Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Tài liệu Bài giảng internet và intranet pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 127 trang )

Bài giảng internet và intranet
1
Chương I Giới thiệu Internet và Intranet 5
1.1. Kiến trúc logic mạng máy tính 5
1.1.1. Khái niệm cơ bản về kiến trúc máy tính 5
1.1.2. Kiến trúc Peer-to-Peer và các hệ thống tính toán 6
1.1.3 Kiến trúc khách/chủ cổ điển 7
1.1.4. Kiến trúc khách chủ dựa Web 12
1.2. Nền tảng của các Công nghệ mạng 14
1.2.1. Sự tương tác với Webserver 14
1.2.2. Xử lý thông tin phân tán trên nền tảng cả các chương trình dễ biến đổi 18
1.2.3. Truy xuất tới cơ sở dữ liệu quản hệ 25
Chương II Ngôn ngữ HTML 30
2.1 Khái niệm về ngôn ngữ HTML 30
2.2 Lập trình Web với ngôn ngữ HTML 30
2.2.1 Các thành phần cơ bản của html 30
2.2.2 Cấu trúc tệp HTML 31
2.3 Các tag cơ bản trong HTML 31
2.3.1. Thẻ giải thích 31
2.3.2 Các thẻ định dạng văn bản 31
2.3.4 Một số kí tự đặc biệt trong HTML 34
2.3.5 Các tag dùng thiết kế bảng 35
2.3.6 Các tag tạo Frame 36
2
2.3.7 Các tag dùng tạo Form 36
Chương III Cascading style sheets 38
2.1 Căn bản về CSS (Cascading style sheets) 38
2.2 Cú pháp CSS 38
2.2.1 Phần tử chọn – Seclector 38
2.2.2 Các phần tử lựa chọn lớp giả động 42
2.2.3 Thuộc tính, miêu tả, qui tắc 44


2.3 Bổ sung CSS vào tài liệu HTML 47
2.4. Các mô hình trực quan 49
Chương IV Ngôn ngữ kịch bản Javascript 51
4.1. Giới thiệu ngôn ngữ kịch bản Javascrip 51
4.2. Ngôn ngữ kịch bản JavaScript 53
4.2.1 Kiểu dữ liệu 53
4.2.2 Khai báo biến 53
4.2.3. Các toán tử JavaScript 54
4.2.4. Các câu lệnh rẽ nhánh và lặp 57
4.2.3. Các đối tượng trong JavaScript 63
4.2.4. Hàm 69
4.2.5. Lập trình hướng đối tượng trong JavaScript 71
4.2.5.1 Tạo một đối tượng 72
4.2.6. Lập trình với các đối tượng của trình duyệt 73
4.2.7. HTML Forms 79
Chương V Active Server Pages 92
5.1.Giới thiệu công nghệ ASP 92
5.2 Cú pháp và thao tác cơ bản 92
5.2.1. Cách chèn các đoạn mã VBScript vào trong trang web 92
5.2.2. Chú thích 93
5.2.5. Các toán tử 94
5.2.4. Hằng và biến 94
5.3. Các câu lệnh 95
5.3.1. Lệnh rẽ nhánh 95
5.3.2. Lệnh lặp xác định 96
5.3.3. Vòng lặp không xác định 97
5.4 Hàm và thủ tục 99
5.4.1. Hàm 99
5.4.2. Thủ tục 99
5.4.3. Ví dụ sử dụng hàm và thủ tục (Giaỉ phương trình bậc 2 một ẩn số) 99

5.4.2. MỘT SỐ HÀM THƯỜNG DÙNG TRONG VBSCRIPT 100
5.4.3. ĐOẠN MÃ DÙNG CHUNG 102
5.5. Tệp cấu hình GLOBAL.ASA 103
5.5.1. Các sự kiện 103
5.5.2. Khai báo đối tượng 103
5.5.3. Một file cấu hình Global.asa đơn giản 104
5.5.2. TẬP HỢP (COLLECTION) TRONG ASP 104
5.5.2.1. Khái niệm 104
5.5.2.2. Cách truy cập các phần tử trong tập hợp 105
5.6. Xử lý các FORM dữ liệu 106
5.6.1. Mở đầu 106
5.6.2. Sử dụng phương thức GET 106
5.6.3. Sử dụng phương thức POST 107
5.7. Các đối tượng cài sẵn trong ASP 109
3
5.7.1. Các đối tượng ASP 109
5.7.2. Đối tượng REQUEST 109
5.7.3. Đối tượng RESPONSE 112
5.7.4. Đối tượng APPLICATION 113
5.7.5. ĐỐI TƯỢNG SESSION 115
5.7.6. ĐỐI TƯỢNG SERVER 117
5.8. COOKIES 120
5.8.1. Khái niệm COOKIES 120
5.8.2. Thiết lập COOKIES 120
5.8.3. Lấy giá trị của COOKIES 120
5.8.4. Thư mục COOKIES 120
5.8.5. Kiểm tra xem COOKIES có dùng khóa không 121
5.9 Giới thiệu ADO và các kết nối cơ sở dữ liệu 121
5.9.1 Giới thiệu 121
5.9.2 Kế nối với cơ sở dữ liệu 121

5.9.3 Các đối tượng của ADO 122
4
Chương I Giới thiệu Internet và Intranet
1.1. Kiến trúc logic mạng máy tính
1.1.1. Khái niệm cơ bản về kiến trúc máy tính
Với sự phát triển không ngừng về qui mô và độ phúc tạp của các mô hình mạng máy tính đã
dẫn đến sự phức tạp trong công nghệ vận hành của các mạng này, và hiểu được sự phức tạp
này là yếu tố cần thiết cho phép tổ chức bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin. Công
nghệ vận hành của bất kì hệ thống nào đều phụ thuộc vào kiến trúc miêu tả các thành phần
của công nghệ, các chức năng và mỗi quan hệ của chúng.
Rất khó để hiểu và phân tích kiến trúc của hệ thống phúc tạp một cách trọn vẹn. Để giảm độ
phức tạp của sự phân tích, một kiến trúc sẽ được cân nhắc ở các mức khác nhau. Điều này rất
có ích để xem xét mỗi mức với các chức năng trừu tượng ẩn đi hiết tiết của sự thực thi các
thành phần của kiến trúc.
Khi nghiên cứu kiến trúc của các mạng máy tính, việc phân biệt giữa những kiến trúc vật lý
và kiến trúc logic rất cần thiết. Kiến trúc vật lý miểu tả cấu trúc, chức năng và những mối
quan hệ trung gian giữa các giao thức thực thi tại tầng dưới và các tầng giữa trong mô hình
phân lớp chuẩn của sự tương tác mạng (mô hình tham chiếu OSI, một cách cụ thể giao thức
của tầng vật lý, liên kết dữ liệu, mạng, giao vận và tầng phiên). Vì vậy, kiến trúc vật lý không
chỉ phụ thuộc vào kiến trúc, chức năng và mối quan hệ qua lại của phần cứng mạng, mà còn
phụ thuộc sự thực thi phần mềm của các giao thức tại tầng thấp và tầng giữa của mô hình OSI.
Để có thể phân tich chi tiết về kiến trúc vật lý, cần phải xem xét tại tất cả các mức, tương ứng
với tầng vật lý, liên kết dữ liệu, mạng, giao vận và phiên của mô hình phân lớp chuẩn.
Hình. 1.1: Mối quan hệ giữa lớp OSI và kiểu kiến trúc mạng
5
Kiến trúc logic miêu tả cấu trúc, nhiệm vụ và mối quan hệ của phần mềm thực thi các giao
thức ở tầng trên, đặc biệt các giao thức ở tầng trình diễn và tầng ứng dụng. Kiến trúc này
mang lại công nghệ tích hợp và hợp nhất của mạng máy tính và có thể xây dựng các mức trừu
tượng khác nhau của kiến trúc vật lý.
Hiện nay, có một vài loại kiến trúc mạng logic như sau:

