Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHÍNH uỷ, CHÍNH TRỊ VIÊN GIÁ TRỊ HIỆN THỰC của tư TƯỞNG đó đối với VIỆC THỰC HIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.86 KB, 26 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN.
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC
HIỆN NGHỊ QUYẾT 51 / NQ - TW HIỆN NAY
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước yêu cầu mới về nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trên cơ sở vững mạnh về chính trị đã và
đang đặt ra những yêu cầu rất cao phải củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội. Đồng thời là địi hỏi rất bức thiết về nâng cao chất
lượng tồn diện của đội ngũ cán bộ chính trị - lực luợng nịng cốt trong xây
dựng bản lĩnh chính trị, củng cố trận địa tư tưởng, xây dựng tổ chức, xây
dựng con người ở các đơn vị trong quân đội. Chính vì vậy, ngày 20/7/2005 Bộ
chính trị đã ra Nghị quyết số 51/NQ- TW “về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế
độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nhân dân Việt Nam”. Nghị quyết ra
đời đó là sự phát triển sáng tạo những giá trị cao cả trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nhân dân Việt Nam, là bài
học kinh nghiệm quý báu trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành
của qn đội, về vị trí vai trị của người cán bộ trong q trình lãnh đạo cách
mạng nói chung và vị trí vai trị của người cán bộ chính trị trong quân đội nói
riêng.
Trong tư tưởng Người cha thân yêu sáng lập, xây dựng, giáo dục và rèn
luyện quân đội ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chính trị. Do đó đội ngũ cán bộ chính trị trong
quân đội đã hình thành, phát triển và phát huy vai trị to lớn của mình trong
xây dựng qn đội vững mạnh về chính trị, cơ sở xây dựng quân đội vững
mạnh toàn diện hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân


2

dân giao cho. Trải qua 63 năm xây dựng và trưởng thành của quân đội đã


khẳng định và chứng minh vị trí, vai trị nổi bật của những người chủ trì cơng
tác đảng, cơng tác chính trị. Hình ảnh người chính uỷ, chính trị viên “Bộ đội
Cụ Hồ” qua các cuộc kháng chiến đã khắc sâu, in đậm trong tư tưởng tình
cảm của bộ đội và nhân dân ta, trở thành những giá trị tốt đẹp mà hôm nay và
mãi mãi về sau sẽ luôn được trân trọng và phát huy. Vì vậy, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ chính trị, đặc biệt là những luận điểm về chính
trị viên, khơng những có ý nghĩa về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn
hết sức to lớn làm cơ sở cho việc quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số
51/NQ- TW ngày 20/7/2005 của Bộ chính trị . Từ đó, vận dụng vào xây dựng
đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu nguồn gốc, cơ sở lý luận - tư tưởng và quá trình hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp
chúng ta nắm rõ bản chất cách mạng, khoa học, sáng tạo của Người trong quá
trình tiếp thu, kế thừa, phát triển nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin và các học
thuyết và tư tưởng khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ chính
uỷ, chính trị viên có thể khái qt trên những điểm sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên là kết quả của quá trình nghiên cứu và vận dụng đúng đắn sáng tạo lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên được xuất phát từ lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. V.I.Lênin chỉ ra những nguyên lý xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản cần đặc biệt chăm lo xây dựng bản chất
giai cấp công nhân; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội; thiết lập mối quan hệ máu thịt với nhân dân, thấm nhuần chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa quốc tế vơ sản chân chính; tiến hành tích cực, thường
xun có hiệu quả hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị; chăm lo xây


3


dựng và phát huy tốt vai trò của hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội.
V.I.Lênin đã khẳng định: “ở đâu mà cơng tác chính trị trong qn đội, cơng
tác của các chính uỷ làm được chu đáo nhất, thì ở đó nói chung, trong đó
chun gia qn sự ít thấy có khuynh hướng phản bội hơn cả, ở đấy có rất ít
cơ hội cho họ thực hiện ý định của họ, ở đấy khơng thể có tình trạng lỏng lẻo
trong quân đội, quân đội giữ gìn được trật tự tốt hơn và tinh thần của họ cũng
cao hơn, ở đấy thu được nhiều thắng lợi hơn” 1
Trong xây dựng quân đội kiểu mới, V.I.Lênin nhấn mạnh: trong khi
chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện cho quân đội để quân đội thực sự trung
thành và phục vụ lợi ích giai cấp vô sản, chúng ta cần hết sức chăm lo, củng
cố và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân cho qn đội, coi đó là vấn đề
sống còn của quân đội cách mạng, là một trong những nguyên tắc hết sức cơ
bản trong xây dựng quân đội kiểu mới. Khi đề cập đến vai trò của nhân tố
chính trị tinh thần, V.I.Lênin chỉ rõ: rốt cuộc mọi thắng bại trên chiến trường
đều tuỳ thuộc vào tâm trạng của người lính đang đổ máu trên chiến trường.
Tư tưởng về chính uỷ, chính trị viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn bắt
nguồn từ thực tế vai trị vị trí của chính uỷ của Hồng qn Liên Xơ trong cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa
phát xít. Cùng với nắm vững tư tưởng V.I.Lênin vận dụng sáng tạo có phê
phán những kinh nghiệm của Hồng quân Liên Xô và giải phóng quân Trung
Quốc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã phát huy cao độ, tồn diện sức mạnh cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, từ đó Người xây dựng nên
hình ảnh người chính uỷ, chính trị viên của quân đội nhân dân Việt Nam.
Người cán bộ chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh vừa có phẩm chất chung
của người đảng viên cộng sản trong thời đại mới, vừa có đức tính tốt đẹp thực
1

(V.I.Lênin toàn tập . tập 39, Nxb Tiến bộ M, 1979, trang 66).



