Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403 KB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất của một nền sản xuất lớn,
hiện đại nên nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế là rất cao. Trong khi
đó, tuy thị trường chứng khoán ở nước ta đã ra đời nhưng việc huy động vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế chưa nhiều, do đó, nhu cầu vốn trung và dài hạn
của nền kinh tế chủ yếu vẫn do hệ thống ngân hàng thương mại, trong đó chủ yếu
là các ngân hàng thương mại quốc doanh cấp. Đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
đang ngày càng khẳng định vị thế của mình trong hệ thống các ngân hàng thương
mại.
Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, tín dụng trung và dài hạn đối với
doanh nghiệp Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng. Đối với các ngân hàng,
hoạt động này đóng góp không nhỏ vào tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đối với
các Doanh nghiệp nhà nước, nó đáp ứng vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước để
họ thực hiện vai trò to lớn của mình: là lực lượng mở đường, hỗ trợ và định
hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế- xã hội;
góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của đất
nước, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và đặc biệt sẽ là lực lượng quan trọng để
Nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Hoạt động trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp nhà nước tại Sở giao dịch
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhưng
vẫn còn một số mặt hạn chế, do đó chưa phát huy được hết khả năng to lớn của
mình.
Với ý nghĩa này, việc tìm hiểu về tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh
nghiệp nhà nước để nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động này là vô cùng
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
quan trọng. Chính vì vậy, em xin lựa chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao
dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
Em xin trình bày bố cục luận văn thành 3 chương:


Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN).
Chương 2: Thực trạng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà
nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (SGD
NHĐT&PTVN).
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch, em đã nhận được sự chỉ bảo và
hướng dẫn rất tận tình của các cán bộ trong Sở. Đồng thời, để hoàn thành được
luận văn này, em đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo của giảng viên- Ths. Phan
Thị Hạnh. Em xin chân thành cảm ơn!
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN ĐỐI VỚI DNNN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1.1.1. KHÁI NIỆM TÍN DỤNG
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế thì thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
• Xét trên giác độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển
dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
• Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
• Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng.
• ....
Như vậy có nhiều cách hiểu về “ tín dụng”, tuy nhiên theo quan điểm của em
thì tín dụng có thể được hiểu là: sự vay mượn hoặc sử dụng vốn của nhau dựa
trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng.

Căn cứ vào hai tiêu thức là chủ thể và đối tượng tín dụng thì quan hệ tín dụng
gồm có các loại hình: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà
nước, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế. Trong mỗi loại
hình này, tín dụng lại được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu, em chỉ xin đề cập đến “tín dụng” gắn liền với chủ
thể nhất định là ngân hàng. Theo đó, tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ (cho
vay) của ngân hàng cho khách hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp
tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương
phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Tín dụng ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau căn cứ vào nhiều
tiêu thức khác nhau. Trong đó, phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối
với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín
dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng
được phân thành:
• Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động
của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Ngân hàng
có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn
mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân
chuyển.
• Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm (theo quy định của ngân
hàng nhà nước Việt Nam), tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải,
trang thiết bị chóng hao mòn, mở rộng sản xuất kinh doanh hay để xây dựng các
dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp,
chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các
vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín
dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các
doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.

• Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30
năm, nhiều trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm, tài trợ cho công trình xây
dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có
thời gian sử dụng lâu.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn,
nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ
trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
Ở các nước khác nhau, những ngân hàng khác nhau có thể có những cách quy
định khác nhau về thời gian trung và dài hạn.
1.1.2. PHÂN LOẠI TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng
nó lại rất quan trọng vì nó là cơ sở khoa học để thiết lập quy trình tín dụng một
cách thích hợp đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng,
nâng cao chất lượng tín dụng.
Cũng như tín dụng nói chung, ta có thể phân chia tín dụng trung và dài hạn
theo những tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào loại khách hàng:
 Cấp tín dụng cho doanh nghiệp: Ngân hàng cấp tín dụng cho những tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Quy mô của hầu hết các khoản vay này là lớn, lãi suất thay đổi theo điều kiện thị
trường.
 Cấp tín dụng cho cá nhân: các cá nhân có thể sử dụng vốn vay từ ngân
hàng nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng nhưng chủ yếu là để tiêu dùng.
Quy mô khoản tín dụng thường nhỏ hơn so với khoản cấp cho các doanh nghiệp,
lãi suất thường “cứng nhắc” và cao.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B