 Kiến trúc ngang hàng
 Kiến trúc khách/chủ cổ điển
 Kiến trúc khách chủ dựa vào Web
Sự xuất hiện của các mô hình đều liên quan đến các giai đoạn khác nhau của sự phát triển hệ
thống mạng máy tính. Sự lựa chọn chính xác mô hình cho kiến trúc logic của mạng máy tính
cho phép nhà thiết kế mạng đáp ứng những yêu cầu về tình hiệu quả, độ tin cậy bảo vệ những
nguồn tài nguyên mạng, sự uyển chuyển thiết lập mạng và hơn nữa đó là chi phí nhỏ nhất cho
việc xây dựng và quản trị.
1.1.2. Kiến trúc Peer-to-Peer và các hệ thống tính toán
Bước đầu tiên trong sự tiến triển các hệ thống tính toán xuất hiện từ năm 1940 đến 1970,và
trong thực tế, nó đã quay trở lại ngay sau khi chiếc máy tính đầu tiên được phát minh ra.
Theo nguyên tắc, mỗi một hệ thống tính toán tại thời điểm này đều dựa vào việc sử dụng chia
sẻ của máy tính đa người dùng, khi mà máy tính chưa xuất hiện. Kiến trúc của những hệ
thống tính toán này, vận hành trong chế độ tự trị, được tập trung với các thiết bị đầu cuối kết
nối đến máy tính trung tâm (Hình. 1.2).
Hình. 1.2: Kiến trúc đầu tiển của hệ thống tính toán
Tuy nhiên, nếu các máy tính được kết nối bởi các liên kết truyền thông để tạo thành một
mạng, mạng như vậy có một kiến trúc ngang hàng, trong đó không có các máy tính tận hiến
cung cấp toàn bộ nguồn tài nguyên của chúng cho các máy tính khác trong mạng sử dụng
chung.
Vì vậy, kiến trúc tập trung thuộc về danh mục của một hệ thống tính toán tự trị dựa trên việc
sử dụng chia sẻ một máy tính đã người dùng, trong khi đó kiến trúc ngang hàng thuộc về danh
mục mạng máy tính bao gồm các máy tính có vai trò như nhau, không tồn tại máy tính tận
hiến cấp nguồn tài nguyên của chúng cho việc sử dụng chung.
6
Trong kiến trúc tập trung, tất cả các nguồn tài nguyển của hệ thống tính toán, bao gồm thông
tin, được tập trung trong máy tính trung tâm, được biết như là máy tính lớn (máy tính lớn là
một thành phần tập trung của hệ thống máy tính). Các thiết bị đầu cuối được kết nối đến máy
tính tập trung bằng cáp được sử dụng như phương tiện chính truy cập đển những nguồn tài
nguyên thông tin. Vì một thiết bị đầu cuối là một thiết bị tương đối đơn giản, nó không đòi

hỏi bất kì thao tác đặc biệt nào để thiết lập hay yêu cầu cấu hình phần mềm được thực hiện
bởi người dùng cuối, khi mà không có phần mềm được lưu trữ trong thiết bị đầu cuối. Việc
điều khiển các thiết bị đầu cuối được thiết lập chủ yếu (cetrally) từ máy tính lớn, và tất cả
thiết bị đầu cuối đều có cũng kiểu. Vì vậy, đảm bảo được chương trình chạy trên một thiết bị
đầu cuối bất kì có thể chạy trên tất cả các thiết bị đầu cuối trong cùng một cách.
Về mặt lưu trữ dữ liệu và bảo mật xử lý dữ liệu, sự thuận lợi chính của kiến trúc tập trung đó
là mối quan hệ đơn giản của việc xây dựng và quản trị hệ thống bảo mật thông tin. Điều này
dẫn tới sự tập trung nguồn tài nguyên, vì điều đó mang lại sự dễ dàng để bảo vệ rất nhiều đối
tượng nếu những đối tượng này được xác định ở một nơi hơn là chúng được phân bố ở những
vị trí khác nhau
Mặc dù có nhiều thuận lợi, những hệ thống tính toán đầu tiên có số điều hạn chế như thiếu sự
uyển chuyển hệ thống, không thuận lợi sử dụng đối với người sử dụng cuối và chi phí cao.
Khi sử dụng những hệ thống tính toán với kiến trúc tập trung bắt đầu mất dần đi tầm quan
trọng, mạng ngang hàng trở nên phổ biến hơn, bởi vì chi phí của các mạng này khá thấp. Tuy
nhiên, các mạng ngang hàng hiện nay kết nối các PC hơn nhưng máy tính đa người dùng. Vì
vậy, một thuộc tính chính của mạng ngang hàng đó là thiếu vắng các máy tính tập trung cung
cấp nguồn tài nguyên của chính nó cho việc sử dụng chung.
Những nhược điểm quan trọng của những mạng ngang hàng đó là sự thực thị, bảo mật và sự
an toàn ở mức thức của chúng, cũng như sự phức tạp trong quản trị. Thêm vào đó, những
nhược điểm này tăng lên khi số lượng các máy tính trong mạng tăng. Vì vậy, kiến trúc mạng
ngang hàng thích hợp cho việc kết nối số lượng máy tính ít với yêu cầu về sự an toàn và khả
năng xử lý dữ liệu thấp.
1.1.3 Kiến trúc khách/chủ cổ điển
Những nhược điểm của hệ thống máy tính tập trung và các mạng máy tính ngang hàng gần
đây đã được loại bỏ bởi cấu trúc của các hệ thống máy tính dựa trên kiến trúc khách/chủ. Kiến
trúc này xuất hiện từ khoảng năm 1980, đánh dấu giai đoạn 2 trong tiến trình công nghệ tính
toán. Đặc trưng của của giai đoạn này là sự phân quyền kiến trúc của hệ thống máy tính tự trị
và sự tương kết của chúng trong các mạng máy tính toàn cầu.
Kiến trúc phân quyền kết hợp với những hệ thống tính toán đầu tiên có thể là kết quả của sự
xuất hiện các máy tính cá nhân, khác với các thiết bị đầu cuối đơn, những máy tính cá nhân có

thể thực hiện rất nhiều các chức năng mà trước đây do máy tính trung tâm đảm nhiệm. Kết
quả của sự phân quyền này là có thể tạo nên các hệ thống máy tính toàn cầu hoặc cục bộ phân
tán bao gồm các máy tính cá nhân và các máy tính cung cấp tài nguyên của nó cho các máy
tính khác trong mạng dùng chung. Các máy tính cung cấp tài nguyên của nó được gọi là máy
chủ còn những máy tính sử dụng tài nguyên được chia sẻ gọi là máy khách. Theo đó kiến trúc
hệ thống máy tính phân tán như vậy được biết đến như là kiến trúc khách/chủ (Hình. 1.3). Các
máy tính cá nhân có vai trò máy khách cũng được gọi là các trạm làm việc của mạng.
7
Hình. 1.3: Kiến trúc khánh chủ
Một máy chủ đặc trưng được miểu tả bởi loại tài nguyên mà nó quản lý. Ví dụ, nếu nguồn tài
nguyên là cơ sở dữ liệu thì máy chủ đó được coi như là máy chủ cơ sở dữ liệu, mục đích
chính của nó đó là phục vụ các truy vấn của máy trạm cho việc xử lý dữ liệu. Nếu nguồn tài
nguyên là một hệ thống tệp, máy chủ được biết đến như là máy chủ tệp. và mục đích của nó là
chuyển các tệp tới các máy trạm. Nói chung, các máy chủ có khả năng cung cấp các nguồn tài
nguyên sử dụng chung, bao gồm cơ sở dữ liệu, các hệ thống tệp và một số dịch vụ khác được
thực hiện bởi số các chương trình máy chủ. Thêm vào đó, các máy chủ có thể cung cấp truy
cập tới các thiết bị ngoại vi (ví dụ, máy chủ in ấn có thể cung cấp việc chia sẻ truy cập đến
một máy in).
Chúng ta phân biệt giữa các mô hình kiến trúc khách, mỗi mô hình này tương ứng sự phân
loại thích hợp của các thành phần của kiến trúc phần mềm bên trong các máy tính mạng. Các
thành phần phần mềm phân phối được phân biệt bởi chức năng mà chúng có khả năng cung
cấp.
Các chức năng của bất kì một ứng dụng phần mềm nào có thể được chia thành 3 nhóm sau
đây:
 Các chức năng liên quan tới đầu vào (input) và đầu ra (output)
 Các chức năng ứng dụng, cụ thể tới từng vùng kiến thức (một vùng chuyên để giải
quyết một vấn đề nào đó) của ứng dụng
 Các chức năng quản lý dữ liệu Data mining
Bất kì một ứng dụng phân mềm hiện nay có thể được biểu diển bởi một cấu trúc bao gồm 3
thành phần sau:

