Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.08 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA: QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN HỌC PHẦN
“TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH”
Đề tài 1: Phân tích tư tưởng Hồ chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Đề tài 2: Phân tích nội dung và ý nghĩa của luận điểm: “Vì lợi ích mười năm thì phải
trơng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. (Hồ Chí Minh)
Nhóm 1
Lớp học phần: 2103HCMI0111
GVHD: Ths. Ngô Thị Huyền Trang
TS. Bùi Hồng Vạn

Hà Nội, ngày 5 tháng 4 năm 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1

STT

HỌ VÀ TÊN

1
2
3

Nguyễn Quỳnh Anh
Trần Thị Lan Anh
Vũ Thị Ánh

4



Ngô Hồng Diệp

5

Bùi Thị Dung

6
7

Nguyễn Thị Mai Duyên
Nguyễn Thị Hà

8

Lê Thanh Hải

9

Nguyễn Lâm Hạnh

NHIỆM VỤ
Phần I (ĐT1) và (ĐT2)
Phần II (ĐT1) và (ĐT2)
Phần III và 4.1 của phần
IV; word
4.2 của phần IV(ĐT1) và
phần II (ĐT2)
Phần V(ĐT1) và Phần
III(ĐT2)

Tóm tắt làm pp
Phần VI (ĐT1) và Phần
III(ĐT2)
Phần VII (ĐT1) và phần
IV (ĐT2)
Thuyết trình

ĐỀ TÀI CHÍNH:

Ý THỨC LÀM
VIỆC NHĨM


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐỒN KẾT DÂN TỘC

Đề cương thảo luận
I.

VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1.1. Đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng.


1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam

II.

LỰC LƯỢNG CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC


2.1. Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
III.

Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

3.1. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc
3.2. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người
3.3. Phải có niềm tin vào nhân dân
IV.

HÌNH THỨC TỔ CHỨC VÀ NGUYÊN TẮC CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT

TOÀN DÂN TỘC - MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
4.1. Mặt trận dân tộc thống nhất
4.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trân dân tộc thống nhất
4.2.1.

Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí

thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
4.2.2.

Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối

cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
4.2.3.

Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương


dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
4.2.4.

Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật

sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
V. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
5.1. Làm tốt công tác vận động quần chúng


5.2. Thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp
quần chúng
5.3. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc
thống nhất
VI.

Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC

ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
6.1. Giá trị lý luận
6.2. Giá trị thực tiễn
VII. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



Lời mở đầu
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu
của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để

dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển
bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã
sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản,
nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻthù dân tộc và
giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người luôn luôn nhận thức
đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống cịn, quyết định sự thành cơng của cách mạng.
Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của riêng Đảng Cộng
Sản. Đảng lãng đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội
mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạng của cả
dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói khá cặn kẽ, theo
quan điểm của Người, đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng nhất
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành
công, thành công, đại thành công” là một chiến lược, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
cách mạng Việt Nam.Đại đoàn kết trở thành cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, gắn với tên tuổi và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Bài thảo luận là kết quả của những sự tìm tịi, nghiên cứu của nhóm tác giả, có tham
khảo một số bài viết được nêu tại phần tài liệu tham khảo. Trong quá trình tìm hiểu và
nghiên cứu với khả năng có hạn cùng với những hạn chế nhất định về quỹ thời gian, đề
tài không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm mong nhận được sự đóng góp từ quý thầy,
cô.
Trân trọng cảm ơn!


I. VAI TRỊ CỦA ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1. Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng
Muốn làm cách mạng phải có lực lượng cách mạng thực hiện đại đoàn kết dân tộc ở
Việt Nam, đại đoàn kết dân tộc mang tính chiến lược của cách mạng lâu dài chứ khơng

phải thủ đoạn chính trị để tập hợp lực lượng như một số giai cấp đã từng có trong lịch sử.
Sở dĩ vì cách mạng giải phóng dân tộc và CMXHCN là sự nghiệp đấu tranh lâu dài,
gian khổ, địi hỏi phải có sự đồn kết, ủng hộ của nhiều người, nhiều tầng lớp xã hội
trong mọi giai đoạn thì cách mạng mới có thể thành cơng. HCM đã đúc kết khái niệm này
thành kinh nghiệm: đoàna kết, đoàn kết, đại đồn kết, thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng. Thực tế đã chứng minh rằng nhờ thực hiện đại đoàn kết dân tộc nên nhân dân ta đã
làm cách mạng tư sản thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đnahs
thắng hai đế quốc lớn. Và cũng nhờ có đồn kết dân tộc mà nhân dân ta thu được những
thành tựu ban đầu trong công cuộc xây dựng XHCN.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt

Nam
Cách mạng Việt Nam bao gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn bao gồm nhiều mục
tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong mỗi mục tiêu cũng là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là
đai đồn kết dân tộc. Bởi vì, có thực hiện được đại đồn kết thì ta mới tạo ra sức mạnh để
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng khác. Tư tưởng này đã được quán
triệt trong đường lối cộng sản của Đảng ở mọi giai đoạn (VD: Năm 1951 HCM thay mặt
cho Đảng ta tuyên thệ như sau:”Mục đích của Đảng lao động Việt Nam có thể gói gọn
trong 8 chữ sau “Đồn kết toàn dân, phục sự tổ quốc”).
II. LỰC LƯỢNG CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
2.1. Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ơng: “Nước lấy dân làm
gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách mạng là ngày hội của quần chúng”,
Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái cẩm nang thần kì của cơng cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở lực lượng vô địch của nhân dân: “Trong bầu trời


khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn
kết của nhân dân”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng. Người dùng các

khái niệm này để chỉ tất cả mọi công dân của nước Việt Nam, những người được gọi là
“con Lạc cháu Hồng”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết tất cả các
tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đồn thể, các dân tộc, tơn giáo, kể cả
những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa
của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh
thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ. Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi
được dựa trên điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng
thật thà đồn kết với họ”. “Ai có tài, có sức, có đức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục
vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của
dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, kết hợp hài hồ lợi ích
cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và tồn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế.
Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn kết tức là
trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người bổ sung thêm nền tảng
của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa công nhân, nông dân với trí thức: “Trong
sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một
vai trị quan trọng và vẻ vang; và cơng, nơng, trí cần phải đồn kết chặt chẽ thành một
khối”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln có sự kết hợp hài hòa, quyện chặt và nhất
quán giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đoàn kết dân tộc trên cơ sở lấy liên minh
công nông làm gốc, khơng một lúc nào qn đi lợi ích giai cấp song Người cũng có một
tư duy vượt trước khi khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách mạng
Việt Nam.
2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Theo Người, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chỉ được phát huy khi tập hợp
trong Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cả dân tộc hay toàn
dân chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn, trở thành lực lượng vô địch khi được tổ chức



thành một khối chặt chẽ, được giác ngộ sâu sắc về mục tiêu lý tưởng, được định hướng
bởi một đường lối chính trị đúng đắn, nếu khơng thì dù quần chúng nhân dân có số đơng
tới hàng triệu người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức mạnh, rời rạc.
Ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã rất lưu ý
tới công tác tập hợp quần chúng, đưa họ vào những tổ chức yêu nước phù hợp với đặc
điểm của từng giới, lứa tuổi, giai cấp, tôn giáo... Bao trùm tất cả là tư tưởng muốn thu
nạp được đông đảo các tầng lớp nhân dân vào Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận cần
thu nạp được đông đảo quần chúng nhân dân, những người ít nhiều có tinh thần u
nước, Mặt trận cần là một tổ chức rộng rãi. Rộng rãi nhằm thực hiện đoàn kết được nhiều
tổ chức, nhiều lực lượng không phân biệt giàu nghèo, đảng phái, xu hướng chính trị...
Người nói: “Mặt trận bao gồm tất cả những người u nước, khơng phân biệt khuynh
hướng chính trị, tín ngưỡng, tơn giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi tác” [10]. Do đó
Mặt trận khơng chỉ thu hút được mọi tầng lớp lao động nghèo khổ, bị áp bức, mà còn thu
hút được cả tầng lớp trên không thuộc nhân dân lao động và một bộ phận phân hóa trong
hàng ngũ của kẻ thù. Trong Mặt trận, xương sống và sức mạnh chủ yếu của khối đại đồn
kết là khối liên minh cơng nơng làm nền tảng, Người nói: “Lực lượng chủ yếu trong khối
đồn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân
tộc thống nhất”.
Mối quan hệ giữa Mặt trận với liên minh công nông phản ánh về mặt tổ chức xã hội
mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Trong đó, tách biệt hoặc nhấn mạnh
một chiều vai trò của Mặt trận hoặc liên minh công nông đều không đúng với biện chứng
của đời sống cách mạng, không đúng với nguyên tắc đồn kết của Người. Tuyệt đối hóa
vai trị, vị trí của liên minh cơng nơng, hạ thấp vai trị của Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan,
“tả khuynh” và bệnh cơ lập, hẹp hịi. Ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của
Mặt trận, xem nhẹ liên minh cơng nơng sẽ dẫn tới hữu khuynh, vơ chính phủ. Người từng
nói rằng: “Trong chính sách đồn kết cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cơ độc,
hẹp hịi và đồn kết vơ ngun tắc”.
Trong lực lượng phong phú của Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là
một thành viên, bởi Đảng là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, Đảng