 Cấp tín dụng cho các đơn vị khác: các đơn vị như các tổ chức xã hội cũng
cần vốn với nhiều mục đích khác nhau, để giải quyết sự thiếu hụt vốn họ cũng có
thể vay từ ngân hàng.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo:
 Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp: Để giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng của mình
phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp. Và trên nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của
ngân hàng đều có đảm bảo.
 Tín dụng không đảm bảo bằng tài sản (Gồm: tín chấp và bảo lãnh bằng uy
tín). Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có
uy tín, trung thực trong kinh doanh, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên
có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, quản trị có hiệu quả, ít xảy ra tình trạng nợ
nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản
cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm
bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc
những khoản cho vay mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng
có thể không cần tài sản đảm bảo.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
 Cho vay kinh doanh: các cá nhân, tổ chức vay vốn từ ngân hàng để mở
rộng sản xuất; đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mới...nhằm tăng lợi nhuận, nâng
cao doanh số...chứ không phải để thỏa mãn các nhu cầu (ăn, mặc...) của cá nhân.
 Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính
quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe
cộ, du lịch, giáo dục, y tế...Việc cho vay tiêu dùng giúp các ngân hàng mở rộng
quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho
ngân hàng đồng thời tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng. Với người tiêu dùng, nhờ
vay tiêu dùng mà họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc

biệt quan trọng hơn là nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các
chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế.
- Căn cứ vào phương thức quản lý:
 Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Tức là trong loại
tín dụng này có mối quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng trong toàn
bộ quá trình từ khi nộp hồ sơ vay vốn, phân tích thẩm định, ra quyết định cho
vay, giải ngân, thu nợ... đến khi thanh lý hợp đồng vay.
 Tín dụng gián tiếp: khác với tín dụng trực tiếp là có sự tham gia của các tổ
chức trung gian trong toàn bộ tiến trình cho vay. Các tổ chức trung gian có thể là:
Tổ, đội, hội, nhóm (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân...); hay những
người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất.
Hình thức này có rất nhiều ưu điểm: giảm thời gian, chi phí đi lại trong việc
làm thủ tục vay của người vay vốn, đồng thời thông qua các hội, tổ, nhóm thì
người vay sẽ được phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản
lý vốn, giúp người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đạt kết quả, tránh rủi ro trong
quá trình kinh doanh... Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ chủ động chuẩn bị vốn
để cho vay, sắp xếp lịch giải ngân hợp lý, tránh ùn tắc hay quá tải vào cao điểm
vụ sản phẩm. Tuy nhiên, hình thức cho vay này bộc lộ khuyết điểm là các trung
gian có thể lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ
tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho
riêng mình.
- Căn cứ vào mức độ rủi ro: Xem xét về mặt rủi ro hay tính an toàn, tín dụng có
thể ở các “cung bậc” khác nhau: khoản có mức độ an toàn cao, khá, trung bình và
thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
căn cứ để chia loại rủi ro. Xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến
cao, nhiều ngân hàng có thể chia tới rất nhiều thang bậc rủi ro. Cách phân loại
này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ
cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đồng thời để đánh giá chất lượng tín dụng.

 Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
 Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính...
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn...
 Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì...
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
 Tín dụng có thời hạn: là loại tín dụng có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Trong loại này lại được phân chia tiếp, bao gồm:
 Tín dụng chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại chỉ thanh toán một lần theo
thời hạn đã thỏa thuận.
 Tín dụng có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là tín dụng trả góp:
là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
Loại này thường được áp dụng rộng rãi trong cho vay bất động sản nhà ở
thương mại, cho vay tiêu dùng...
 Tín dụng không có thời hạn cụ thể: đối với loại này thì ngân hàng có thể
yêu cầu hoặc để người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo
trước một thời gian hợp lý (có thể được thỏa thuận trong hợp đồng).
- Căn cứ vào các tiêu thức khác:
 Theo ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...).
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
 Theo số lượng ngân hàng tham gia cấp tín dụng (Do một ngân hàng thực
hiện; đồng tài trợ).
- Bàn thêm về một số loại tín dụng trung và dài hạn khác:
 Tín dụng tuần hoàn: là một hình thức cho vay, trong đó ngân hàng cam kết
chính thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất
định. Cần chú ý rằng, cam kết này có thể kéo dài từ 1 đến 3 hoặc 5 năm, chính vì