 Các thành phần trình diễn, mà nó thực thi giao diện người dùng
 Các thành phần ứng dụng, thực thi các chức năng ứng dụng
 Các thành phần cung cấp truy cập tới các người tài nguyên thông tin, thông tin
Các mô hình của kiến trúc khách chủ dưới đây được xác định, tương ứng với các phương thức
phân phối của 3 thành phần phần mềm chính giữa các trạm làm việc và máy chủ mạng:
8
 Chỉ có dữ liệu được lưu trữ trên máy chủ (Hình. 1.4).
Hình. 1.4: Mô hình truy cập đến dữ liệu từ xa
 Bổ sung dữ liệu, nhà quản lý tài nguyên được xác định trên máy chủ, ví dụ một hệ
quản lý cơ sở dữ liệu (Hình. 1.5).
Hình. 1.5: Mô hình máy chủ điều khiển dữ liệu
 Dữ liệu, quản lý tài nguyên, và các thành phần ứng dụng được tập trung trên máy chủ
(Hình. 1.6).
Hình. 1.6: Mô hình khách/chủ hai lớp
 Các thành phân ứng dụng được lưu trên máy chủ, trong khi dữ liệu và quản lý tìa
nguyên được lưu trong máy chủ khác (Hình. 1.7).
Hình. 1.7: Mô hình khách/chủ ba lớp
Mô hình của kiến trúc khách chủ đầu tiên lưu trữ dữ liệu trên máy chủ, không cung cấp tính
năng hiệu quả cao, vì thông tin được xử lý trên các máy trạm và các tệp chứa thông tin này
phải được truyền cho việc xử lý từ máy chủ trên toàn bộ mạng. Việc truyền khối lượng lớn dữ
9
liệu trên toàn mạng dẫn tới sự trao đổi thông tin với tốc độ thấp. Tiếp theo, điểu này có thể
dẫn tới quá tải trên mạng. Chính vì lí do này, mô hình truy xuất dữ liệu từ xa chỉ có thể được
sử dụng cho các mạng khá nhỏ, với việc xử lý số lượng dữ liệu ít.
Hình 1.5 chỉ ra mô hình thứ 2 của kiến trúc khách chủ, trong đó thông tin đã được lưu trữ trên
máy chủ, đó là hệ thống quản lý tài nguyên (ví dụ DBMS). Đây là mô hình máy chủ điều
khiển dữ liêu. Các thành phần trình diễn và ứng dụng đã được kết hợp và thực thi trên máy
trạm, hỗ trợ các chức năng hiển thị và dữ liệu đầu vào cũng như các chức năng ứng dụng.
Theo quy ước, việc truy cập đến các nguồn tài nguyên thông tin được cung cấp với các thao
tác của ngôn ngữ đặc biệt (ví dụ, SQL trong trường hợp của các cơ sở dữ liệu) hoặc gọi các

chức năng chứa trong các thư viện chương trình chuyên dụng. Các câu truy vấn tạo ra các
nguồn tài nguyên thông tin được gửi tới các trình quản lý tài nguyên. Trình quản lý tài
nguyên xử lý các truy vấn và trả về các khối dữ liệu cho máy trạm.
Ưu điểm của mô hình máy chủ điều khiển dữ liệu so với mô hình truy cập dữ liệu từ xa đó là
thông tin ít được truyền trên mạng hơn. Đó là nhờ có việc lựa chọn các đơn vị thông tin được
yêu cầu từ các tệp không được thực hiện trên máy trạm mà được thực hiện trên máy chủ. Nói
chung, tại thời điểm hiện tại, có rất nhiều công cụ phát triển, cung cấp phát triển ứng dụng
nhanh, sử dụng một giao diện chuẩn, thao tác với DBMS hướng SQL. Điều này cung cấp sự
thống nhất, sự thao tác giữa các thành phần, và rất nhiều sự lựa chọn các công cụ phát triển
phần mềm.
Nhược điểm chính của mô hình điều khiển dữ liệu đó là không có danh giới rõ ràng giữa
thành phần trình diễn và thành phần ứng dụng. Điều này dẫn đến cản trở sự phát triển tiếp
theo của hệ thống tính toán có kiến trúc xây dựng dựa vào mô hình này. Hơn thế nữa, sự thay
đối một thành phần yêu cầu sự thay đổi của toàn bộ hệ thống
Toàn bộ những thuận lợi và bất lợi của mô hình máy chủ điều khiển dữ liệu được liệt kê ở
trên, có thể kết luận rằng dựa vào mô hình này là phù hợp nhất xây dựng những hệ thống tính
toán hướng xử lý nội dung thông tin vừa phải, mà nội dung thông tin này không tăng theo thời
gian. Vì vậy, độ phức tạp của các thành phần áp dụng ứng dụng sẽ không cao.
So với mô hình máy chủ điều khiển dữ liệu, mô hình khách chủ hai lớp thuận tiện hơn để điều
hành. Mô hình này đã được phát triển với giả thuyết rằng, việc thực hiện xử lý trên máy trạm
được giới hạn đối với các chức năng trình diễn, trong khi các chức năng ứng dụng và truy cập
dữ liệu được thực hiện ở phía máy chủ. Những chức năng ứng dụng có thể được thực hiện
trong các chương trình riêng rẽ hoặc trong các thủ tục lưu trữ, được biết đến như là các thủ tục
cơ sở dữ liệu. Những thủ tục này được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu và được thực hiện trên máy
chủ, nơi thành phần điều khiển truy xuất dữ liệu, tương đương nhân của DBMS cũng hoạt
động.
Ngược lại với mô hình máy chủ điều khiển dữ liệu, lợi ích của máy chủ tích hợp rất rõ ràng:
đơn giản, hiệu quả cao, quản trị tập trung, và vì vậy giảm bớt việc sự dụng các nguồn tài
nguyên mạng. Từ những lợi ích này, có thể đi đến một kết luận đó là mô hình máy chủ tích
hợp là tối ưu cho các mạng lớn hướng về xử lý số lượng lớn thông tin, hoặc sẽ là mô hình

mong đợi trong thời gian tới.
Khi các thành phần ứng dụng ngày càng phức tạp và sử dụng nhiều nguồn tài nguyên, một
máy chủ riêng biệt (máy chủ ứng dụng) có thể được sử dụng. Chính từ nhu cấu này đem lại
mô hình ba lớp của kiến trúc khách chủ. Lớp đầu tiên chính là máy trạm, lớp thứ là máy chủ
ứng dụng, và lớp ba chính là máy chủ điều khiển dữ liệu. Kiến trúc khách chủ là hai lớp khi
10
các thành phần ứng dụng được đặt trên máy trạm cùng với thành phần trình diễn (Hình. 1.4,
Hình. 1.5), hoặc trên máy chủ cùng với trình quản lý tài nguyên và dữ liệu (Hình. 1.6).
Bên trong khung của máy chủ ứng dụng, một vài chức năng ứng dụng có thể được thực hiện,
mỗi chức năng thiết lập mẫu các dịch vụ riêng biệt, cung cấp một vài chức năng cho bất kì
chương trình có thể và muốn sử dụng chúng. Có một vài máy chủ ứng dụng, mỗi máy chủ
hướng về tập các dịch vụ xác định. Bất ki một chương trình nào sử dụng dịch vụ đều được
xem như là máy chủ. Chi tiết thực hiện các chức năng ứng dụng trên máy chủ ứng dụng được
ẩn đi đối với máy trạm. Các truy vận nhận từ các ứng dụng của máy trạm được đặt trong hàng
đợi kết hợp với các máy chủ xử lý ứng dụng, tách và truyền truy vấn cho việc xử lý theo chế
độ ưu tiên.
Máy trạm có thể có nhiều hơn một thành phần trình diễn. Thành phần trình diễn có thể hỗ trợ
giao diện cho người dùng cuối (tại thời điểm đó, nó hoạt động như thành phần trình diễn); nó
có thể cung cập chuyển dữ liệu từ các thiết bị; và có thể là máy chủ ứng dụng. Cuối cùng cho
phép thựchiện các hệ thống ứng dụng, bao gồm các máy chủ ứng dụng của vài mức. Kiến trúc
của hệ thống như vậy có thể được xem như là một nhân bao xung quanh bởi các vòng đồng
tâm. Nhân bao gồm các máy chủ ứng dụng, mà ở đó các chức năng ứng dụng cơ bản được
thực hiện. Tập biểu tượng nhẫn của các máy chủ ứng dụng hoạt động như các máy trạm liên
quan đến máy chủ của mực trong. Không có sự giới hạn số các mức của các máy chủ ứng
dụng.
Sự hiện diện của các đường rành giới giữa các thành phần của máy chủ phần mềm trong kiến
trúc khách/chủ và sự phân phối cân bằng của các thành phần trong các máy tính của mạng cho
phép mức như vậy mềm dẻo không có hiệu lực trong kiến trúc ngang hàng. Như vậy, nguồn
tài nguyên dành ở mức cao của sự thực thi và khả năng mở rộng và cải tiến chức năng của hệ
thống có thể được thực hiện.

