.008 chiếm 0,61% tổng lượng xe lưu
hành trên toàn quóc tăng 42,74% so với năm 1996.
Qua đây ta thấy được sự vươn lên của PJICO trên thị trường bảo hiểm, từ một công ty mới thành

lập nhưng vẫn đủ sức để cạnh tranh với các công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt, Bảo Minh đang hoạt
động mạnh trên thị trường bảo hiểm.
Đến năm 1998 số lượng xe tham gia bảo hiểm so với năm 1997 tăng 13,4%, năm 2000 tăng chậm
khoảng 8,84%. Đây là thời kỳ tăng chậm nhất kể từ khi công ty triển khai nghiệp vụ.
Nhận xét chung tình trạng cả nước so sánh với PJICO trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân
sự. Mặc dù đã có những chuyển biến tốt trong khâu khai thác bảo hiểm xe cơ giới trong vả nước nói
chung và PJICO nói riêng nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng bảo hiểm.
* Đối với xe ô tô các loại:
Dựa trên số liệu lượng ô tô các loại trên toàn quốc từ năm 1996 đến năm 2000 tăng xấp xỉ 9%
năm.
Năm 1996 cả nước có 386.946 xe đến năm 2000 là 750.000 xe.
- Số xe ô tô được bảo hiểm trong cả nước năm 1996 là 86.998 xe trong khi tham gia tại PJICO đã
là 14.796 xe chiếm gần 6% số lượng xe tham gia bảo hiểm trên toàn quốc.
- Số xe ô tô được bảo hiểm trong cả nước năm 1999 là 167.625 xe, trong khi tham gia tại PJICO
là 24/360 xe chiếm gần 7% số lượng xe tham gia bảo hiểm trên toàn quốc.
- Số xe ô tô được bảo hiểm trong cả nước năm 2000 là 199.630 xe, trong khi tham gia tại PJICO
là 26.660 xe chiếm gần 13,3% số lượng xe tham gia bảo hiểm trên toàn quốc.
Tỷ lệ xe ô tô được bảo hiểm bình quân trong giai đoạn này (1996-2000) mới chỉ đạt gần 35%
tổng số xe ôtô các loại.
* Đối với xe máy:
Số lượng xe máy trên toàn quốc từ năm 1996 đến năm 2000 tăng bình quân gần 15,5% năm.
Năm 1996 trên toàn quốc có 4.208.247 xe máy, đến năm 1999 lên tới 5.610.884 xe máy các loại.
Số xe máy trong cả nước được bảo hiểm năm 1996 trên 900.000 chiếc thấp hơn năm 1995 nhưng cao hơn
so với năm 1997, đến năm 2000 chỉ còn 678.915 là 8.622 chiếc, năm 2000 là 18.778 chiếc tăng trên 10%
số lượng xe tham gia bảo hiểm tại PJICO.
Tỷ lệ xe máy được bảo hiểm bình quân của cả nước trong giai đoạn 1996 đến 2000 mới chỉ đạt
khoảng 18% tổng số xe máy các loại, tỷ lệ xe máy được bảo hiểm thấp dần qua các năm:
Năm 1996 là 22,58%; năm 1997 là 16,6%; năm 1998 là 11,6%; năm 2000 chỉ còn 10,6%.
BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình bảo hiểm bắt buộc theo Nghị định
số 115 CP/1997 ngày 17/12/1997 của Chính Phủ ở Công ty PJICO số lượng xe máy và ô tô tham gia bảo