vậy đây cũng là một loại tín dụng trung và dài hạn.
Khi có nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp có thể sử dụng các
biện pháp để huy động vốn như: phát hành các chứng khoán, vay ngân hàng, vay
các tổ chức tín dụng khác...tuy nhiên, việc phát hành những chứng khoán mua,
bán trên thị trường không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ
cho các hoạt động của họ vì rất mất thời gian để tiến hành công việc này trong
khi cơ hội thì lại “đến” và “đi” rất nhanh. Chính vì vậy, nguồn vốn được tài trợ từ
ngân hàng là vô cùng quan trọng. Họ có thể vay ngân hàng dưới hình thức tín
dụng tuần hoàn để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài sản lưu động, sử dụng khi
ngân hàng chưa xác định được phần tài sản lưu động thường xuyên của doanh
nghiệp.
 Tín dụng thuê mua: là hình thức vay tài sản thông qua một hợp đồng tín
dụng thuê mua.
Khách hàng thường đến vay ngân hàng với mục đích là mua tài sản. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể đáp ứng được các điều kiện
để vay. Để giúp khách hàng có thể thực hiện được mục đích, đồng thời không để
bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, các ngân hàng đã tiến hành mua tài sản theo yêu cầu
của khách hàng và cho khách hàng thuê lại. Tài sản này không nằm trong tài sản
của doanh nghiệp mà nằm trong tài sản của ngân hàng, chính vì vậy ngân hàng có
thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được.
Điều này góp phần làm giảm thiệt hại cho ngân hàng. Thông thường, để thực
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng thường thiết lập các công ty còn để chuyên
quản. Công ty con này có nhiệm vụ nghiên cứu cùng với bên vay để lựa chọn các
máy móc, trang thiết bị thích hợp để thực hiện hợp đồng thuê mua.
1.1.3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai trò
như hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:
 Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các

cá thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền
kinh tế: hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ
chức, cá nhân luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để đi
lên. Một trong những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh tranh
hiện nay là sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn ở
người thân, bạn bè...còn gọi là vay nóng thì việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở
các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu về vốn là rất thường xuyên.
 Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát
tiền tệ).
Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh hay
mua những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở thành
một khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất khó
khăn đối với chỉ một người hay một nhóm người mà họ không được mọi người
trong xã hội biết đến. Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng tiền lớn,
nhiều công trình, dự án cần vốn lớn để đầu tư…Để kết nối những trường hợp trên
lại, chúng ta phải nhờ đến các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là các ngân hàng.
Cũng thông qua hoạt động này của ngân hàng, số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
giảm xuống vì họ có một nơi để “đầu tư” kiếm lời thay vì cất giữ ở nhà, do đó
lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm, khắc phục lạm phát tiền tệ.
 Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do
chiến tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được
xếp là “nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật…của nước ta là rất
lớn. Để tiến lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về
nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà

nước cần phải phân bổ các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong
những cách để làm điều đó là thông qua hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng
trung và dài hạn. Với cách này, khi Nhà nước muốn mở ra hay phát triển một
ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có những khuyến khích trong chính sách tín dụng
như có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo trong việc vay vốn…
để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến và thực hiện đầu tư.
 Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh
tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền
kinh tế đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển luôn
có nhu cầu lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản ánh một
phần về hoạt động kinh doanh của một đất nước.
Đồng thời, với chức năng này, đồng tiền được sử dụng để xây dựng các thước
đo, chỉ tiêu và xác định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp
lệ hay không, có hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc
tổng hợp, kiểm soát các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
1.1.4.CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1.1.4.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng
Trong thời gian qua, hoạt động của các ngân hàng đã đạt được nhiều thành
công, đóng góp một phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng vẫn còn có nhiều khó
khăn đe dọa đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng nói riêng và của toàn xã hội
nói chung; vẫn còn nhiều mối quan tâm, lo ngại cần các ngành, các cấp giải
quyết. Một trong những mối quan tâm lo ngại đó chính là chất lượng tín dụng của
các ngân hàng. Cho đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về hệ thống các chỉ tiêu
đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Chính vì vậy, việc xây dựng một
hệ thống như vậy là cần thiết không chỉ đối với đội ngũ thanh tra trong quá trình
thực hiện thanh tra, kiểm soát các ngân hàng thương mại mà còn là cơ sở để các
ngân hàng thương mại tự đánh giá độ an toàn và chất lượng của đồng vốn mà họ