4

sự tiêu biểu trong cốt cách của con người phương Đơng. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nói chung thì các dân tộc phương Đơng đều có tình cảm, và đối với họ
một tấm gương sáng cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” 2.
Trong mối quan hệ giữa cán bộ chính trị với chiến sĩ khơng chỉ có tình đồn
kết của những người cùng giai cấp, mà cịn có nghĩa tình sâu nặng như những
người thân thiết trong một gia đình, người cán bộ chính trị được coi như
người chị, người anh, người bạn của đội viên. Về cách thức xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung, cán bộ chính trị của qn đội nói riêng, Người luôn nhắc
nhở phải “khéo đánh giá”, “khéo tuyển chọn”, “khéo huấn luyện”, “khéo cất
nhắc”, “khéo sắp xếp”, “khéo dùng tài năng”... Tư tưởng về chính uỷ, chính
trị viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn bắt nguồn từ vị trí, vai trị của chính trị
viên đối với sinh mệnh chính trị của quân đội, đối với việc xây dựng bản chất
giai cấp cơng nhân, lập trường chính trị, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu
của cán bộ chiến sĩ trong qn đội. Vị trí vai trị chính trị viên, Hồ Chí Minh
khẳng định: “tư cách người chính trị viên có ảnh hưởng rất lớn đến bộ đội.
Người chính trị viên tốt thì bộ đội ở đấy tốt, người chính trị viên khơng làm
trịn nhiệm vụ thì bộ đội ấy khơng tốt”3
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ chính uỷ, chính trị
viên cịn là kết quả của quá rình nghiên cứu, tiếp thu và phát triển những giá
trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước,
lòng nhân ái Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Đồng
thời Người xem đạo đức cách mạng là cái gốc, là nền tảng của người cách
mạng, khơng có đạo đức dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Người cán bộ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng chỉ là hiện thân
2

3

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 1, Nxb CTQG, H, 2002, tr.262
Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang, Nxb QĐND, H, 1976, trang 60.


5

của chủ nghĩa yêu nước được kết tinh từ truyền thống mà cịn là biểu tượng
cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Chính uỷ, chính trị viên là nơi hội tụ những phẩm chất đức tính tiêu biểu cho
tâm hồn khí phách của dân tộc Việt Nam trong chiến đấu, lao động và học tập:
“chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc” 4. Yêu nước, thương
dân và “sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội” là động lực tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ và hành động
của người cán bộ chính trị trong quân đội cách mạng. Nền tảng của chủ nghĩa
nhân văn, giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta là sự hoà đồng, hồ
mục với lịng u thương và tinh thần đồn kết rất cao. Kế thừa những giá trị
đó, Hồ Chí Minh căn dặn chính uỷ, chính trị viên phải “là linh hồn” của đơn
vị, là hạt nhân đoàn kết nội bộ, đồn kết qn dân. Người nhắc nhở cán bộ
chính trị phải sâu sát, gắn bó với bộ đội, “đối với binh sĩ, thì từ lời ăn tiếng
nói, niềm vui, nỗi buồn, quần áo, nhất nhất phải biết rõ và hết sức chăm
nom”.
Hồ Chí Minh ln đề cao những tinh hoa văn hoá của dân tộc đã được
kết đọng trong tư tưởng lớn, nổi bật là tư tưởng của Nguyễn Trãi. Nguyễn
Trãi rất coi trọng xây dựng mối quan hệ nội bộ trong quân đội “tướng sĩ một
lòng phụ tử, hồ nước sơng chén rượu ngọt ngào”. Trong “Thư gửi Hội nghị
chính trị viên” Hồ Chí Minh ân cần chỉ bảo: “Đối với bộ đội, chính trị viên
phải thân thiết như một người chị, cơng bình như một người anh, hiểu biết
như một người bạn”. Kế thừa tư tưởng “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là

dân” của Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh dành tình cảm cao q và niềm tin yêu
sâu sắc với nhân dân, Người viết: “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân
dân, trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân” và
Người căn dặn chính trị viên: “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội.
4

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.393


6

Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân yêu bộ đội. Phải làm sao cho bộ đội
được dân tin, dân phục, dân yêu”5.
Thứ ba, quá trình hình thành, phát triển những quan điểm về xây dựng
đội ngũ cán bộ cách mạng nói chung, đội ngũ chính uỷ, chính trị viên của
qn đội nói riêng, Hồ Chí Minh ln có thái độ đúng đắn và phương pháp
khoa học trong nghiên cứu các trào lưu tư tưởng từ nhiều ngọn nguồn khác
nhau của nhân loại và tiếp thu những nhân tố giá trị ở các tư tưởng đó.
Khi nghiên cứu, đánh giá những mặt tích cực trong tư tưởng Khổng Tử,
Hồ Chí Minh viết: “Khổng Tử sống ở thời Chiến quốc. Đạo đức của ông, học
vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và
hậu thế phải cảm phục”6. Hồ Chí Minh tìm thấy trong mơ hình lý tưởng theo
tư tưởng Khổng – Mạnh chứa đựng những nhân tố hợp lý, tiêu biểu cho cốt
cánh phương đơng, theo quan điểm Khổng – Mạnh có nhân, có trí, có dũng
giúp cho người qn tử đạt được phong thái ung dung tự tại, không ham tiền
tài địa vị. Tiếp thu tinh thần trên, khi bàn về đạo đức người cán bộ cách mạng,
Hồ Chí Minh nói: người cách mạng phải khiêm tốn, khoan hoà, lượng thứ,
can đảm khi sa cơ, bình tĩnh khi thắng thế, khơng ham giầu sang, không e cực
khổ, không sợ oai quyền. Để thực hiện nhân, trí, dũng theo Khổng Tử người
quân tử phải nghiêm khắc với bản thân mình tuân theo điều lễ. Hồ Chí Minh

khái quát nhân cách người cán bộ cách mạng ở hai mặt “đức”, “tài” và cũng
ln địi hỏi người cán bộ phải luôn tu dưỡng rèn luyện đạo đức ở mọi lúc
mọi nơi. Khi nghiên cứu, tiếp thu tư tưởng của phật giáo Người yêu cầu người
chính uỷ, chính trị viên cũng là người có lịng nhân ái cao cả. Tuy nhiên,
những tư tưởng trong các tôn giáo chỉ khuyên con người làm điều thiện nhưng
chưa chỉ ra phương hướng đấu tranh chống cái ác; hướng con người lên thiên
đường nhưng lại lờ đi những lo toan, vất vả của con người trong thực tại; xem
5
6

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.392 - 393.
Hồ Chí Minh tồn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2002, tr.452.