Kiến trúc mạng khách/chủ, xuất hiện ở giai đoạn hai của sự tiến triển các cộng nghệ mạng
máy tính còn được gọi là kiến trúc khách/chủ cổ điển. Sau đây là một số mô tả chức năng của
mô hình này:
 Máy chủ không sinh ra thông tin cuối cùng mà là dữ liệu, dữ liệu này tuy thuộc vào sự
biên dịch bởi các máy trạm
 Các thành phần của hệ thống ứn dụng được phân tán trong các máy tính trên mạng.
 Các giao thức riêng, không tương thích với TCP/IP, có thể được sử dụng giữa các máy
trạm và máy chủ.
 Mỗi máy tính mạng được hướng thực thi các chương trình cục bộ.
Chức năng cuối cùng nảy sinh đó là bảo mật thông tin. Khi chỉ các chương trình cục bộ được
thực hiện trên máy tính, sự di chuyển các chương trình trên mạng trong suốt quá trình xử lý
các truy vấn được thực hiện bởi máy trạm đến máy chủ không xuất hiện. Khả năng thực hiện
các chương trình gây tác hại hoặc sự lây nhiễm máy tính sẽ giảm đi
Về mặt lưu trữ dữ liệu và xử lý bảo mật, kiến trúc khách/chủ có số bất lợi sau:
 Phân phối vật lý của các thành phần của các chương trình ứng dụng và sự hỗn loạn,
không tuân thủ qui tác của các hệ thống tính toán làm phức tạp xây dựng và quản trị
hệ thống bảo mật
11
 Một phần bảo vệ tài nguyên thông tin lưu trên máy tính cá nhân được miêu tả bởi và
phụ thuộc tăng điểm yếu.
 Việc sử dụng các giao thức riêng cho việc chuyển đổi dữ liệu giữa các máy tính yêu
cầu việc phát triển các công cụ bảo mật riêng như vậy dẫn đến tăng chi phí.
 Với việc mất các thiết lập phần mềm của các máy trạm, thực hiện các thủ tục phức tạp
cho việc kết nối lại và phối hợp máy tính này với phần còn lại của hệ thống là cần
thiết, dẫn đến sự tăng thời gian phục hồi lỗi.
1.1.4. Kiến trúc khách chủ dựa Web
Có rất nhiều điều bất lợi đối với các mạng máy tính dựa theo kiến trúc khách chủ cổ điển,
những bất lợi này có thể được loại bỏ bởi bằng cách kết hợp các đặc tính tốt nhất của các hệ
thống tập trung và các hệ thống khách chủ cổ điển. Kiến trúc mới của các mạng máy tính
được gọi là kiến trúc Intranet. Nó còn được gọi là kiến trúc Web hay là kiến trúc khách chủ

dựa vào công nghệ Web. Kiến trúc này là kết quả nghiên cứu trong thời gian dài và phát triển
trong lĩnh vực áp dụng Internet vào trong mạng cục bộ. Sự xuất hiện của kiến trúc Intranet
trong năm 1993 đã được cân nhắc cho việc bắt đầu của giai đoạn 3 trong sự tiến triển của các
hệ thống mạng máy tính.
Chức năng chính của kiến trúc Intranet chính là các chức năng đã bị loại bỏ trong mô hình
máy tính trung tâm trong giai đoạn hai của sự tiến triển các hệ thống tính toán. Nèn tản của
kiến trúc mới này đó là công nghệ.
Công nghệ Web còn được gọi là “các văn bản Web”, mà các văn bản này được lưu trên máy
chủ và được biên dịch và hiển thị bởi chương trình duyệt hoạt động trên máy trạm
workstations (Hình. 1.8). Các chương trình duyệt được gọi là trình duyệt Web.
Hình. 1.8: Kiến trúc khác/chủ dựa vào công nghệ Web
Nói cách khác, một tài liệu Web biểu diễn các tài liệu siêu media, bao gồm các trang Web
được nối với nhau bởi các liên kết. Mỗi một trang Web có thể chứa các đối tượng và các liên
kết tới các trang Web khác. Theo qui luật đã định, một trang Web được biểu diễn bởi một tệp
văn bản, với định dạng xác định mà chỉ rõ các liên kết tới các đối tượng khác và các văn bản
12
Web, được xác định trên các host mạng khác nhau. Thực ra, về bản chất một văn bản Web
chứa chỉ một trang Web nhưng hợp lý nhất là nó có thể bao gồm số lượng lớn các trang, mà
các trang này thuộc về các văn bản Web khác nhau.
Một trang Web có thể chứa văn bản và hình ảnh. Không giống như văn bản giấy, trang Web
có thể là tương tác với các chương trình máy tính và có thể chứa các liên kiết đến những đối
tượng khác. Bất kì link nào chứa trong một trang Web được đánh dấu bởi màu và/hoặc dấu
gạch chân.
Hệ thống các siêu liên kết dành được dựa vào yếu đó đó là các vùng lựa chọn của tài liệu,
được biểu diễn bởi text, ảnh, hoạt động như các liên kết đến các đối tượng được kết nối logic
đến chúng. Vì vậy các đối tượng liên kết có thể được lưu trữ tại vị trí bất kì nào trên mạng
Một trang Web có thể chứa liên kết đến một số kiểu đối tượng sau:
 Các phần khác của một tài liệu Web
 Các tài liệu Web hoặc các tài liệu có định dạng khác (ví dụ tài liệu bảng tính, soạn
thảo), mà các tài liệu này có thể được xác định trên bất kì máy tính nào trên mạng

 Các đối tượng Multimedia, bao gồm các ảnh, âm thanh và video.
 Một chương trình sẽ được thực thi trên máy chủ sau kích vào liên kết
 Một chương trình được truyền tới cho máy trạm bằng trình duyệt từ máy chủ và được
biên dịch và thực thi trên máy trạm
 Các dịch vụ khác, bao gồm e-mail, sao chép các tệp thông qua mạng, tìm kiếm thông
tin vv
Từ những định nghĩa về tài liệu Web, dễ dàng cho các chương trình điều hướng, thực hiện
trên các máy trạm , không bị hạn chế hiển thị các trang Web và thực hiển truyền tới các đối
tượng khác. Chương trình điều hướng có thể là chương trình thực sự trên máy chủ và thông
dịch hoặc chạy các môdun có khả năng thực thi liên quan tới tài liệu Web trên máy trạm
Việc truyền các tài liệu và các đối tượng từ máy chủ đến máy trạm sau khi các yêu cầu từ
trình duyệt được xử lý bởi một chương trình hoạt động trên máy chủ, chương trình này được
gọi là máy chủ Web. Để nhận được các tài liệu hoặc các đối tượng từ máy chủ Web, trình
duyệt gửi một truy vấn thích hợp tớ cho máy chủ. Nếu có đủ quyền hạn, một kết nối logic
được thiết lập giữa máy trạm và máy chủ. Sau đó, máy chủ xử lý truy vấn, truyền kết quả về
cho trình duyệt Web và hủy bỏ kết nối.
Máy chủ Web hoạt động như là bộ tập trung thông tin làm nhiệm vụ truyền thông tin từ các
nguồn tài nguyên khác nhau và biểu diễn chúng cho người sử dụng trong một cách thức đồng
nhất. Trình duyệt cho phép người sử dụng xem thông tin mà không phụ thuộc vào định dạng
của thông tin.
Để kết nối kiểu dữ liệu phân tán và kiểu dữ liệu khác, các tài liệu Web cho phép cân nhắc
thông tin với yêu cầu đầy đủ chi tiết, làm đơn giản hóa phân tích các nội dung thông tin. Điều
này rất hợp lý để tập trung quan tâm tới khía cạnh quan trọng của dữ liệu, và nghiên cứu tài
nguyên đã lựa chọn một cách chi tiết.
Kiến trúc Intranet có một vài ưu điểm:
13
The following distinctive features of Intranet architecture should be emphasized:
 Thông tin cuối cùng dành để hiển thị cho người dùng xem bằng chương trình duyệt
được tạo trên máy chủ
 Tất cả nhưng nguồn tài nguyên và hệ thống ứng dụng được tập trung trên máy chủ

 Các giao thức của bộ giao thức TCP/IP sẽ được sử dụng cho việc trao đổi dữ liệu giữa
máy chủ và các máy trạm
 Điều khiển tập trung không chỉ trên máy chủ mà còn cho máy trạm rất thuận lợi, vì
chúng đã được chuẩn về mặt phần mềm
 Các máy trạm có thể thực thi các chương trình từ những máy tính khác trên mạng
Tất cả những chức năng này, loại trừ chức năng cuối cùng, trợ giúp giải quyết vấn đề bảo mật
thông tin.
Sự tập trung tất cả nguồn tài nguyên thông tin và các hệ thống ứng dụng trên máy chủ làm
đơn giản trong việc xây dựng và quản trị của hệ thống bảo mật và bảo vệ các đối tượng ở
cùng một nơi sẽ được thực hiện một cách dễ dàng hơn so với kiến trúc phân tán.
Việc sử dụng chuẩn mở TCP/IP cho việc trao đổi thông tin giữa các máy tính trong mạng dẫn
đến việc thống nhất các phương thức tương tác giữa các trạm làm việc và máy chủ. Điều này
không mang lại lợi ích để giải quyết vấn đề của việc cung cấp trong đổi thông tin an toàn giữa
các ứng dụng máy chủ trên các máy tính. Giải pháp cho an toàn tương tác phát triển cho từng
mính tính sẽ thích hợp đối với tất cả ứng dụng.
Sự thuận lợi của điều khiển tập trung của các máy trạm từ máy chủ làm giảm các lỗi không
mong đợi có thể xảy do người dùng, điều hành, và quản lý. Nhưng lỗi như vậy là một trong sự
đe dọa chính đối với àn toàn thông tin, dẫn đến sự phá hoại. Ví dụ, việc nhập dữ liệu đầu vào
không chính xác gây ra ngừng chạy chương trình. Những lỗi này tạo ra chỗ yếu có thể bị khai
thác.
Trong kiến trúc Intranet, giả xử các chương trình xử lý thông tin phân tán vẫn được sử dụng
từ máy chủ có thể được thực hiện trên máy trạm. Hệ thống như vậy của việc xử lý phân tán
cho phép tập trung tất cả các hệ thống ứng dụng trên máy chủ. Tuy nhiên, khả năng các
chương trình thực hiện từ máy chủ trên máy trạm sinh ra nhiều sự đe dọa mới từ an toàn
thông tin (ví dụ, sự đe đọa đó là thay thế chương trình truyền từ máy chủ [1,14]. Ví vậy, khả
năng di trú các chương trình bổ sung thêm nhiều yêu cầu để duy trì bảo mật trên mạng.
1.2. Nền tảng của các Công nghệ mạng
1.2.1. Sự tương tác với Webserver
1.2.1.2 Miêu tả tổng quát
Ngày nay, hầu hết các phương thức phổ biến tương tác với Webserrver chính là kiến trúc