hiểm tại Công ty ngày một tăng, còn trong cả nước số xe ô tô tham gia bảo hiểm 2000 giảm; số lượng xe
máy tham gia bảo hiểm cũng giảm cho đến năm 2000 chỉ còn 10,6T, chứng tỏ việc khai thác ở các Công
ty bảo hiểm khác chưa được tốt. Hiện cho đến năm 2001 còn tới 5,3 triệu xe máy chưa mua bảo hiểm.
* Nguyên nhân làm ảnh hưởng với công tác khai thác của PJICO
- Xét trên giác độ chủ quan là:
+ Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO chưa nhạy bén, chưa thực sự đổi mới phương thức phục vụ
để phù hợp cơ chế thị trường đặc biệt là các dịch vụ có tính chất xã hội cao.
+ PJICO chưa thực sự hợp tác với các công ty bảo hiểm khác để cùng nhau thành lập hội liên hiệp
bảo hiểm tương hỗ lẫn nhau để thực hiện Nghị định 115 CP, mãi cho đến cuối năm 2000 (10/10/2000) thì
hiệp hội bảo hiểm gồm có (PJICO, PTI, bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo Việt họp bàn về việc
thực hiện Nghị định 115 CP).
+ PJICO chưa biết tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các cấp, các ngành có liên quan trong việc tạo
điều kiện thuận lợi để khai thác hết tiềm năng bảo hiểm.
- Trình độ nghiệp vụ khai thác của nhân viên công ty còn yếu, Công ty PJICO chưa quan tâm
đúng mức đến việc khai thác nên chưa thuyết phục được người tham gia bảo hiểm có hiệu quả.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Đứng về phía người tham gia bảo hiểm thì tuyệt đại đa số là không tự giác tham gia bảo hiểm
(ý thức của người tham gia bảo hiểm (chủ xe) vẫn chưa cao), các chủ xe luôn muốn trốn tránh việc mua
bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở các công ty bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng.
+ Do sự hiểu biết về trách nhiệm bản thân của chủ xe cơ giới còn hạn chế, sự hoài nghi về việc
được hưởng quyền lợi chưa cao.
+ Cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc mua bảo hiểm chưa rõ ràng, chưa kết hợp được với công an
giao thông và các ngành có liên quan.
Những nguyên nhân chủ quan và khách quan đã dẫn tới hậu quả làm cho khâu khai thác nghiệp
vụ kém đi.
1.2. Về doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới
Theo số liệu bảng phần (4) cho thấy tốc độ tăng tỷ lệ xe máy tham gia bảo hiểm nhanh hơn tốc độ
tăng tỷ lệ ô tô tham gia bảo hiểm. Cụ thể là năm 1997 tỷ lệ xe tăng 38,09%, năm 2000 tăng 3,4%. Nhưng
do phí bảo hiểm bình quân/đầu xe máy thấp hơn rất nhiều so với phí bảo hiểm bình quân/đầu ô tô. Các
chủ xe máy tham gia bảo hiểm phần lớn là do bắt buộc nên không tham gia bảo hiểm với mức trách

nhiệm cao. Trong khi đó chủ xe ô tô tham gia bảo hiểm với mức trách nhiệm cao và có tính tự nguyện bởi
họ ý thức được phần nào “nguồn nguy hiểm cao độ” do ô tô gây ra cho người khác.
Do vậy nguồn phí thu được từ ô tô đem lại nhiều hơn, vì có sự tăng giảm không đồng đều giữa số
ô tô và số xe máy tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự nhưng số phí thu được từ nghiệp vụ này vẫn tăng
dần qua cac năm.
Năm 1996 phí thu được từ nghiệp vụ BHTNDS là 2,415 tỷ đồng
Năm 1997 phí thu được từ nghiệp vụ BHTNDS là 3,5 tỷ đồng
Năm 199 8 số phí thu được từ nghiệp vụ này là 3,76 tỷ đồng
Năm 1999 số phí thu được là: 3,909 tỷ đồng
Năm 2000 phí thu được từ nghiệp vụ BHTNDS là 4,21284 tỷ đồng
Biểu 4: Tình hình thực hiện kế hoạch thu phí BHTNDS tại Công ty cổ phần
bảo hiểm PJICO
Năm
Số xe tham gia BH
(chiếc)
Phí B.H kế hoạch
(triệu đồng)
Phí B.H thực thu (triệu
đồng)
Tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch (%)
1996 23.418 2.015 2.414,99 119,8
1997 33.426 2.688 3.449,25 128,32
1998 34.215 2.880 3.760,04 130,6
1999 41.240 3.500 3.909,54 112,0
2000 43.350 3.850 4.212,84 109,4
(Nguồn: Theo số liệu thống kê của PJICO giai đoạn 1996-2000)
Với tinh thần và khả năng thực hiện tốt của cán bộ nhân viên luôn lấy khai thác làm nhiệm vụ
hàng đầu để bảo toàn vốn cho Công ty PJICO luôn vượt kế hoạch đề ra về doanh thu phí bảo hiểm gốc,
đem lại hiệu quả kinh doanh và ổn định cuộc sống cho cán bộ công nhân viên công ty.