7

con người là trung tâm nhưng lại đề cao thần thánh, tuyệt đối hố vai trị của
cá nhân. Theo Hồ Chí Minh Chính uỷ, chính trị viên là người giàu lịng nhân
ái, bao dung, nhân từ, độ lượng, nhưng đó là sự khoan dung có ngun tắc
theo hướng tích cực, cùng với mọi người đấu tranh khơng mệt mỏi vì tự do,
bình đẳng thực sự và hạnh phúc trọn vẹn của nhân dân, mà trước hết là của
người lao động. Khơng chỉ nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa văn hố phương
Đơng, Hồ Chí Minh cịn nghiên cứu, tiếp thu những tư tưởng về nhân đạo,
nhân quyền, dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái trong các trào lưu triết học và
văn học nghệ thuật phương Tây, từ đó xây dựng mẫu người chính trị viên của
quân đội nhân dân Việt Nam: phải biết quan tâm đến công việc thực tế hàng
ngày, thẳng thắn, trung thực trong đấu tranh tự phê bình và phê bình; có ý
thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng công bằng lẽ phải, thưởng phạt nghiêm
minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ chính trị: “Thấy việc phải thì
làm, thấy việc phải thì nói. Khơng sợ người ta phê bình mình, mà phê bình

người khác cũng luôn luôn đúng đắn”, “Khen thưởng người tốt, trừng phạt
người xấu cũng là trách nhiệm của chính trị viên”7.
Từ những cơ sở trên chúng ta thấy: nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
về chính uỷ, chính trị viên bắt nguồn từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, kế
thừa có chọn lọc những học thuyết và tư tưởng khác nhau của phương Đơng
và phương Tây, từ tinh hoa khí phách, tâm hồn, truyền thống dân tộc, từ kinh
nghiệm hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội và từ vai
trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp của Đảng đối với quân đội nhân dân Việt Nam, đây chính là nguồn gốc cơ
bản quyết định đến bản chất giai cấp nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa nhân
loại không tác động riêng rẽ mà tác động trong mối liên hệ biện chứng, thông
7

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.392


8

qua sự thâu hoá, tiếp biến rất sáng tạo của Hồ Chí Minh trước địi hỏi của
thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, nhằm xây dựng lực lượng vũ
trang, quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, đủ sức hoàn thành thắng lợi
mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
Thực tiễn trải qua hơn 63 năm xây dựng và trưởng thành của quân đội
ta, kể từ ngày đầu thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, cũng
như trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và qua công cuộc xây
dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay đã chứng minh vị trí vai trị hết sức quan trọng
và to lớn của chính uỷ, chính trị viên, cùng với đội ngũ cán bộ chính trị với
nhiệm vụ tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội, đã xây
dựng được sự đồn kết thống nhất bảo đảm nền tảng chính trị tinh thần vững

chắc cho bộ đội càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh, động viên kích
lệ tinh thần vượt qua khó khăn gian khổ, chiến đấu hy sinh anh dũng góp phần
làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần kỳ chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược. Sự thắng lợi đó, khơng thể khơng nói đến vai trị người
chính uỷ, chính trị viên.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên hàm chứa rất nhiều
vấn đề sâu sắc, cơ đọng. Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề đó khơng chỉ có ý
nghĩa về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, nhất là trong bối cảnh
quốc tế và yêu cầu sự nghiệp xây dựng quân đội theo nghị quyết 51/ NQ của
Bộ chính trị trong giai đoạn cách mạng hiện nay:
a/ Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một bộ phận cán bộ chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là những cán bộ, đảng viên tiêu biểu được tổ
chức lựa chọn làm đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ huy trong các đơn
vị vũ trang cách mạng.
Ngay từ những năm 1930 - 1940 khi ra đời những đội du kích tự vệ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị


9

trong những tổ chức mầm mống của lực lượng vũ trang cách mạng. Trong
“Nghị quyết đội tự vệ”, Đảng đã chủ trương “đem những đảng viên và đoàn
viên cương quyết nhất vào tự vệ và các cấp bộ chỉ huy của tự vệ” để luôn giữ
vững “quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong tự vệ thường trực” và mỗi
trung đội, đại đội bên cạnh người chánh đội trưởng, phó đội trưởng có một đại
biểu của Đảng chỉ huy. Trong cuốn “Chiến thuật du kích”, Hồ Chí Minh viết
năm 1947 dùng làm tài liệu huấn luyện cho các đội du kích cách mạng, Người
viết: “về mặt chính trị cấp nào cũng có một người chính trị phái viên do đồn
thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm” 8. Trong
cao trào cách mạng chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa từ các đội du kích đến đội

Việt nam tuyên truyền giải phóng quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị trực
tiếp, bên cạnh người đội trưởng bao giờ người chính trị uỷ viên cũng giữ một
vị trí khơng thể thiếu, đảm nhiệm trọng trách giữ vững bản chất cách mạng
của toàn đội trước những thử thách gian khổ hy sinh quyết liệt đấu tranh sống
mãi giành đất giành dân với kẻ thù. Để gấp rút chuẩn bị lực lượng vũ trang
khởi nghĩa giành chính quyền, Nghị quyết TW 8 (5/1941) xác định trong các
trung đội, đại đội, liên tiểu tổ du kích đều có đội trưởng, phó đội trưởng và
chính trị chỉ đạo viên hoặc uỷ viên chính trị để lo “phương diện của đội”.
Từ đó đến nay, ở các đơn vị trong lực lượng vũ trang cách mạng bên
cạnh người chỉ huy quân sự bao giờ cũng có người cán bộ chính trị – người
tiêu biểu cho đường lối chính trị, quân sự của Đảng; được tổ chức đảng lựa
chọn và giao nhiệm vụ chịu trách nhiệm chủ yếu trước Đảng về bản chất cách
mạng của phân đội vũ trang mà mình được phân cơng đảm nhiệm. Theo Hồ
Chí Minh đội ngũ này là một bộ phận cán bộ chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam, thực sự tiêu biểu cho ngọn cờ chính trị, tư tưởng của Đảng, kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định với mục tiêu
8

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, H, 2002, tr.472.


10

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ
huy, hơn ai hết, họ là người giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, nắm vững và thực
hiện tốt các nguyên tắc của Đảng, thực sự tiêu biểu cho sự đoàn kết thống
nhất trong tổ chức đảng và trong toàn đơn vị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra đặc trưng cơ bản của chính trị viên,
người cán bộ đảng trong các phân đội vũ trang cách mạng, người đại biểu
trung thành của giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam trong sự

nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Đây là vấn đề cơ bản để phân biệt với những người lãnh đạo, chỉ huy của
quân đội phong kiến, tư sản. Sự ra đời phát triển đội ngũ chính trị viên gắn
liền với vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhằm bảo đảm
cho các đơn vị thực sự chiến đấu dưới lá cờ của Đảng, không ngừng giữ vững
và phát huy bản chất của giai cấp cơng nhân góp phần bảo đảm cho lực lượng
vũ trang, Quân đội nhân dân xứng đáng là công cụ vũ trang sắc bén của Đảng,
Nhà nước, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sẵn
sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ khi Đảng, Nhà nước phân
cơng, đánh thắng mọi kẻ thù trong mọi tình huống .
b/Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là những người chủ trì về chính trị ở
các đơn vị vũ trang cách mạng, đồng thời có chức năng nhiệm vụ quan trọng,
giải quyết các mối quan hệ chính trị – xã hội trong nội bộ, với nhân dân và
với quân địch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định chính uỷ, chính trị viên được xác định
là cán bộ lãnh đạo, là người chủ trì về chính trị, người chịu trách nhiệm chủ
yếu chăm lo cơ sở chính trị, tinh thần, chăm lo xây dựng tổ chức đảng, quán
triệt sự lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt động của đơn vị, đồng thời là thành
viên của bộ máy chỉ huy, quản lý, điều hành duy trì kỷ luật, kiểm tra đơn đốc
mọi hoạt động của đơn vị.