khánh/chủ, dựa vào công nghệ Web. Việc xử lý trao đổi thông tin được sử dụng trong các
công nghệ Web không khác so với việc xử lý trong kiến trúc khánh/chủ chuẩn, mà ở đó
chương trình máy chủ điều khiển việc xử lý các câu truy vấn từ các chương trình khách.
14
Trong việc xử lý trao đổi thông tin sử dụng trong các công nghệ Web, các chương trình khách
được thực thi trong các chương trình định hướng Web mà được tìm thấy trên các máy trạm,
cũng như các chương trình phụ trợ hoạt động như các trạm. Các trình duyệt Web được sử
dụng biên dịch và hiển thị các tài liệu Web được lưu trữ trên máy chủ, cũng như truy cập tới
các dịch vụ đặc biệt khác (Hình. 1.9), như:
• Sao chép các tệp từ máy chủ về máy trạm và ngược lại (FTP)
• Cung cấp một phiên ảo trên máy chủ (Telnet)
• Truy cấp thực đơn đa cấp tới các nguồn tài nguyên máy tính (Gopher)
Hình. 1.9: Lược đồ tổng quát của sự tương tác giữa trình duyệt và máy chủ
Việc truy cập tới các dịch vụ đặc biệt này là khả thi, vì trên thực tế, ngay từ đầu, các chương
trình định hướng Web đã được thiết kế như là các chương trình đa giao thức mà có thể cung
cấp một giao diện chung cho phép truy cập đến rất nhiều các nguồn tài nguyên mạng. Hiện
này, các chương trình định hướng Web phổ biến nhất hiện nay đó là Firefox, Internet
Explorer, Opera, Mozilla, Netscape navigator,… Các chương trình Web phụ trợ được sử dụng
để thu được dữ liệu thống kê từ máy chủ Web cho việc định chỉ số thông tin chứa trong máy
chủ Web, hoặc cho mục đích cập nhật các cơ sở dữ liệu cho các cơ chế tìm kiếm.
Trong lược đồ tương tác với các công nghệ Web, máy chủ Web hoạt động như một chương
trình máy chủ chính. Chương trình này được chạy trên máy chủ và thực hiện xử lý các truy
vấn đến từ các trạm Web. Sự tương tác giữa các trạm Web và các máy chủ Web được thiết lập
theo tập các luật được xác định bởi giao thức truyền siêu liên kết (HTTP). Khi thực thi, máy
chủ Web điều khiển một cổng logic trên mạng, mà cổng này được gán mặc định bằng 80, và
coi như bất kì các thông báo nào gửi tới cổng này được chuyển tới máy chủ Web.
Khi nhận được một truy vấn từ Web client, máy chủ Web thiết lập truyền thông sử dụng
TCP/IP và trao đổi thông với Web client theo giao thức HTTP. Nếu Web client yêu cầu truy
cập thông tin được bảo vệ trên máy chủ Web, máy chủ Web có thể yêu cầu định danh người
dùng và mật khẩu. Các tài liệu Web được bảo vệ sẽ chỉ hiển thị đối với những người dùng có

các quyền truy cập thích hợp.
Các tài liệu nhận được bởi trình duyệt từ máy chủ Web tương ứng với các tệp văn bản được
viết bằng ngôn ngữ đặc biệt, gọi là ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML). Ngôn ngữ này
bao gồm tập các qui định về định dạng văn bản (trong bất kì một ngôn ngữ nào) và cách hiển
15
thị trong của sổ của trình duyệt Web. Việc đánh dấu xác định định dạng, cũng như điều khiển
cách liên kết tới bất kì đối tượng và đồ họa sẽ được hiển thị. Cùng với ngôn ngữ đánh dấu, các
chương trình được viết bằng ngôn ngữ kịch bản JavaScript và VBSCript có thể được chèn vào
bên trong tài liệu Web và trình duyệt Web sẽ biên dịch khi nạp và hiển thị tài liệu Web.
Để truy cập tới thông tin mà máy chủ không thể xử lý trực tiếp (ví dụ: truy cập cơ sở dữ liệu),
một hệ thống cổng phần mềm sẽ được sử dụng. Cổng phần mềm, nhận truy vấn từ máy chủ
Web, xử lý truy vấn, hoặc hoạt động như proxy giữa máy chủ Web và máy chủ khác (ví dụ:
máy chủ DBMS). Cổng phần mềm phát triển theo các chuẩn đặc biệt xác định các phương
thức để máy chủ có thể gọi các ứng dụng hoặc các hàm từ các thư viện liên kết động,và hơn
thể nữa cách thức của trao đổi thông tin với đối tượng chương trình. Giao diện cổng chung
(CGI-Common Gateway Interface) là một trong nhưng các chuẩn phổ biển này.
1.2.1.2 Xử lý truy vấn từ Web Client
Các bước xử lý bởi máy chủ khi xử lý truy vấn nhận được từ Web Client:
1. Trình duyệt Web hoặc Web client khác, gửi truy vấn đến máy chủ Web, yêu cầu tài
nguyên thông tin. Truy vấn này được gửi trong định dạng HTTP, trong khi địa chỉ của
nguồn tài nguyên yêu cậu được xác định trong định dang URL
2. Sau khi nhận được truy vấn từ máy trạm, mấy chủ Web xác định sự tồn tại của các
nguồn tài nguyên được yêu cầu trong nguồn tài nguyên cục bộ, có nghĩa là trong
nguồn tài nguyên mà máy chủ điều khiển.
3. Nếu nguồn tài nguyên yêu cầu có sẵn, máy chủ Web kiểm tra quyền truy cập vào
nguồn tài nguyên này và nếu quyền truy cập không vi phạm, máy chủ Web trả về nội
dung của nguồn tài nguyên đến cho Web client.
4. Nếu yêu cầu của Web client can thiệp các quyền truy cập tài nguyên, máy chủ Web từ
chối truy vấn và tra về cảnh bảo thích hợp cho client.
5. Nếu nguồn tài nguyên yêu cầu không nằm trong nguồn tai nguyên cục bộ trên máy

chủ Web, máy chủ xác định thông tin về vị trí nguồn tài nguyên từ các tệp cấu hình
của nó, kể cả việc xây dựng lại (Hình. 1.10).
16
Hình. 1.10: Định hướng truy vấn
6. Nếu máy chủ Web hỗ trợ cây ảo của những máy chủ Web khác, việc tìm kiếm sẽ được
định hướng tới nguồn tài nguyên cần thiết.
7. Nếu máy chủ Web được sử dụng như máy chủ ủy quyền, một mặt nó hoạt động như là
máy chủ Web cho các máy trạm gửi truy vấn tới, mặt khác nó hoạt động như trạm
Web, gửi truy vấn tới các máy chủ (Hình. 1.11).
Hình. 1.11: Sử dụng máy chủ Web như máy chủ proxy
8. Sau khi trả về thông tin yêu cầu cho máy trạm, máy chủ Web hủy bỏ kết nối.
Máy chủ Web có thể được sử dụng để giải quyết các vấn đề lớn. Điển hình, các chức năng sau
được hỗ trợ trên các máy chủ:
 Hỗ trợ cơ sơ dữ liệu văn bản phân cấp, xử lý truy vấn và điều khiển truy cập tới thông
tin từ các chương trình phía client
 Tiền xử lý dữ liệu trước khi trả lời một truy vấn
 Tương tác với các chương trình mở rộng và các máy chủ khác, ví dụ, các cơ chế tìm
kiếm
17
Phần lớn các mô hình máy chủ Web như Netscape's Enterprise Server, Microsoft's Internet
Information Server bổ sung giao thức mã hóa Secure Socket Layer (SSL), duy trì sự riêng tư,
tính toàn vẹn, tính xác thực của dữ liệu truyền trên mạng. Giao thức SSL cũng được bổ sung
trong các trình duyệt Web. Chức năng này cung cấp một môi trường an toàn cho việc sử dụng
công nghệ Web trong các mạng máy tính.
1.2.2. Xử lý thông tin phân tán trên nền tảng cả các chương trình dễ biến đổi
Một trong các chức năng quan trọng của kiến trúc Intranet đó là việc xử lý thông tin phân tán
trên nền tảng của những chương trình dễ biến đổi. Chương trình hướng Web chạy trên máy
trạm không chỉ hiển thị các trang Web và thực hiện các chuyển tiếp tới các nguồn tài nguyên
khác mà nó có thể kích hoạt các chương trình trên máy chủ, thông dịch và thực thi chúng, khi
tài liệu Web được thực thi những đòi hỏi. Các chương trình này được truyền cùng với tài liệu