cung cấp cho các khách hàng.
Vậy chất lượng tín dụng là gì? Có thể hiểu: chất lượng tín dụng là sự đáp ứng
yêu cầu của khách hàng ( bao gồm cả người gửi và người vay), phù hợp sự phát
triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Với khái
niệm này, chất lượng tín dụng được thể hiện ở cách khía cạnh sau:
• Đối với ngân hàng thương mại:
Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng của ngân hàng
và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng
thời hạn và có lãi.
• Đối với khách hàng:
 Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng phải có thái độ đón tiếp, hướng dẫn
và phục vụ khách hàng một cách hòa nhã, ân cần.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
 Thủ tục đơn giản.
 Phục vụ nhanh nhất cho khách hàng trong phạm vi thờigian quy định.
 Đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền theo hợp đồng tín dụng đã ký.
 Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng.
• Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hóa; giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người đi
vay cũng như người cho vay, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh
tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng.
Với việc phân tích trên đây ta thấy rằng:
• Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể lại vừa trừu tượng vì nó
vừa có thể được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định lượng như kết quả kinh
doanh, nợ quá hạn…lại vừa được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định tính
như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…Đồng thời,
chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như khả
năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ..và các nhân
tố khách quan như sự thay đổi của môi trường bên ngoài, sự cố ý của

khách hàng…
• Chất lượng tín dụng phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương
mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của
ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Chính vì vậy,
nó là một chỉ tiêu tổng hợp.
• Chất lượng tín dụng được biểu hiện thông qua các yếu tố: thủ tục đơn giản,
mức độ an toàn của vốn tín dụng…và một điều quan trọng mà chúng ta
đều phải thừa nhận về chất lượng tín dụng là: nó không tự nhiên mà có, nó
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
là kết quả của sự kết hợp “ăn ý” giữa nhiều người trong một tổ chức, giữa
các tổ chức với nhau vì một mục đích chung.
1.1.4.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Như đã đề cập ở trên, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa mang tính định
lượng lại vừa mang tính định tính. Với những chỉ tiêu định tính, việc xác định là
hết sức khó khăn, nó chỉ mang tính tương đối. Với nhóm chỉ tiêu định lượng, có
dễ dàng hơn nhưng vẫn có nhiều tranh cãi, theo quan điểm của em thì hệ thống
phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn gồm các chỉ tiêu:
 Chỉ tiêu định lượng
• Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ gia hạn trung và dài hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn trung -
dài hạn và tổng dư nợ trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại ở một thời điểm
nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Nợ gia hạn về bản chất cũng
là nợ quá hạn nhưng đã được tăng thêm thời hạn vay. Tỷ lệ này làm rõ trong dư
nợ ngoài phần nợ thực sự quá hạn thì đã có bao nhiêu phần trăm quá hạn.
Vì tín dụng là việc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự
tin tưởng nên trong hoạt động tín dụng, tính an toàn (khả năng hoàn trả của người
vay) là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản
vay không được trả một đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng
thì nó đã vi phạm nguyên tắc trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và nó bị
chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế,

phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn,
tức là tính an toàn thấp.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro xảy ra cho ngân hàng là điều đương nhiên
và do đó việc tồn tại nợ quá hạn và nợ gia hạn là không thể tránh khỏi. Tuy
nhiên, nếu một ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn thì nó sẽ gặp
nhiều khó khăn trong kinh doanh vì có thể bị mất vốn, ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán và làm giảm thu nhập của ngân hàng, nặng hơn nữa thì ngân hàng có
thể đi đến bờ vực phá sản. Còn nợ gia hạn là một biện pháp giúp khách hàng vượt
qua những khó khăn tạm thời nhưng nếu quá nhiều khoản được gia hạn nợ thì
chứng tỏ danh mục cho vay của ngân hàng thương mại thực sự đang có vấn đề.
Ngân hàng nào có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ gia hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng
tín dụng thấp, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh ở thời điểm hiện tại cũng như
trong tương lai.
• Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Khoản mục tín dụng thường chiếm khoảng 70% tổng tài sản, trong đó có sự
đóng góp không nhỏ của tín dụng trung và dài hạn. Với quy mô đó, hoạt động tín
dụng trung và dài hạn mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng; có ảnh hưởng cũng
lớn đến rất nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh của ngân hàng, dự trữ, đầu tư,
vay… chính vì lý do đó mà có thể nói rằng chỉ tiêu này cũng rất quan trọng trong
việc đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa vào chỉ tiêu này ta còn có thể tính thêm
được một vài chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng tín dụng như:
Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn
Tỷ lệ sinh lời trung và dài hạn =
Tổng dư nợ trung và dài hạn
Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn
Tỷ lệ lợi nhuận trung và dài hạn =
Tổng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
• Chỉ tiêu quay vòng vốn:

Thu nợ trung-dài hạn
Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn =
Dư nợ tín dụng trung-dài hạn BQ
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trung và dài hạn
(thường là một năm). Đây là một chỉ tiêu quan trọng thường được các ngân hàng
tính toán để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín
dụng trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chỉ tiêu này càng tăng càng phản
ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao.
• Cơ cấu vốn đầu tư:
Mục đích của các ngân hàng là an toàn và sinh lời (bên cạnh các mục tiêu
thực hiện chính sách của nhà nước) vì vậy trong hoạt động tín dụng nói riêng và
các hoạt động khác nói chung của ngân hàng luôn có sự cân nhắc giữa an toàn và
sinh lời. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng
nếu cho vay quá nhiều mà không quan tâm đến khả năng thanh toán của ngân
hàng thì rủi ro cũng sẽ rất cao, tức là tính an toàn thấp. Hơn nữa, nếu ngân hàng
cho vay quá nhiều trong một ngành, lĩnh vực nào đó mà không đa dạng hóa các
lĩnh vực đầu tư thì như người ta thường nói, ngân hàng đã “đặt quá nhiều trứng
trong một rổ”, không phân tán được rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải quyết định
quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa bảo đảm an toàn
vốn lại vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất.
• Giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người
vay:
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
Để vay được tiền từ ngân hàng, các cá nhân, doanh nghiệp sẽ phải áp dụng
các biện pháp để bảo đảm tiền vay, các biện pháp đó có thể là: tín chấp, bảo lãnh,
có tài sản cầm cố, thế chấp. Trong trường hợp hoạt động kinh doanh của người
vay thua lỗ, không thể lấy từ lợi nhuận để trả ngân hàng:
 Nếu là bảo lãnh, tín chấp: người vay phải bán tài sản để trả nợ ngân hàng.
 Nếu là vay có tài sản đảm bảo: ngân hàng sẽ là người bán tài sản đó đi để
xiết nợ. Nếu số tiền bán được lớn hơn số tiền vay thì sau khi trừ đi khoản