11

Tuy nhiên, chính uỷ, chính trị viên phải tham gia công tác chỉ huy, quản
lý chủ yếu và trước hết với tư cách là cán bộ của Đảng chủ trì về hoạt động
cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở các đơn vị trong quân đội. Trên cương vị
của mình chính uỷ, chính trị viên phải hướng mọi hoạt động của đơn vị đi
đúng đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm cho mọi người, mọi tổ chức
trong đơn vị khơng ngừng trưởng thành vững mạnh, đủ sức hồn thành mọi

nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài. Về phạm vi lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên tuy được xác định ở các đơn vị trong qn đội, nhưng
vai trị nhiệm vụ của họ khơng chỉ thu hẹp giải quyết trong mối quan hệ nội
bộ mà có chức năng nhiệm vụ quan trọng giải quyết mối quan hệ với nhân
dân và với quân địch. Trong thư gửi Hội nghị chính trị viên tháng 3/1948 Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “vơ luận ở cấp bậc nào, chính trị viên cũng có ba
nhiệm vụ chính: Đối với bộ đội, đối với nhân dân, đối với quân địch” 9. Đối
với bộ đội: chính trị viên phải săn sóc ln ln đến sinh hoạt vật chất của họ,
ăn, mặc, ở, nghỉ, tập luyện, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần, phải
săn sóc đến nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hoá, phát triển văn hoá và đường lối
chính trị trong bộ đội, chính trị viên cần phải biết rõ và báo cáo cho cấp trên
biết rõ số lượng và chất lượng của bộ đội mình. Khen thưởng người tốt trừng
phạt người xấu cũng là trách nhiệm của chính trị viên. Đối với nhân dân: nhân
dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội, chính trị viên phải làm cho dân tin, dân
phục, dân yêu bộ đội. Muốn như thế phải đốc thúc bộ đội siêng giúp dân,
hăng hái đánh giặc. Đối với quân địch, gồm cả binh lính Pháp cùng những
người ngoại quốc và người Việt Nam trong quân đội Pháp, chính trị viên phải
biết cách tuyên truyền khôn khéo thiết thực để giác ngộ họ, lơi kéo họ về phía
ta.

9

Hồ Chí Minh tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 2002, tr.392


12

Những tư tưởng của Người mang ý nghĩa sâu sắc về thái độ cơng tác
của chính trị viên đối với con người, đối với bộ đội, đối với nhân dân và đối
với binh lính địch. Giải quyết đúng đắn chính xác mối quan hệ xã hội sẽ tạo

nên sức mạnh to lớn để chiến đấu và chiến thắng. Sự khái qt đó khơng chỉ
khẳng định vị trí xã hội của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên mà cịn là cơ sở
khoa học đúng đắn để hiểu rõ và phân định đúng đắn chức năng nhiệm vụ của
họ trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Hiện nay chúng ta đang triển khai
thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục thực hiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế
độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nhân dân Việt Nam”.
c/ Đội ngũ chính uỷ, chính trị viên khơng chỉ là người lãnh đạo, quản
lý chỉ huy mà còn là người anh, người chị, người bạn của đội viên.
Đối với chính uỷ, chính trị viên Chủ tịch Hồ Chí Minh địi hỏi phải có
năng lực cơng tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đồng thời phải trong sáng
về đạo đức, mẫu mực về phương pháp tác phong công tác. Đây là tiêu chuẩn
hàng đầu của chính trị viên. Bác chỉ rõ: chính trị viên là người có năng lực
đồn kết cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong đơn vị thành một khối thống nhất,
có quan hệ gần gũi thân thiết dân chủ đối với quần chúng, dân chủ tập thể sâu
sát. Bác dạy: “trời sinh ra con người ai cũng có ngũ quan để làm việc cho
Đảng, cho nhân dân, mắt phải siêng năng nhìn sát thực tế, quan sát kỹ tình
hình; Mũi phải siêng ngửi những vấn đề mới mẻ; tai phải siêng nghe ý kiến
anh em bạn bè, đồng chí cấp dưới, cịn phải nghe cả địch nữa để dễ bề đối
phó; chân phải đi sát quần chúng, đi sát bộ đội” 10 . Người ví cán bộ như “đầu
óc”, đội viên như “chân tay” trong một cơ thể thống nhất. Hồ Chí Minh dạy
rằng: “cán bộ khơng có đội viên, lãnh tụ khơng có quần chúng thì khơng làm
gì được”, cán bộ dù ở cương vị nào “cũng chỉ là người đặt kế hoạch và điều
10

Bài nói chuyên của Bác Hồ tại trường võ bị Trần Quốc Tuấn 5/1946


13


kiển đánh trận. Lúc ra trận việc đặt mìn phá lô cốt đều do tay anh em đội viên
làm” do vậy “cán bộ có thân đội viên như chân tay thì đội viên mới thân cán
bộ như ruột thịt” 11
Như vậy, người chính trị viên khơng chỉ là người lãnh đạo, quản lý, chỉ
huy mà còn là người anh, người chị, người bạn của đội viên. Nói đến người
anh, người chị, người bạn ở đây Hồ Chí Minh muốn nói đến phương pháp tác
phong cơng tác của chính trị viên. Chính vì vậy mà Người đặc biệt quan tâm
xây dựng mối quan hệ đoàn kết gần gũi giữa cán bộ, chiến sĩ. Bằng sự hiểu
biết sâu sắc và trên cơ sở thực tiễn phong phú trong tổ chức chỉ đạo xây dựng
quân đội. Người phát hiện ra rằng ở một đất nước vốn là thuộc địa, nửa phong
kiến thói quen lạc hậu và tư tưởng gia trưởng còn ảnh hưởng nặng nề, nhất là
trong môi trường quân sự, càng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, chuyên quyền độc
đoán, quân phiệt ở đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức có quyền. Vì thế, Người
thường xun nhắc nhở cán bộ chính trị: đối với bộ đội, chính trị viên phải
thân thiết như một người chị, cơng bình như một người anh, hiểu biết như một
người bạn. Phong cách ứng xử của cán bộ chính trị với chiến sĩ khơng chỉ thể
hiện tinh thần trách nhiệm cao mà còn biểu lộ thái độ tình cảm chân tình cởi
mở như những người thân thiết trong gia đình cách mạng. Bác dùng hình ảnh
rất dễ hiểu phù hợp với truyền thống, tập quán của dân tộc Việt Nam để giải
quyết mối quan hệ cán bộ - chiến sĩ, đó là mối quan hệ tình nghĩa “máu chảy
ruột mềm” mối quan hệ giữa cán bộ - chiến sĩ như chân tay ruột thịt đó là sự
thân thiết là tình cảm của người chính trị viên với chiến sĩ. Nhưng trong giải
quyết các công việc phải cơng bình, Bác chỉ rõ đối với bộ đội chính trị viên
phải thân thiết, cơng bình hiểu biết khen thưởng người tốt, xử phạt người xấu,
nhưng kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới, trên dưới đều phải giữ gìn
kỷ luật. Trong kỷ luật phải chú ý thưởng phạt cho cơng minh, chớ vì nể ai mà
11