từ máy chủ. Kiểu xử lý thông tin phân tán này đảm bảo ràng bộc của toàn bộ hệ thống ứng
dụng trên máy chủ
Có 3 kiểu chương trình chính có thể được kết hợp với tài liệu Web và truyền tới máy trạm để
thực thị:
 Java applet được thực thi bởi công nghệ Java
 Các chương trình được viết bằng các ngôn ngữ kịch bản như JavaScript, VBScript,
VRML
 Các thành phần ActiveX, liên quan tới công nghệ ActiveX
Thực tế là, tồn tại một vài loại chương trình dễ biến đổi có thể được miểu tả bởi các khả năng
chức năng khác nhau của chúng, và hơn thể nữa bởi sự cạnh tranh giữa các công ty trong lĩnh
vực chương trình và các côn nghệ mạng như Sun Microsystems, Netscape và Microsoft
corporations, và các công ty khác.
1.2.2.1 Công nghệ Java
Java được thiết kế bởi Sun Microsystem vào những năm 1990, đáp ứng đòi hỏi các chương
trình máy tính hướng môi trường mạng và tích hợp công nghệ Web. Động lực phía sau công
nghệ Java đưa ra các yêu cầu kết hợp của sự dễ biến đổi, độc lập phần cứng và các nền tảng,
an toàn và tin cậy trong việc xử lý thông tin.
Java là ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng dựa vào nền tảng của ngôn ngữ C++, loại bỏ đi
nhưng chức năng không cần thiết, bổ sung thêm chức năng cung cấp sự an toàn và tin cậy của
thao tác điện toán phân tán. Có rất nhiều chức năng trong Java vay mượn từ ngôn ngữ đối
tượng C và Samlltalk. Để giảm độ phức tạp lập trình và số lỗi trong mã, Java đưa ra sự chính
xác của kiểu dữ liệu, hướng đội tượng một cách chặt chẽ. Tất cả phần tử dữ liệu được lưu
trong các đối tượng, và tất cả hàm bao gồm các phương của vài đối tượng. Kiểu đơn vị thông
tin chính xác cho phép phát hiện lỗi kết nối kiểu dữ liệu không tương thích tại bược biên dịch.
Hướng tiếp cận module đối với thiết kế chương trình, thực thi trong ngôn ngữ và sự đơn giản
của ngôn ngữ, không những cho phép phát triển nhanh các chương trình mới mà còn cập nhật
ứng dụng được viết trước đó và kiểm tra trong Java. Hơn thế nữa, Java đưa ra việc cập nhật
hiệu quả cho các chương trình cũ được viết bằng ngôn ngữ lập trình khác. Việc bổ sung các
phần tử ngôn ngữ chuẩn, Java bao gồm số các thư viện, từ đó có thể xây dựng các hệ thống
tính toán với mọi độ phức tạp. Tập hợp các chuẩn thư viên có thể được bổ sung liên tục với

các hàm mới.
18
Máy ảo Java, nó thực thị các chương trình Java thông qua bộ thông dịch, độc lập phần cứng
và hệ điều hành. Xử lý thông tin một cách an toàn và tin cậy được tách riêng khỏi máy ảo.
Kiến trúc máy ảo, sự trình diễn của các mục dữ liệu và hệ thống câu lệnh được xác định Bộ vi
xử lý Java ảo cung cấp môi trường đầy đủ cho việc thực thi một chương trình Java. Vì thế, tất
cả chương trình Java phải đáp ứng các đặc tả của bộ vi xử lý trừu tượng, bộ vi xử lý trừu
tượng xác định tập các chỉ thị độc lập máy tính của nó, kiểu dữ liệu, và các thanh ghi được xử
dụng. Nguồn của chương trình Java được dịch thành mã độc lập máy gọi là mã byte, sau được
được biên dịch bởi bộ vi xử lý trừu tượng, được thực hiện bởi bộ vi xử lý Java ảo
Biên dịch chương trình Java dành cho sự thực thi trên máy trạm trong môi trường của trình
duyệt gọi là applet Java hoặc đơn giản hơn là applet. Theo bản chất của applet, mọi applet đại
diện chương trình nhỏ, trong đó một vài chức năng bắt buộc sẽ được xác định. Applet được
nạp từ máy chủ thông qua mạng và được thực thi trong trình môi trường trình duyệt (Hình.
1.12). Các liên kết đến applet được xác định trong tài liệu Web, những applet không chứa
trong thành phần tài liệu Web. Thay vào đó, applet được lưu trữ ở tệp riêng biệt trên máy chủ.
Hình. 1.12: Truyền và thực thi các chương trình Java độc lập máy
Sự độc lập của mã byte Java đối với phần cứng và hệ điều hành có khả năng thực hiện được
bởi sự thực hiện chương trình của bộ vi xử lý Java ảo. Điều này dùng cho thông dịch các
applet cho từng nền tảng
Mã byte của các chương trình Java có một số chức năng sau:
 Mã dễ dãng thông dịch trực tiệp mã máy cho bất kì nền tảng phần cứng nào.
 Chiều dài trung bình của câu lệnh trong mã byte ngắn tối thiểu, vì thế giảm độ phức
tạp và kích cỡ của applet Java khi so sánh với các chương trình thực thi bình thường
 Mỗi mã byte của chương trình chứa thông tin đây đủ chương trình cho phép mã này
được kiểm tra một cách an toàn cho việc thực thi.
Mã byte được phát triển làm giảm chiều dài trung bình của chương trình một mức hợp lý nhất.
Bộ vi xử lý Java ảo có kiến trúc ngăn xếp và thành ghi nhỏ và thường xử dụng định địa chỉ
gián tiếp. Vì thế, phần lớn các câu lệnh chiếm byte đơn. Nói chung, các bộ vi xử lý Java có
tập các chỉ thị cho từng kiểu dữ liệu. Do vậy, chiều dài trung bình của câu lệnh Java chỉ có 6

byte. Chiều dài trung bình của câu lệnh cho bộ vi xử lý RISC sắp xỉ 4 byte.
Hai chức năng quan trọng được quy định cho tốc đô cao thực thi an toàn và tin cậy của applet
19
 Kiểm tra mã byte để đảm bảo sự toàn vẹn và hợp thức của các chỉ thị trước khi thực
thi.
 Điều khiển vào khóa các thao tác trong suốt thời gian thông dịch mã byte
Việc nạp và kiểm tra các mã byte thực hiện bởi chức năng đầu tiên, quản lý bảo mật của bộ vi
xử lý Java ảo thực hiện bởi chức năng thứ hai. Quản lý bảo mật truy cập tới các tệp và nhóm
thiết bị ngoại vị bằng applet và thực hiện các chức năng hệ thống như cấp phát bộ nhớ.
Vi xử lý Java ảo cung cấp sự thực thị và các chức năng khác tác động độ tin cậy xử lý thông
tin, ví dụ “tập hợp dữ liệu vô nghĩa” tương đương với việc giải phóng bộ nhớ. Nói chúng,
Java bôm gồm các chức năng có ích đối với các thao tác chính xác cho các đội tượng và
nguồn tài nguyển trong các tính huống không mong đợi.
Chu kì phần mềm applet tương tự như các chương trình viết bằng ngôn ngữ khác. Tiến trình
thực hiện applet khác với tiến trình của các chương trình thông thường khác (Hình. 1.13).
Hình. 1.13: Chuẩn bị và thực thi Applet Java
Ví applet và các thành phần khác của hệ thống ứng dụng được lưu trên máy chủ, hệ thống hỗ
trợ việc quản trị một cách dễ dãng hơn. Vì thế, đảm bảo sử dụng lâu dài các chường trình cập
nhật hàng ngày.
Không chỉ các applet đại diện các chương trình luôn biến đổi có thể được viết bằng ngôn ngữ
Java – các chương trình ứng dụng cũng có thể được viết bằng Java. Tuy nhiên để dành được
mức thực thi cao, mã nguồn của chương trình nên được biên dịch, không thành mã byte
nhưng mã độc lập với máy cho phép thực hiện trực tiếp bởi các bộ vi xử lý máy trạm.
Hiện nay, có rất nhiều công cụ phát triển cho applet và ứng dụng Java, bao gồm Microsoft
Visual J++, Symantec Cafe, Borland Jbuilder, Sun Microsystems Java Workshop, và một số
công cụ khác.
20
1.2.2.2 Các công nghệ dựa vào sử dụng các ngôn ngữ kịch bản
Những công nghệ cho phát triển và ứng dụng của các chương trình biến đổi dựa vào sử dụng
nhưng ngôn ngữ kịch bản xuất hiện xong xong với công nghệ Java. Sự khác biệt quan trong