nợ, ngân hàng sẽ phải trả lại người vay, nếu số tiền bán được lại nhỏ hơn
số tiền vay thì ngân hàng sẽ phải chịu lỗ.
Ta gọi chung khoản tiền thực mà ngân hàng thu được từ việc bán tài sản của
khách hàng là A, tổng doanh số thu nợ là B. Khi đó xác định được chỉ tiêu:
Tỷ lệ thanh toán nợ do việc bán tài sản của người vay =A/B
 Chỉ tiêu định tính:
• Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng (qua uy tín, kết quả hoạt
động, các dịch vụ đi kèm như tư vấn…): Một ngân hàng sẽ không thể hoạt động
được nếu không có khách hàng. Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng
không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào
uy tín về chất lượng phục vụ, về quan hệ với các tổ chức tài chính khác...của
ngân hàng. Khách hàng sẽ không muốn giao dịch với những ngân hàng không có
uy tín vì rủi ro có thể xảy ra đối với họ làm gián đoạn quá trình kinh doanh, hoặc
làm mất đi cơ hội kinh doanh của họ. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể tăng khả
năng thu hút khách hàng thông qua các hoạt động đi kèm với hoạt động tín dụng
như: dịch vụ tư vấn, thẻ tín dụng...
• Tuân thủ các quy định do ngân hàng nhà nước đề ra trong lĩnh vực tín
dụng trung và dài hạn: Nhận thức được vai trò và chức năng của các ngân hàng
trong nền kinh tế, Nhà nước luôn có những chính sách quy định về hoạt động của
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
họ, mà một trong những quy định hết sức quan trọng đó là những quy định về
hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tuân thủ các quy định này của Nhà nước
chính là sự tuân thủ pháp luật, góp phần ổn định nền tiền tệ quốc gia, giúp cho
nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và bền vững - tăng chất lượng tín dụng của
ngân hàng.
• Góp phần vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước (đáp ứng vốn cho những ngành, lĩnh vực mũi nhọn nhờ đó đã giải quyết
công ăn việc làm cho nhiều lao động…): Hoạt động tín dụng mở rộng sẽ đáp ứng
nhu cầu vốn cho nền kinh tế: các dự án đầu tư có hiệu quả cao sẽ không bị thiếu
vốn, tức là nó có thể đi vào hoạt động, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho

nhiều người lao động, giải quyết một vấn đề vô cùng “bức xúc” của mỗi quốc
gia, và xét về mặt đóng góp cho xã hội-đó là chất lượng tín dụng.
Để đánh giá các chỉ tiêu trên một cách chính xác thì rất là khó vì nó là những
chỉ tiêu định tính, không tính toán được như những chỉ tiêu định lượng. Tuy
nhiên, trong khi so sánh với nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng cùng hoạt trong
một môi trường kinh tế, môi trường pháp lý...và cùng chịu sự chỉ đạo của các
chính sách thì ta cũng sẽ có thể dễ dàng đánh giá được các chỉ tiêu này. Và thông
qua đó, ta cũng có thể một phần thấy được chất lượng tín dụng của các ngân
hàng.
1.2. TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
1.2.1. TỔNG QUAN VỀ DNNN
1.2.1.1. Khái niệm
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc nhà
nước có cổ phần hoặc vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty cổ
phần nhà nước, công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân
sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do
doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên
lãnh thổ Việt Nam.
1.2.1.2. Đặc điểm
 Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước thành lập để thực
hiện những mục tiêu do nhà nước giao.
 Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có
cổ phần, vốn góp chi phối.
 Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của
pháp nhân theo quy định của pháp luật.
 Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa
là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi

số tài sản do doanh nghiệp quản lý.
1.2.1.3. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
 Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều
lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định. Công ty
nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công
ty nhà nước. Trong đó, Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế
trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà
nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức
và liên kết các đơn vị thành viên có mối liên hệ gắn bó với nhau về lợi ích
kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động
trong một hoặc một số chuyên nghành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị và toàn
tổng công ty.
 Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức liên
kết và tập hợp các công ty thành viên hạch toàn độc lập và có tư cách pháp nhân,
hoạt động trong một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường
tích tụ, tập chung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị.
 Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập là hình thức liên kết
thông qua đầu tư, góp vốn của công ty nhà nước quy mô lớn do Nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà nước giữ
quyền chi phối doanh nghiệp khác.
 Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là tổng công ty được
thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty trách
nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc
lập và các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên do mình thành
lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và quyền, nghĩa vụ
của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp đã
chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ công ty nhà nước độc lập.
 Công ty cổ phần nhà nước là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các