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H, 2002, tr.109



14

thưởng, ghét ai mà phạt ai …thì dùng, ai trực tính nói ngay thì bỏ. Bác cịn chỉ
rõ chính trị viên phải là người biết rộng, hiểu biết như một người bạn, do đó
phải gần gũi chiến sĩ, sâu sát cấp dưới, phải hiểu và nắm tâm tư nguyện vọng
của bộ đội, ln săn sóc đến mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của bộ đội.
Bác còn căn dặn: “từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tư lệnh trở xuống phải săn
sóc đời sống tinh thần của đội viên, phải xem xét đội viên ăn uống như thế
nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm
cán bộ khơng được kêu mình đói, bộ đội chưa đủ áo mặc cán bộ không được
kêu mình rét, bộ đội khơng đủ chỗ ở cán bộ khơng được kêu mình mệt thì mới
là dân chủ, là đồn kết, là tất thắng”12
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ: Người chính trị viên ngồi việc cùng
với người chỉ huy luôn quan tâm đầy đủ đời sống vật chất, tinh thần của bộ
đội, bởi vì đặc điểm hoạt động của chính trị viên là hoạt động lãnh đạo, làm
công tác đối với con người, tác động xây dựng nhân cách từng con người và
từng tập thể quân nhân, do đó người chính trị viên phải hiểu và nắm chắc tình
hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của từng cán bộ chiến sĩ trong đơn vị, thật
thà trung thực đánh giá và báo cáo với cấp trên về số lượng và chất lượng của
bộ đội mình. Phương pháp khơng phải bằng mệnh lệnh mà chủ yếu là giáo
dục thuyết phục, phân rõ phải trái, cái đúng cái sai, cái tốt, cái xấu đúng như
lời căn dặn của Người: đối với bộ đội chính trị viên phải thân thiết như người
chị, cơng bình như người anh, hiểu biết như người bạn.
d/ Chính uỷ, chính trị viên phải làm kiểu mẫu trong mọi việc, đồng thời
phải biết giáo dục chỉ đạo dìu dắt mọi người hành động đúng đắn
Trong thư gửi “Hội nghị chính trị viên” tháng 3/1948 Bác chỉ rõ chính
trị viên phải làm kiểu mẫu trong mọi việc thật sự kiên định vững vàng về mục
tiêu lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân
12


Hồ Chí Minh về đấu tranh vũ trang và lực lưọng vũ trang nhân dân Nxb QĐND, H,
1970, trang 224.


15

dân, chủ động đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc, có ý thức
tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần ham học cầu tiến bộ, gương mẫu về đạo đức
lối sống. Bên cạnh đó chính trị viên phải có năng lực tồn diện đáp ứng u
cầu lãnh đạo, chỉ huy chỉ đạo mọi mặt ở đơn vị cơ sở. Trong tổ chức phải mẫu
mực về phương pháp tác phong cơng tác, lời nói phải đi đơi với việc làm.
Người chỉ rõ: để làm kiểu mẫu người chính trị viên nhất thiết phải có phẩm
chất tổng hợp đạo đức và năng lực. Trước hết phải có phong cách đạo đức của
người đảng viên cộng sản, phải có năng lực thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả
và chất lượng. Bác u cầu: chính trị viên phải vừa có đức, vừa có tài, vừa có
tâm, thực sự là tấm gương cho mọi người noi theo, ln giữ được uy tín với
tập thể, đơn vị và lãnh đạo các cấp, Bác : “dù ở cương vị nào các đồng chí cần
phải gương mẫu luôn xứng đáng là người đầy tớ tận tuỵ của nhân dân” 13
Trong cuốn sách chính trị viên Hồ Chí Minh xác định: “chính trị viên là linh
hồn của đội, chính trị viên phải bảo đảm cho mỗi quân nhân cách mạng đi
đúng con đường chính trị của đồn thể, chính trị viên phải nhúng tay vào mọi
việc để do đó mà dìu dắt người khác, người chính trị viên phải là người có
năng lực lãnh đạo, năng lực này phải đủ mọi mặt bao gồm quân sự, chính trị
năng lực về tuyên truyền tổ chức xếp đặt kế hoạch, năng lực giải quyết những
vấn đề cấp bách, cũng như vấn đề sinh hoạt hàng ngày về chính trị hay về vật
chất”
Hồ Chí Minh chỉ rõ: để làm kiểu mẫu, chính trị viên phải nêu gương,
phải gương mẫu trong mọi hồn cảnh chiến đấu, khó khăn gian khổ thiếu
thốn, đồng thời Bác cũng chỉ ra: chính trị viên khơng những chỉ làm kiểu mẫu

mà cịn phải biết giáo dục, chỉ đạo, dìu dắt tổ chức mọi người hành động đúng
đắn. Khi thăm trường chính trị trung cấp quân đội, Bác dặn mọi người tự
mình cần, kiệm, liêm, chính chưa đủ mà phải biết tuyên truyền giáo dục tổ
13

xem cuốn sách của chính trị viên- TL nghiên cứu hội tân văn hoá thuận hoá xb 1945.