Nhận xét bảng 4:
Năm 1996 đến năm 2000 số xe tham gia bảo hiểm tại công ty ngày một tăng từ 23.418 chiếc lên
43.350 (năm 2000) làm cho lượng phí thu được cũng tăng lên và vượt kế hoạch.
- Năm 1996 công ty thu được 2.414,99 triệu đạt 119,8% kế hoạch, vượt kế hoạch 398,99 triệu
đồng.
- Năm 1997 công ty thu được 3.449,25 triệu đồng đạt 128,32% kế hoạch, vượt kế hoạch là 761,25
triệu đồng.
- Năm 1998 công ty thu được 3.760,04 triệu đồng đạt 130,6% kế hoạch, vượt kế hoạch 880,04
triệu đồng.
- Năm 1999 công ty thu được 3.909,04 triệu đạt 112% kế hoạch, vượt kkf là 409,54 triệu.
- Năm 2000 công ty thu được 4.212,84 triệu đạt 109,4% kế hoạch, vượt kế hoạch là 362,84 triệu.
Thông qua bảng 4 trên thì tình hình thực hiện kế hoạch thu phí là một vấn đề mà công ty đang
phải xem xét trong thời gian tới, bởi số lượng xe cơ giới tại Việt Nam tham gia giao thông ngày càng
nhiều, thì lượng xe tham gia bảo hiểm sẽ nhiều càng tạo ra doanh thu phí cao cho các công ty bảo hiểm,
cũng như PJICO.
Đối với PJICO thì nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba chưa phải là
nghiệp vụ chính nhưng nó đóng góp một phần doanh thu không nhỏ vào trong doanh thu bảo hiểm gốc
toàn công ty.
Biểu 5: Tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Năm
Doanh thu nghiệp vụ
(tr.đ)
Doanh thu bảo hiểm gốc toàn
Công ty (tr.đ)
Tỷ trọng doanh thu
BHTNDS (%)
1996 2.414,99 62.400 3,87
1997 3.449,25 94.080 3,67
1998 3.760,04 111.360 3,38
1999 3.909,54 118.000 3,33

2000 4.212,84 129.000 3,327
(Nguồn: Theo báo cáo thống kê của Công ty PJICO 1996-2000)
Qua bảng 5 tỷ trọng doanh thu nghiệp vụ thấy được tỷ lệ trong doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba trong tổng doanh thu từ phí bảo hiểm gốc của
toàn công ty giảm dần qua các năm từ 3,87 (7 năm 1996) xuống còn 3,327% (năm 2000) nhưng về số
tuyệt đối thì doanh thu nghiệp vụ này vẫn tăng.
- Năm 1996 doanh thu nghiệp vụ này là: 2,415 tỷ
- Năm 1997 doanh thu nghiệp vụ này là: 3,4993 tỷ
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ này là: 3,6704 tỷ
- Năm 1998 doanh thu nghiệp vụ này là: 3,90954 tỷ
- Năm 2000 doanh thu nghiệp vụ này là: 4,21284 tỷ
Một lần nữa ta lại khảng định rằng khâu khai thác với mục tiêu là giành được khách hàng về phía
công ty là mục tiêu hàng đầu. Vì đây là khâu quyết định với sự tồn tại cũng như sự phát triển lâu dài của
công ty, cho nên việc vận động tuyên truyền được nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân
sự chủ xe cơ giới là càng tốt, đó cũng là quy luật số động bù số ít. Qua những con số thống kê của các
năm về số lượng xe cơ giới khai thác được của Công ty PJICO cho thấy số xe tham gia bảo hiểm còn
thấp, nhất là BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Đây cũng là ngyên nhân ảnh hưởng không
nhỏ tới doanh thu phí công ty.
- Do sự cạnh tranh gay gắt trong bảo hiểm giữa các công ty lớn nhỏ nên đã đẩy các Công ty bảo
hiểm hạ phí xuống một cách tuỳ ý, không theo ạ chung của Bộ tài chính làm cho PJICO rơi vào tình thế bị
động, tiềm lực tài chính cũng như kinh nghiệm trong kinh doanh của PJICO cũng bị hạn chế rất nhiều,
nên việc cạnh tranh hay thu hút khách hàng chưa đạt hiệu quả cao.
- Ngoài ra mức phí mà Công ty áp dụng chưa linh hoạt, chưa phù hợp với khẳ năng tài chính của
chủ xe cơ giới.
2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất
Từ khâu khai thác đến giải quyết bồi thường của Công ty luôn trong tình trạng bấp bênh, Công ty
bảo hiểm nào cũng muốn chi thì ít nhưng mà thu thì nhiều, tối thiểu ra thì thu phải đủ bù chi. Đó là
nguyên lý tồn tại phát triển của bất kỳ một Công ty nào trên thị trường. Vậy thì Công ty PJICO cần phải
có một biện pháp hữu hiệu để né tránh tình trạng xảy ra nhiều tổn thất, trong kinh doanh bảo hiểm thì
công tác đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh mà còn vì sự

an toàn và trật tự chung của xã hội, đem lại sự ổn định về tài chính cho người thứ ba và chủ xe cơ giới.
Đây là một công tác không thể thiếu được trong quá trình hoạt động kinh doanh của bất kỳ Công
ty bảo hiểm nào. Hàng năm Công ty luôn theo dõi thống kê tình trạng tổn thất và tìm ra nguyên nhân gây
tai nạn trên cơ sở đó để nghiên cứu đề suất những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm chi xuống
mức thấp nhất khả năng tổn thất xảy ra.
Cụ thể công tác đề phòng hạn chế tổn thất của Công ty như là:
- Xây dựng các đường lánh nạn ở một số đoạn đường nguy hiểm, cho dựng các Phanô, áp phíc
ở các đèo Măng Găng, Cù Mông, đèo Hải Vân

×