công ty nhà nước hoặc các tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn,
được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên: là công ty trách
nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức
quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là công ty
trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước
hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của
Luật doanh nghiệp.
 Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp
mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà
nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
1.2.1.4. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
• DNNN là lực lượng quan trọng để nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền
kinh tế:
Nhà nước nào cũng vậy, muốn điều tiết được nền kinh tế thì phải có một tiềm
lực kinh tế mạnh. Kinh tế nhà nước mà trong đó tiêu biểu là Doanh nghiệp nhà
nước sẽ là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra tiềm lực kinh tế mạnh để Nhà nước thực
hiện yêu cầu đó. DNNN có ở những khâu trọng yếu của nền kinh tế, cung ứng
phần lớn những tư liệu sản xuất chủ yếu và tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai
trò nòng cốt trong việc củng cố, phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống kinh tế
nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế. DNNN là một lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm cho
nền kinh tế phát triển ổn định, bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn
sàng ứng phó với những đột biến trong nền kinh tế. Trong các cuộc kháng chiến
cứu nước, DNNN đã khẳng định vị trí đó của mình và trong giai đoạn hiện nay,
khi nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, khi những biến động của nền
kinh tế thế giới cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta thì vai

trò đó càng thể hiện rõ hơn: DNNN cùng với nhiều loại hình doanh nghiệp khác
đã góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát…
• DNNN có vị trí then chốt trong kinh tế nhà nước; là lực lượng mở đường,
hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu
kinh tế, xã hội của đất nước.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
 Trong nền kinh tế, việc mở ra một loại hình kinh doanh mới sẽ luôn gặp
phải những khó khăn, trở ngại. Song, nếu không có người mở đường đi vào lĩnh
vực đó, thì nền kinh tế sẽ mất đi những cơ hội kinh doanh, mất đi tính cạnh tranh
trên thị trường quốc tế và do đó sẽ tụt hậu so với các nước khác. Vì vậy, để đảm
bảo hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội, cần thiết phải có các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực này. Đóng vai trò này không có ai khác ngoài các doanh
nghiệp nhà nước. Ở một khía cạnh khác, trong xã hội, bên cạnh những doanh
nghiệp hoạt động với mục đích kinh doanh thì phải có những doanh nghiệp khác
sản xuất các hàng hóa công cộng. Việc sản xuất các hàng hóa này thường đem lại
lợi nhuận thấp hoặc là sẽ có rất nhiều rủi ro trong việc đầu tư, nhưng xét trên
phạm vi toàn xã hội lại rất cần thiết cho sự phát triển như đường sá, cơ sở hạ
tầng, nghiên cứu khoa học…Ở những lĩnh vực đó cần thiết phải phát triển các
DNNN.
 DNNN có điều kiện về mọi mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các
quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội như giao thông, điện…DNNN có điều kiện để đi đầu trong việc tập trung
nghiên cứu, xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất những
hàng hóa mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu
cầu, đem lại lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng nhiều lao động, tạo điều kiện để
kinh tế trong nước phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới. DNNN có vai trò
quyết định trong việc thăm dò và cùng các thành phần kinh tế khác khai thác tài
nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, vừa khai thác có
hiệu quả tài nguyên, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. DNNN là tấm gương tiêu
biểu cho các thành phần kinh tế khác trong việc thực hiện chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước về mọi lĩnh vực, đặc biệt là giải quyết việc làm, thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật…và đóng góp một phần quan trọng vào
ngân sách nhà nước.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
• DNNN góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã
hội của đất nước từ đó đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội.
DNNN có mặt trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng trong cả
nước với sự phân bố hợp lý theo vùng, miền, địa bàn để phát huy lợi thế, khả
năng về mọi mặt. Do đó đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế từng vùng: phủ xanh đất
trống, đồi trọc; giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động,
giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền trong cả nước.
Hiện nay nước ta đang trong tiến trình cổ phần hóa (CPH) các DNNN vì CPH
là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất trong việc cơ cấu lại DNNN để DNNN có
cơ cấu thích hợp, quy mô lớn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế. Trong tương lai, khi nhiều DNNN được CPH thì số lượng các
DNNN tuy bị giảm đi nhưng chất lượng hoạt động của các DNNN sẽ tăng lên
đáng kể, từ đó loại hình doanh nghiệp này sẽ càng phát huy hơn nữa vai trò to lớn
của mình.
1.2.2.VAI TRÒ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
 Đối với ngân hàng thương mại:
Tín dụng trung và dài hạn tuy là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro hơn so
với tín dụng ngắn hạn đồng thời nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn nhưng hoạt
động này lại đem lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận lớn hơn.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động có đóng
góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, do đó sẽ góp phần
nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng thương mại.
 Đối với DNNN:
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
• Tín dụng trung và dài hạn tài trợ cho nhu cầu tài sản cố định và bộ phận tài
sản thường xuyên của doanh nghiệp do đó các doanh nghiệp có thể duy trì, mở

rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhu cầu về vốn để duy trì sản xuất kinh doanh đối với mỗi doanh nghiệp là
rất lớn, bên cạnh các nguồn khác có thể tài trợ vốn cho doanh nghiệp thì hoạt
động tín dụng trung và dài hạn sẽ cung cấp một lượng vốn quan trọng cho các
doanh nghiệp, giúp các DNNN tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình.
• Tín dụng trung và dài hạn tài trợ vốn, giúp các DNNN có một cơ cấu vốn
hợp lý đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
Vốn là một nhân tố cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ và vốn chủ
sở hữu. Trong đó, vốn của chủ có thể bao gồm vốn huy động bằng cổ phiếu
thường, cổ phiếu ưu tiên, lợi nhuận không chia. Tỷ trọng của các nguồn đó trong
tổng nguồn chính là cơ cấu vốn. Một cơ cấu vốn hợp lý không thể thiếu nợ vay,
hơn nữa doanh nghiệp sử dụng nợ sẽ tạo ra đòn bẩy tài chính, tức là việc sử dụng
nợ có thể giúp người vay tiền tạo ra các khoản thu nhập lớn hơn chi phí của
khoản nợ, làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Do đó có thể khẳng định rằng: tín
dụng nói chung và tín dụng trung – dài hạn nói riêng đã tài trợ vốn cho các doanh
nghiệp, giúp các doanh nghiệp có một cơ cấu vốn hợp lý.
Trong hoạt động tín dụng, để đảm bảo an toàn và giảm thiểu rủi ro thì các
ngân hàng không thể bỏ qua một khâu quan trọng: Kiểm tra, giám sát việc sử
dụng vốn của các doanh nghiệp trong quá trình tín dụng. Với công việc này, ngân
hàng đã không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân ngân hàng mà còn giúp các
doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có trách nhiệm hơn với đồng vốn đi
vay bởi vì chỉ cần phát hiện ra một trục trặc nhỏ về tình hình tài chính, kết quả
hoạt động kinh doanh…của doanh nghiệp là ngân hàng có thể thu hồi vốn lại.
Nhờ đó, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp sẽ được nâng cao.
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B
1.2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
Hoạt động tín dụng bao giờ cũng tiềm ẩn những rủi ro mà không một ai cũng
có thể dự đoán chính xác những vấn đề gì sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay

của khách hàng có thể thay đổi do nhiều nguyên nhân cũng như những biến động
của thị trường sẽ có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Phân tích để đưa ra được
những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là một việc làm quan trọng,
giúp ngân hàng có thể dự đoán được những gì có thể xảy ra, để từ đó tìm những
biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
ngân hàng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn
đối với doanh nghiệp nhà nước:
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng
 Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng:
Thông thường, mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng vì các
ngân hàng thường có những thế mạnh riêng. Tuy nhiên, các chiến lược kinh
doanh đó trước tiên phải phù hợp với chính sách phát triển chung của Nhà nước,
tiếp theo đó, chiến lược kinh doanh của ngân hàng phải phù hợp với khả năng
của mình. Một ngân hàng nhỏ, không có nhiều kinh nghiệm thì không thể theo
đuổi chiến lược kinh doanh là thâm nhập vào các thị trường cần nhiều vốn đầu
tư, rủi ro quá cao. Ta có thể lấy một ví dụ cụ thể như: nếu một ngân hàng có khả
năng huy động vốn trung và dài hạn không lớn thì không thể tiến hành chiến lược
kinh doanh là tập trung vào cho vay trung và dài hạn. Trong thời kỳ hiện nay,
mặc dù chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng có thể tập trung vào các đối
tượng khác nhau nhưng các ngân hàng thương mại đều đã cho vay trung và dài
hạn đối với tất cả các thành phần kinh tế, từ kinh tế tư nhân đến doanh nghiệp
Nhà nước, bằng nguồn vốn huy động ngắn hạn. Nhiều ngân hàng thương mại còn
NguyÔn Thu Ph¬ng Líp Ng©n hµng 43B

×