16

chức cho bộ đội thực hiện tốt cần, kiệm, liêm, chính. Bác nói: “Nếu cả ngày
các chú chỉ hùng hục làm việc của mình khơng dạy cho bộ đội chăm chỉ học
tập chính trị, quân sự để giết được nhiều giặc khơng khuyến khích và giúp đỡ
nhân dân tăng gia sản suất phục vụ tiền tuyến cũng chưa thực hiện được chữ
cần”14.
Bác nhấn mạnh: trong việc giáo dục quân nhân, sự gương mẫu cá nhân
của chính trị viên có ý nghĩa hết sức to lớn. Người chính trị viên nếu gây ra sự
nghi ngờ dù là nhỏ bé về tư cách đạo đức của mình đối với đơn vị, thì đồng
chí đó dù có kiến thức chính trị và qn sự cao bao nhiêu, tài năng tổ chức
xuất chúng bao nhiêu vẫn khơng thể có uy tín và khó có thể đạt được hiệu quả
tốt trong thực hiện nhiệm vụ mà cấp trên giao cho.
Những quan điểm về chính uỷ, chính trị viên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về phương diện lý luận và thực tiễn,
là cơ sở khoa học soi sáng cho cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị,
nhất là đội ngũ chính uỷ, chính trị viên của quân đội ta trước đây, hiện nay và
mai sau. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên khơng
chỉ đặt nền móng dẫn đến sự ra đời của đội ngũ cán bộ chính trị mà nó cịn chỉ
đạo xun suốt q trình xây dựng bảo đảm cho sự phát triển nhanh chóng
vững chắc của hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội, kể cả trong điều kiện
khó khăn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh cách mạng. Mỗi thành tựu cũng

như hạn chế về xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội đều gắn liền
với nhận thức về vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị và sự vận dụng có đúng
đắn sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên.
Trong tình hình hiện nay xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên trong quân đội là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách là vấn đề quan
14

Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang Nxb QĐND, H, 1975, trang 185.


17

tâm của cả hệ thống lãnh đạo chỉ huy các cấp. Do đó, việc xây dựng, bồi
dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên hiện nay là hết sức khách quan bởi nó
được bắt nguồn từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguyên tắc
xây dựng quân đội kiểu mới. V.I.Lênin là người đặt nền móng cho việc tiến
hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong quân đội kiểu mới của giai cấp vô
sản, V.I.Lênin khẳng định: cơng tác đảng, cơng tác chính trị là một bộ phận
cấu thành có tính tất yếu của sự nghiệp xây dựng quân đội, là vũ khí mạnh mẽ
của Đảng Cộng sản trong việc nâng cao khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu của quân đội. Để tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị Người nói
điều tất yếu là phải xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên nói riêng.
Việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong giai
đoạn hiện nay nó cịn bắt nguồn từ những quan điểm tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh bao
giờ cũng coi “chính trị là một động lực to lớn”, trong sự nghiệp xây dựng và
chiến đấu của lực lượng vũ trang, bởi vì theo Người: Qn sự mà khơng có
chính trị như cây khơng có gốc vơ dụng lại có hại.

Mặt khác, xây dựng bồi dưõng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên cịn bắt
nguồn từ vị trí vai trị cơng tác đảng, cơng tác chính trị nói chung và vị trí vai
trị của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên nói riêng. Cơng tác đảng, cơng tác
chính trị là bộ phận rất quan trọng của hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với quân đội nhân dân Việt Nam, là một mặt công tác cơ bản
của hoạt động lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội, là công tác xây dựng
quân đội về chính trị và quán triệt sự lãnh đạo chính trị của Đảng trong mọi
mặt hoạt động của Đảng trong quân đội. Để tiến hành công tác đảng, cơng tác
chính trị phải có đội ngũ chính uỷ, chính trị viên đảm nhiệm tiến hành hoạt
động cơng tác đảng, cơng tác chính trị. Đội ngũ cán bộ chính trị trong quân


18

đội có vai trị rất quan trọng trong tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị,
nhằm xây dựng đảng bộ quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, bảo đảm cho quân đội trung thành vô hạn với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
với nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao
cho. Từ vị trí vai trị đó cho nên xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính
trị viên trong quân đội hiện nay là tất yếu khách quan và hết sức cần thiết.
Trong tình hình hiện nay, việc tiếp tục xây dựng, bồi dưõng đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên còn xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, phương hướng
xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: Bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp
đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc. Về phương hướng xây dựng quân đội
Đảng ta xác định: “xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, trong đó xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh về

chính trị là quan trọng hàng đầu” 15.
Xây dựng quân đội về chính trị là nhằm nâng cao chất lượng chính trị,
nhất là bản lĩnh chính trị của cán bộ chiến sĩ luôn kiên định vững vàng trước
mọi yếu tố tác động và khó khăn thử thách. Do vậy, phải xây dựng, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ chính trị là tất yếu, là địi hỏi khách quan để tiến hành cơng tác
đảng, cơng tác chính trị trong quân đội.
Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên cịn xuất phát từ
thực tiễn q trình xây dựng và phát triển của quân đội ta trong hơn 63 năm
qua. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ chính trị, do đó đội ngũ cán bộ chính trị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức
15

Bài phát biểu của Tổng Bí thư Đõ Mười tại đại hội dại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VI
6/5/1996.


19

trách của mình, đã xây dựng sự vững vàng kiên định về lập trường tư tưởng
của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, xây dựng tinh thần đoàn kết thống nhất,
vượt qua khó khăn gian khổ, tin tưởng tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Vì vậy, cán bộ chiến sĩ trong quân đội đã sát cánh cùng nhân dân cả nước
đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ thực
tiễn đó địi hỏi phải tiếp tục xây dựng, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng
lực của đội ngũ cán bộ chính trị trong tình hình hiện nay là hết sức cần thiết.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đang âm mưu thực hiện chiến lược "diễn biến hồ bình" nhằm phi chính
trị hố qn đội, làm xa rời mục tiêu phương hướng chính trị của cán bộ,
chiến sĩ trong qn đội. Do đó càng địi hỏi hơn bao giờ hết phải xây dựng

cho được đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có đủ phẩm chất và năng lực tiến
hành tốt cơng tác đảng, cơng tác chính trị làm cơ sở, nịng cốt nhằm đánh bại
hồn tồn âm mưu thủ đoạn của địch.
Hiện nay đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội, nét nổi bật là:
Hầu hết kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, với mục tiêu, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, giữ vững và tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ, có trách nhiệm
cao với nhiệm vụ được giao, giữ vững được phẩm chất đạo đức, trình độ trí
tuệ của đội ngũ cán bộ chính trị có bước phát triển.
Tuy nhiên đội ngũ chính uỷ, chính trị viên ở đơn vị cơ sở hiện nay còn
nhiều bất cập, ở cấp phân đội chưa được qua rèn luyện thử thách nhiều, chưa
thật chú ý rèn luyện phương pháp tác phong cụ thể, tỉ mỉ, giải quyết các mối
quan hệ còn nhiều yếu kém, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo cịn nhiều hạn
chế. Nhìn chung phẩm chất cách mạng và năng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ
chính trị hiện nay chưa phát triển đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chức trách,