giữa công nghệ kịch bản và Java chính là sự thông dịch theo dòng lệnh của chương trình kịch
bản, thực hiện biên dịch thành mã byte trước khi thực thi. (Để thực thi, các chương trình Java
di động phải được biên dịch thành mã byte.) Chức năng của bộ biên dịch chương trình di
động viết bằng các ngôn ngữ kịch bản được thực hiện bởi trình duyệt Web.
Bản chất của ngôn ngữ kịch bản (hay còn gọi ngôn ngữ macro) dễ dàng gở rối và phát triển
chương trình. Các ngôn ngữ kịch bản chính hiện thời dành cho viết chương trình biến đổi bao
gồm:
 Ngôn ngữ kịch bản JavaScript, được phát triển bởi Netscape và Sun Microsystems, và
ngôn ngữ VBSCript của Microsoft.
 Ngôn ngữ mô tả thực tế ảo (Virtual Reality Modeling Language), được phát triển bởi
Silicon Graphics.
Ban đầu, JavaScript xuất hiện trong trình duyệt Netscape Navigator 2.0 dưới cái tên
LiveScript. Sau đó, Netscape loại bỏ tên này và bắt đầu làm việc với Sun Microsystems và đi
đến đồng ý sử dụng Java. JavScript không đại diện ngôn ngữ Java, hai ngôn ngữ này có một
vài điểm chung, có khả năng gọi lẫn nhau. (Bảng 1.1).
Bảng 1.1: Các đặc tả của Java và JavaScript
Java JavaScript
Chương trình phải được dịch thành mã byte
để thực thi ở phía client
Chương trình được thông dịch ở phía
client ngay khi khởi tạo
Hướng đối tượng. Applets bao gồm các đối
tượng miêu tả sử dụng các lớp cũng với tính
thừa kế
Dựa đối tượng. Không có lớp cho cơ chế
thừa kế
Các Applet được gọi từ các trang Web, nhưng
được lưu trữ riêng trong các tệp (nằm ngoài
văn bản Web)
Chương trình được gòi từ các trang

Web, nhưng được xây dựng bên trong tài
liệu Web
Tất cả kiểu dữ liệu và biến phải được miêu ta
trước khi xử dụng.
Các kiểu dữ liệu và biến không cần phải
khai báo
Ràng buộc tính. Các liên kết đối tượng phải
tồn tại tại bược biên dịch
Ràng buộc động. Các liên kết đối tượng
được kiểm tra trong xuốt quá trình thực
thi
Không thể ghi vào đĩa hoặc thực hiện các
chức năng hệ thống
Không thể ghi vào đĩa hoặc thực hiện
các chức năng hệ thống
Javascript là ngôn ngữ thông dịch, đơn giản, dựa vào các hàm hướng đối tượng. Sự dễ dàng là
nguyên nhân … Bản chất hướng đối tương của Javascript được chứng tỏ bởi khả năng của
21
hoạt động với các cửa sổ trình duyệt, thanh trạng thái và các đơn vị khác của giao diện trình
duyệt và các đối tượng mạng trong hệ đẳng cấp. Javascript không phải phong phú như ngôn
ngữ Java, nhưng nó thuận lợi hơn, hiệu quả hơn cho một số các tác vụ liên quan đến xử lý các
tài liệu Web và cho sự tương tác với người dùng khi hiển thị các tác vụ đó. Đây là ngôn ngữ
với số lượng lớn về cậu lệnh và chức năng được xây dựng sẵn. Các chương trình được viets
bằng Javascript có thể cung cấp các hộp đối thoại, thực hiện các phép toán học, chơi được các
tệp video, audio, tạo ra các tài liệu, xử lý các đối tượng button trong form và rất nhiều đối
tượng khác. Cùng với sự trợ giúp của JavaScript, có thể thiết lập các thuộc tính va đặc tính
của nhưng thư viên nhị phân Java, và hơn thể nữa là các mô dun chương trình được bổ sung
vào trong trình duyệt
Các câu lệnh JavaScript được viết trực tiếp trong trang Web, và được thực hiện bởi trình
duyệt trong khi trang này được nạp, hoặc trong khi các thao tác mà người dùng thực hiện

tương tác với trang Web (ví dụ, khi click vào các đối tượng bằng chuột, vị trí của con trỏ
chuột tại vị trí liên kết, hoặc nhập dữ liệu trong các trường của mẫu HTML). Cũng như bất kì
công nghệ hay ngôn ngữ nào được sử dụng trong mạng máy tính, xử lý thông tin an toàn là
yêu tiên hàng đầu. Mặc dù Javascript không được xem là ngôn ngữ có tính bảo mật cao, nó
đáp ứng được phần lớn các yêu cầu này. Một vài chức năng dẫn đến việc dễ bị tấn công
không tồn tại trong ngôn ngữ Javascript, chính vì vậy cung cấp tính bảo mật theo một cách
thức không trực tiếp. Các chương trình được viết trong JavaScript, cũng như trong Java, bị
ngăn cấm thực hiện các thao tác đối với các tệp cục bộ. Vì vậy, một chương trình không có
khả năng thay đổi hoặc dành được quyền truy cập tới dữ liệu của người dùng. Nói chung,
JavaScript không hỗ trợ các chức năng mạng. Ví dụ, một chương trình không thể mở cổng
TCP/IP, và chỉ có khả năng nạp các đối tượng tới địa chỉ đã cho và tạo ra dữ liệu truyền đến
máy chủ Web. Các trình duyệt cho phép người dụng thiết lập các mức an toàn và điều khiển
các mức này, vì vậy các chương trình được viết bằng JavaScript chỉ có thể tập trung vào một
vùng xác định thông tin.
Những bất lợi của Javascript đó là tốc độ thực thị tương đối thấp, bởi vì bản chất thông dịch
của ngôn ngữ. Bất lợi này cũng chính là đặc tính của các ngôn ngữ lập trình biên dịch.
Một vấn đề quan trọng cần chú ý đó là phiên bản của Netscape và Microsoft là khác nhau. Sự
khác nhau có thể dẫn tới sự không tương thích. Vì vậy, khi viết các ứng dụng trong Javascript,
cần kiểm trả sự tương thích dịch vụ trong môi trường của chương trình
Microsoft VBScript tương tự như Javascript trong rất nhiều khía cạnh. VBScript là tập con
của ngôn ngữ Visual Basic, hướng tới lập trình cho các trang Web. Có thể phát triển rất nhiều
đối tượng bao gồm các thành phần chương trình của các ngôn ngữ khác, trong trang Web
trong khi sử dụng VBScript. Ví dụ, applet Java và các điều khiển ActiveX có thể được lưu
trong trang Web, để dễ dàng tương tác với người sử dụng
Không giống như Javascript và VBScript, ngôn ngữ VRML, được thiết kế bởi Silicon
Graphics, được định hướng cụ thể trợ giúp tạo ra các chương tình thông dịch giả lập thế giới
ảo 3D. Các trình thông dịch VRML được gắn vào bên trong trình duyệt, tương tự như các mô
dun chương trình. Các mã nguồn của chương trình trong ngôn ngữ VRML được lưu trong tệp
VRML riêng và được gọi bởi liên kết từ văn bản Web khi đó nó được xem trong trình duyệt.
Kích vào liên kết như vậy dẫn tới mở của sổ riêng, cho phép người dùng thưởng thức chương