20

chưa tương xứng với vai trò nòng cốt trong xây dựng Qn đội về chính trị.
Trình độ tư duy lý luận, biết nhận diện và đấu tranh phê phán những quan
điểm khuynh hướng sai trái lệch lạc còn hạn chế, khả năng giáo dục thuyết
phục vận động quần chúng còn yếu. Chính vì vậy chúng ta phải đi sâu nghiên
cứu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo, đầy đủ những quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên cho
phù hợp với tình hình hiện nay là việc làm có ý nghĩa quan trọng. Trong báo
cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Tiếp tục đổi
mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu đạo đức, trong sạch về
lối sống, có trí tuệ kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân

dân, có cơ chế và chính sách phát hiện tuyển chọn đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
trọng dụng người có tài”16.
Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội
giai đoạn hiện nay, trước hết phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, dựa trên sự
giác ngộ sâu sắc về thế giới quan, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, có kinh
nghiệm đấu tranh chính trị trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân, có lập trường chính trị vững vàng trong mọi tình huống.
Chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội phải là người tiên phong cả về
lý luận và thực tiễn hành động trong đấu tranh vì lợi ích cách mạng, có ý chí
chiến đấu cao, kiên trì dũng cảm vượt qua mọi khó khăn thử thách. Đồng thời
phải biết thuyết phục vận động tập hợp quần chúng là tấm gương sáng về đạo
đức tác phong. Đây chính là cái gốc của người cách mạng.
Chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội cịn phải là người có năng lực
đồn kết cán bộ đảng viên chiến sĩ trong đơn vị thành một khối thống nhất, có
quan hệ gần gũi thân thiết dân chủ với quần chúng. Mặt khác lại phải có trình
16

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb CTQG,H 2001,tr 141.


21

độ tri thức hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, am
hiểu về quân sự hậu cần kỹ thuật. Đây chính là cơ sở để công tác tư tưởng tổ
chức giáo dục thực sự đi vào cuộc sống. Và đó cũng chính là yêu cầu xây
dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên Quân đội giai đọan hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, để xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ,
chính trị viên có phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác khoa
học, cụ thể, tỉ mỉ, sâu sát, dân chủ cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là: triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị

về tiếp tục hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người
chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội. Đây là biện
pháp hàng đầu, có ý nghĩa pháp lý và nguyên tắc về xây dựng và phát huy vai
trị người chính uỷ, chính trị viên, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực
tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Trong đó, quan trọng hàng đầu là quy định
và thực hiện tốt hơn nữa chức năng, chức trách phạm vi quyền hạn của tổ
chức lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và hệ thống bộ máy hoạt động cơng tác đảng,
cơng tác chính trị. Cần phải cụ thể hoá hơn nữa nguyên tắc tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, nhất là trong công tác cán bộ, trong các quyết định về kinh
tế, tài chính, trong chỉ huy quản lý hành chính.
Hai là: cùng với thực hiện nghiêm Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị, cần
phải hoàn thiện hệ thống chức danh của cán bộ chính trị trong Quân đội cho
phù hợp với yêu cầu mới. Đây vừa là hoàn thiện và phát huy cơ chế lãnh đạo
của Đảng, vừa là một điều kiện để tạo ra động lực mạnh mẽ, trực tiếp cho sự
phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tích cực và hiệu quả cơng tác của người
chính uỷ, chính trị viên. Thực tiễn xây dựng quân đội cho thấy: Chức danh
chính uỷ chính trị viên là phù hợp với tổ chức quân sự vô sản và phát triển
đúng hướng. Hơn nữa về bản chất: Chế độ chính uỷ, chính trị viên không hề
mâu thuẫn với chế độ một người chỉ huy nếu khơng có sự lẫn lộn trong nhận


22

thức giữa lãnh đạo và chỉ huy, khơng có sự đề cao cá nhân, đề cao quyền lực
vượt ra khỏi khuôn khổ của tập thể.
Để thực hiện tốt Nghị quyết 51/NQ- TW của Bộ Chính trị, cần phải dựa
chắc vào lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người về chính
trị viên. Tập trung tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của mọi
người về vị trí vai trị của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong tình hình mới.
Trước hết cần phải phân tích đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm của

đội ngũ cán bộ chính trị các cấp, chỉ ra những nguyên nhân và những ảnh
hưởng của những hạn chế yếu kém đó, cung cấp những luận cứ khoa học cho
lãnh đạo chỉ huy và cơ quan chức năng các cấp , cung cấp, giải trình, đề nghị
Đảng, nhà nước, Đảng uỷ Quân sự Trung ương trong hoàn thiện hệ thống
chức danh cán bộ chính trị. Phải tiến hành tốt các đợt sinh hoạt tự phê bình và
phê bình, đấu tranh khắc phục những tư tưởng bảo thủ, nhận thức giản đơn
phiến diện và những biểu hiện giáo điều máy móc.
Phải phát huy tốt vai trò của các cấp các ngành đối với việc xây dựng
đội ngũ chính uỷ, chính trị viên các cấp trong Quân đội đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, có đầy đủ khả năng
hồn thành nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và nhân dân giao cho.
Ba là: Tập trung bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống, bảo đảm cho chính uỷ, chính trị viên thực sự là “ kiểu mẫu về mọi
mặt”, nâng cao bản lĩnh chính trị năng lực tồn diện trước hết là năng lực
chính trị và quân sự để đội ngũ chính uỷ, chính trị viên thực sự là tri thức
quân sự cách mạng. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có
tác động và ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt là
những lúc khó khăn, những bước ngoặt của cách mạng hoặc trong chiến tranh
gian khổ, ác liệt. Thực tiễn qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
và thực tiễn những năm đổi mới vừa qua đã chứng minh điều đó.


23

Bản lĩnh chính trị hiện nay trước hết thể hiện ở sự trung thành với
đường lối đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, trung thành với mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng hy sinh bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bồi dưỡng bản lĩnh chính trị cho cán
bộ, ngồi u cầu chung mang tính bản chất cốt lõi về phẩm chất nhân cách,
quan điểm lập trường, cần phải bám sát vào tình hình thực tiễn hiện nay với

từng đối tượng. Vì vậy, tiếp tục bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội
ngũ chính uỷ, chính trị viên hiện nay là hết sức cần thiết.
Mặt khác, theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị chính uỷ,
chính trị viên trong quân đội là những người chủ trì về tiến hành cơng tác xây
dựng Đảng, cơng tác đảng, cơng tác chính trị. Lĩnh vực đặc thù này đặt ra yêu
cầu không những phải giỏi công tác tư tưởng, công tác tổ chức mà cịn phải
biết và thành thạo cơng tác chỉ huy tham mưu qn sự. Nếu khơng có năng
lực chính trị, năng lực qn sự, người chính uỷ, chính trị viên khơng thể hồn
thành được nhiệm vụ. Vì vậy, q trình đào tạo xây dựng bồi dưỡng đội ngũ
chính uỷ chính trị viên phải gia tăng kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chỉ huy, quản lý đảm bảo có một khối lượng kiến
thức đủ để hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao.
Ngoài xây dựng đào tạo ở nhà trường, cần coi trọng đào tạo bồi dưỡng
ở đơn vị, tăng cường nội dung bồi dưỡng kỹ năng cơng tác đảng, cơng tác
chính trị và phương pháp làm việc khoa học, cần có giải pháp cụ thể, quy định
thành chế độ, cụ thể hoá thành kế hoạch hàng năm. Các tổ chức Đảng phải coi
trọng đó là nhiệm vụ lãnh đạo thường xuyên. Hệ thống tổ chức chỉ huy và cơ
quan chính trị cần có giải pháp cụ thể kiểm tra giám sát kết quả học tập của
từng cán bộ. Mặt khác, từng cán bộ phải tự giác học tập, căn cứ vào khả năng
trình độ của mình để kịp thời bổ sung những kiến thức còn thiếu, còn yếu với
tinh thần tự giác học tập, học nữa, học mãi, học suốt đời.


24

Bốn là: nâng cao phẩm chất đạo đức lối sống và tác phong của đội ngũ
chính uỷ, chính trị viên trong thời kỳ mới. Bất kỳ ở giai đoạn nào, yêu cầu
chuẩn mực về phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong của người chính uỷ,
chính trị viên đều được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay
có nhiều yêu cầu mới. Trong chiến tranh phẩm chất đạo đức tác phong của

người chính uỷ, chính trị viên địi hỏi phải sẵn sàng nhận khó khăn về phần
mình, sẵn sàng hy sinh, cùng đồng cam cộng khổ với anh em binh sĩ. Trong
điều kiện thời bình và trước tác động của nền kinh tế thị trường, trước sự phá
hoại của các thế lực thù địch. Thì phẩm chất đạo đức lối sống đang đứng
trước những thử thách mới; chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, sự xuống
cấp của các giá trị đạo đức đang trỗi dậy và len lỏi vào đội ngũ cán bộ chính
trị nói chung và chính uỷ, chính trị viên trong qn đội nói riêng.
Vì vậy, tiếp tục bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách đạo đức, tác phong đội
ngũ chính uỷ, chính trị viên hiện nay cũng là yêu cầu và khó khăn hơn. Đặc
biệt là bồi dưỡng nhân cách của người chính uỷ, chính trị viên, đảm nhiệm
chủ trì cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở các đơn vị. Vì vậy, q trình đào tạo
bồi dưỡng phải gắn “dạy chữ, dạy nghề, dạy người” chặt chẽ với nhau, bồi
dưỡng nhân cách theo yêu cầu đặc thù của người chính uỷ, chính trị viên như
Bác Hồ kính yêu đã từng dạy: “đối với bộ đội chính trị viên phải thân thiết
như một người chị, cơng bình như một người anh, hiểu biết như một người
bạn”; với nhân dân, chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu;
với quân địch: chính trị viên phải biết tuyên truyền khôn khéo thiết thực để
giác ngộ họ, lơi kéo họ về phía ta.
Mặt khác, chính uỷ, chính trị viên phải có phong cách của người đảng
viên, người cán bộ lãnh đạo luôn giữ vững ngun tắc nói đi đơi với làm, nói
ít làm nhiều, phải tinh tế nhạy bén, quan tâm gần gũi mọi người, khiêm tốn và
nghiêm khắc với cả chính bản thân mình, độ lượng vị tha đối với cấp dưới,


25

chính uỷ, chính trị viên phải vừa có đức, vừa có tài, vừa có tâm, thật sự là tấm
gương cho mọi người noi theo, ln ln giữ được uy tín đối với tập thể đơn
vị và lãnh đạo các cấp. Đó cũng chính là mục tiêu u cầu của việc xây dựng
bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên trong giai đoạn hiện nay.

Năm là: kết hợp chặt chẽ việc đào tạo bồi dưỡng tại nhà trường với tự
bồi dưỡng của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên. Đây là giải pháp có ý nghĩa
trực tiếp quyết định số lượng và chất lượng của chính uỷ, chính trị viên, tạo
tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của họ. Do đó, phải tiếp tục
đổi mới, hồn thiện công tác đào tạo theo hướng kết hợp tại trường với tự rèn
luyện, tự bồi dưỡng của chính bản thân đội ngũ chính uỷ, chính trị viên. Bởi
vì, nếu chúng ta khơng khuyến khích và phát huy được việc tự rèn luyện, tự
bồi dưỡng sẽ khơng thể có chất lượng hiệu quả thật sự của đào tạo bồi dưỡng
cán bộ. Kết hợp chặt chẽ việc đào tạo bồi dưỡng tại nhà trường với tự bồi
dưỡng của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên; địi hỏi các tổ chức đảng, tổ chức
chỉ huy, từng chính uỷ, chính trị viên phải tự xác định đúng đắn thái độ động
cơ để từ đó tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu. Đồng thời, phải
kiên qyết đấu tranh với những trường hợp ngại tu dưỡng, lười học tập, hoặc lơ
là, học tập rèn luyện qua loa chiếu lệ. Phải tiếp tục đổi mới nội dung chương
trình học tập, đặc biệt coi trọng đổi mới phương pháp đào tạo bồi dưỡng cán
bộ, có quy chế chính sách cụ thể, khuyến khích tự học của cán bộ, giúp họ về
phương pháp và kinh nghiệm, tài liệu và phương tiện để họ vượt qua những
khó khăn trong q trình tự học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính uỷ, chính trị viên là cơ sở khoa học
cho việc xây dựng bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ, chính trị viên hiện nay.
Nghiên cứu tư tưởng của Người đòi hỏi mỗi chúng ta quán triệt sâu sắc, đầy
đủ và thực hiện đúng đắn sáng tạo những quan điểm của Bác. Trên cơ sở đó,
tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết 51/NQ- TW của


×