trình.
22
1.2.2.3 Công nghệ ActiveX
ActiveX là tập hợp các công nghệ của Microsoft tập trung vào việc bổ sung, tích hợp và thống
nhất các phương thức biểu diễn và xử lý thông tin hiện thời trong mạng máy tính. Công nghệ
này được xây dựng sẵn phù hợp với kiến trúc Web. Ý tưởng của các công nghệ ActiveX nằm
ở cách thức giống nhau của việc truy cập tới tất cả các nguồn tài nguyên thông tin (hình 1.14).
Công nghệ Web được lựa chọn như là nền tảng cho cách thức đồng nhất của việc truy cập.
Hình. 1.14: Truy cập đồng bộ đến các nguồn tài nguyên thông tin mạng
Theo triết lý ActiveX, trình duyệt Web sẽ trở thành một phần không thể thiếu của hệ điều
hành. Hơn thế nữa, các phương thức để dành được truy cập đến bất kì thông tin trên máy tính
của người dùng, trên máy chủ của mạng cục bộ hoặc trên Internet sẽ là giống nhau, trong suốt
đối với người dùng. Khái niệm này được thực hiện trong phiên bản trình duyệt Internet
Explorer 4.0
Về mặt phát triển các chương trình hay biến động, một mặt tập các công nghệ ActiveX là sự
lựa chọn thay thế công nghệ Java và JavaScript, mặt khác nó là phần bổ sung thiết yếu cho
các công nghệ Java và Javascript. ActiveX không những cung cấp sự phát triển và thực thi
của các chương trình di động, mà còn thực hiện nhiều khả năng bổ sung như gọi các hàm để
xem và sửa Word, Excel, PowerPoint từ môi trường Web. ActiveX tạo ra tập hợp các hàm
API ( Application programming Interface - thực hiện cả phía trạm và chủ) có hiệu lực với các
nhà lập trình và tác giả của tài liệu Web.
ActiveX hỗ trở các kiểu chương trình di động sau, mà có thể được gắn vào tài liệu Web và
truyền đến máy trạm để thực thi (hình 1.1.5)
 Các điều khiển ActiveX
 Java applets
 Các chương trình được viết trong các ngôn ngữ kịch bản như JavaScript, VBScript và
VRML
23
Hình. 1.15: Sự di chuyển của các chương trình trong khi sử dụng công nghệ ActiveX
Những công nghệ cho việc phát triển và sử dụng các điều khiển ActiveX, và ngoài ra các

chương trình được viết trong ngông ngữ Macro VBScript được phát triển bởi Microsoft.
Hệ thống rộng lớn phần mềm của Microsoft hoạt động trên máy chủ đảm bảo tính hiệu quả
của các công nghệ ActiveX, đặc biệt trên hệ điều hành Windows NT và IIS. Sự tương tác máy
chủ Web IIS với các ứng dụng, hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu (DBMS) được cung cấp thông
qua giao diện ISAPI (Internet server API) và CGI (Common gateway Interface) thực thi
trong IIS.
Điều khiển ActiveX miêu tả các chương trình có khả năng thực thi, mà các chương trình này
có thể được nạp từ máy chủ để thực hiện trên máy trạm. Cũng như cách dùng Java applet, các
liên kết đến các chương trình được xác định trong văn bản Web. Điều khiển ActiveX không
chứa các thành phần cấu tạo tài liệu Web. Chúng được lưu trữ trong tệp riêng trên máy chủ.
Sự khác biệt của các thành phần điều khiển ActiveX so với Java applets:
 Các chương trình ActiveX Controls bao gồm mã có khả năng thực thi, phụ thuộc vào
nèn tảng “phần cứng-hệ điều hành). Mã byte của Java applet độc lập nền tảng.
 Các đơn vị nạp của ActiveX Controls giữ nguyên trên hệ thống máy trạm, ngược lại,
nó được nạp mồi khi Java applet được yêu cầu.
 Khi các chương trình ActiveX Controls không làm theo cách thức tương tư như Java
applets dưới điều khiển của việc quản lý bảo mật, các chương trình có thể dành được
truy cập tới đĩa và thực hiện các chức năng khác cho các ứng dụng
Vì các chương trình ActiveX Control là các ứng dựng đã được lập trình, các ứng dụng này có
thể được phát triển và có thể thực hiện các thao tác cùng với sự trợ giúp của bất kì ngôn ngữ
lập trình nào. Vì mục đích này, các công cụ phát triển như Visual C++, Visual Basic, Delphi,
Visual J ++ và một số ngôn ngữ khác có thể được sử dụng. Microsoft đã phát triển một gói
công cụ được gọi là Microsoft ActiveX Developent Kit (MADK)
Các thành phần ActiveX, cũng như các chương trình được viết bằng ngôn ngữ Javascript và
VBScript có thể gọi các hàm API AcitveX để biểu diện số dịch vụ như sau:
 Tạo ra tính hiệu qua đa phương tiện chất lượng cao
 Mở và xủa đổi các tài liệu điện tử, bằng việc gọi các ứng dụng hỗ trợ chuẩn nhúng và
liên kết đối tượng (OLE- Object linking, and embedding)
24
 Truy xuất tới hệ điều hành để tối ưu các tham số thực thi của chương trình dành được

từ máy chủ
Những chương trình được viết bằng JavaScript và VBScript có thể tự động tương tác giữa
nhiều đối tượng, bao gồm Java applets, thành phần ActiveX và các chương trình khác trên
máy trạm, cho phép các đối tượng làm việc với nhau như là một phần của sự tích hợp, không
gian Web động. Có thể tạo ra ngôn ngữ macro tùy biết, và bổ sung bộ thông dịch vào trình
duyệt IE, cùng với sự trợ giúp của thư viện liên kết động (DLL).
So sánh với Java, công nghệ ActiveX có những điểm lợi và bất lợi. Điểm bất lợi chính là mức
bảo mất thấp về mặt xử lý thông tin phân tán. Các thành phần ActiveX nạp trong máy trạm có
thể truy cấp tới bất kì phần nào của hệ thống, tương tự như đối với các ứng dụng thông
thường. Trong framework ActiveX, Microsoft đã thực hiện bảo vệ sự riêng tư dựa trên sự
chứng nhận số. Nhưng chứng nhận này cung cấp tính xác thực xác nhận các thành phần
chương trình được nạp từ mạng. Tuy nhiên, việc xác nhận tính xác thực không có nghĩa là xác
nhận tính bảo mật. Về khía cạnh bảo mật , lược đồ bảo mật của Activẽ có thể không hiệu quả
khi người dùng nạp thành phần ActiveX từ Internet, đặc biệt nếu các thành phần này không rõ
nguồn gốc.
Cũng vào thời điểm đó, không giống như Java applets, các thành phần ActiveX cho phép thực
hiện các hàm phù hợp phát triển chương trình ứng dụng. Chức năng này là điểm lợi cho mạng
công ty, với điều kiện phải giới hạn tính bảo mật thích hợp được thiết lập (ví dụ, đồng ý cho
phép nạp các điều khiển ActiveX từ máy chủ công ty)
Về mặt thực thi, vì Java là ngôn ngữ thông dịch, Java applet được thực hiện trên máy ảo của
hệ thốn máy trạm với tốc độ thấp hơn so với các điều khiển ActiveX Controls. Nhưng, về khía
cạnh khác, Java applets rất cô đọng, vì thế nó được nạp rất nhanh. Nạp các điều khiển
ActiveX yêu cầu nhiều thời gian hơn. Cần phải để ý rằng các chương trình Activex Control
lưu lại trong hệ thống máy trạm, ngược lại nạp tất các Java applet mỗi lần mới. Liên quan đến
độ an toàn, thuộc tính này là một bất lợi, khi nó phân tán sự tập trung của hệ thống ứng dụng.
Nhưng nếu quan tam về khả năng thực hiện, đó là lợi thế của ActiveX so với Applet
Vì độc lập với phần cứng và OS, ActiveX ở vị trí thứ hai đối vớivới công nghệ Java. Mặc dầu
phát biểu của Microsoft đó là ActiveX cung cấp đa nền hộ trợ cho Macintosh, Windows, và
các hệ điều hành Unix, công nghệ ActiveX hoạt động trên các nền tảng Windows tốt nhất, bởi
vì chúng được phát triển cho việc sử dụng các hàm xây dựng trong các hệ điều hành

Windows. Do đó, ActiveX có thể được xử dụng đối với toàn bộ khu vực trong hoạt động
mạng dưới sự điều khiển của các hệ điều hành Windows.
1.2.3. Truy xuất tới cơ sở dữ liệu quản hệ
Trong kiến trúc khách/chủ dựa vào công nghệ Web, máy chủ Web đóng vai trò như trung tâm
thông tin, cung cấp thông tin từ nhiều nguồn mà sau đó, nó sẽ đệ trình tới người dùng theo
một cách thống nhất, với sự trợ giúp của trình duyệt. Sự tích hợp ngay thông tin không đồng
nhất được thực hiện trong thời gian mường tượng và biên dịch các tài liệu Web. Các thủ tục
này được thực hiện bởi trình duyệt trong thời gian tương tác với máy chủ Web, cũng như với
máy chủ khác cho việc đề trình các nguồn tài nguyên thông tin.
Sự tương tác của trình duyệt với máy chủ của hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu (DBMS server)
có thể được thiết lập trong 2 cách sau:
 Truy cập đến máy chủ DBMS thông quá máy chủ Web
25

×