không phải là một thành viên bình thường, mà là người lãnh đạo của khối đại đoàn kết
toàn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là tuyên truyền, giáo dục để
quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại; chọn lựa những hình thức, phương


pháp tổ chức thích hợp để có thể thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước, tiến bộ trong
dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo
những mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Người cũng nhấn mạnh quyền lãnh đạo Mặt trận không phải
Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận: “Đảng khơng thể địi hỏi
Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì
Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là toàn dân, trong đó lấy
liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức làm nền tảng được tập hợp trong một Mặt trận
thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã trả lời chỉ trên cơ sở tuân thủ
nguyên tắc này, đại đồn kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường tồn.
III.

Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

3.1. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc
Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước trong hàng nghìn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu
vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua các
thế hệ từ thời các vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng, Bà Triệu, TRần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quan Trung…Truyêng thống đó là cội nguốn sức mạnh vơ địch để cả dân tộc chiến đấu
và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc
được giữ vững.

3.2. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người
Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu
điểm, khuyết điêm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có
lịng khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có
thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: "Sông to, biển rộng bao nhiêu
nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút
nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái


đĩa cạn". Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm
ngón cùng thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết.
Người cho rằng: "Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này
hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận
ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những
đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình nhân ái để cảm hóa họ. Có như thế mới
thành đồn kết, có đại đồn kết tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang".
3.3. Phải có niềm tin vào nhân dân
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của
nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc
"nước lấy dân làm gốc", "chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân", đồng thời là sự quán
triệt sâu sắc nguyên lý mácxít "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Theo Người,
dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vơ địch của khối đại
đồn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nềngốc và chủ thể của Mặt trận. Trong
bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, tháng 1-1955. Người
chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết là phải đoàm kết đại đa số nhân dân. mà đại đa số
nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nề,
gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác".
IV.


HÌNH THỨC TỔ CHỨC VÀ NGUYÊN TẮC CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT

TOÀN DÂN TỘC - MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
4.1. Mặt trận dân tộc thống nhất
Đại đoàn kết dân tộc biến thành sức mạng vật chết, trở thành lực lượng vật chất tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức, cá
nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân Việt, cả người trong nước và người nước ngoài.
Tùy vào từng thời kỳ và căn cứ vào nhiệm vụ của từng chặng đường cách mạng, Mặt trân
dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau như sau:


1930: Hội phản đế đồng minh



1936: Mặt trân dân chủ




1939: Mặt trân nhân dân phản đế



1941: Mặt trân Việt Minh



1946: Mặt trận Liên Việt




1960: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam



1955-1976 (Miền Bắc): Mặt trận tổ quốc Việt Nam

Dù tên gọi có thể khác nhau song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, đan
tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn
đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của tổ quốc, tự do và hạnh phúc của
nhân dân.
4.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trân dân tộc thống nhất
4.2.1.

Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh cơng nhân – nơng dân –

trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mục tiêu chung của Mặt trận thống nhất được Hồ Chí Minh xác định nhằm tập hợp tới
mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết dân tộc. Mặt trận là một khối đoàn
kết chặt chẽ, tổ chức dựa trên khối liên minh công nhân-nông dân-tri thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, kết thành khối vững chắc trong
mặt trận.
Phải lấy liên minh công nhân-nông dân-tri thức làm nền tảng vì họ là người trực tiếp
sản xuất mọi tài phú làm cho xã hội sống, lực lượng đông đảo, đã trải qua áp bức bóc lột
nên hơn ai hết họ có chí khí cách mạng bền bỉ. Bên cạnh đó Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa là thành viên, là lực lượng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận thông qua khả
năng nắm bắt thực tiễn, vạch đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp , kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

4.2.2.

Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích

tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
Mục đích chung của Mặt trận được Hồ Chí Minh xác định củ thể, phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng đân tộc vào khối đại đoàn


kết. Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Người cho rằng, nếu nước
được độc lập mà dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di, bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là
mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong mặt
trận. Tuy nhiên làm thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào
trong mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết. Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân
tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiện.
4.2.3.

Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp

thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc. Mặt
trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững. Mọi vấn đề của dân tộc phải được đem ra để
các thành viên bàn bạc, cơng khai nhất trí. Lợi ích phải phù hợp với lợi ích chung của đất
nước, của dân tộc đặt lợi ích dân tộc lên vị trí hàng đầu.
4.2.4.

Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn


kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
Trong thư gửi đồng bào niềm Nam ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:”
Tơi khun đồng bào đồn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn,
ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có
người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên
ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít
hay nhiều lịng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân
ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc
sẽ vẻ vang...". Theo đó, đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết, thật
sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
V. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐỒN KẾT TỒN DÂN TỘC
5.1. Làm tốt cơng tác vận động quần chúng


Hồ Chí Minh coi đồn kết, đại đồn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng. Để thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt cơng tác vận động quần chúng. Vận dụng
quần chúng để thu hút quần chúng chính là để đồn kết mọi người, tạo ra động lực để
phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa. Theo Người để phát huy đầy đủ vai trị, trí tuệ, khả
năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải biết
làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động quần chúng
nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của
người công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc, từ đó họ tích cực, chủ động, tự
giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Người dặn: “Cần phải chịu khó tìm
đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì ích lợi của họ mà phải làm”.
Theo Hồ Chí Minh mọi phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều phải phù hợp
với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; đồng thời phải xuất phát từ thực tế trình độ dân
trí và văn hóa, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán và cụ thể

đối với từng địa phương, từng đối tượng của nhân dân.

5.2. Thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập
hợp quần chúng
Theo Hồ Chí Minh, để tập hợp quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả, cần phải tổ
chức đồn thể, tổ chức quần chúng. Đây là những tổ chức để tập hợp, giáo dục, rèn luyện
quần chúng cho phù hợp với từng giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, vùng
miền… như các tổ chức: Cơng đồn, Hội Nơng dân, Đồn thanh niên, Hội phụ nữ… Các
đồn thể, tổ chức quần chúng có nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy tích cực của
các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng cho từng giai đoạn.
Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm vụ
tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia cách
mạng, đấu tranh và bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Chính vì vậy mà trong suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam, xây dựng và bảo vệ đất nước, các tổ chức, đồn thể khơng


ngừng lớn mạnh về số lượng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ của cách mạng, là hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc.
5.3. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận
dân tộc thống nhất
Theo Hồ Chí Minh, các đồn thể, tổ chức quần chúng tập hợp thành Mặt trận dân tộc
thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao
nhiêu thì khối đại đồn kết tồn dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vững bấy nhiêu. Các
đoàn thể, tổ chức quần chúng và Mặt trân dân tộc thống nhất là sợi dây gắn kết Đảng với
nhân dân. Người khẳng định: “Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân,
bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”. Như vậy, bản chất
của đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của dân, do đó vai trị của Mặt
trận và các đồn thể nhân dân là phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp, các
tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức của mình. Cơng tác vận động quần chúng
phải dựa trên chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đai đoàn kết, Thành cơng, thành cơng, đại

thành cơng!”. Đối với các đồn thể, tổ chức quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng được tập
hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều có sự chỉ đạo trong công
tác vận động, thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ chức của mình.
Người chỉ rõ: “Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của
cách mạng Việt Nam… Phải đoan kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến
bộ. Phải đoàn kết các dân tộc an hem, cùng nhau xây dựng Tổ quốc… Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và các đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa
thuận ấm no, xây dựng tổ quốc”

VI.

Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN

TỘC ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu
của dân tộc ta, được hun đúc trong mấy ngàn năm đấu tranh dựng và giữ nước, trở thành
động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố,


thăng trầm để tồn tại và phát triển bền vững, có ý nghĩa và giá trị to lớn đối với cách
mạng thắng lợi của Việt Nam.
6.1. Giá trị lý luận
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được Hồ Chí Minh đề ra từ rất sớm.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đại đồn kết dân tộc khơng phải là sách lược hay thủ đoạn
chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định
“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc
lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”. Và đại đồn
kết của Hồ Chí Minh sớm trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt
Nam, là động lực chủ yếu, là nhân tố quyết định sự thành bài của cách mạng Việt Nam.

Chính tư tưởng này đã góp phần quan trọng vào bổ sung và phát triển vào lý luận cách
mang thế giới mà trước đó các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chưa đề cập đến vấn
đề đại đoàn kết dân tộc.
Cụ thể: Mác và Ph.Ăngghen mới bàn đến đoàn kết công nông ở mỗi nước, khẩu hiệu:
“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản
chuyển sang chủ nghĩa đế quốc (thập niên 60 thế kỷ XIX), xuất hiện vấn đề dân tộc,
thuộc địa; áp bức giai cấp và dân tộc diễn ra trên toàn thế giới. V.I. Lênin phát triển tư
tưởng đó rộng ra quy mơ tồn thế giới với khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Tuy nhiên, do tính chất thời đại mà Lênin và Quốc tế Cộng
sản cũng chưa kịp nhận thức đầy đủ vấn đề dân tộc thuộc địa. Vì vậy, tư tưởng đoàn kết
dân tộc trong Mặt trận Dân tộc thống nhất chưa thật sự được quan tâm.
Hai là, lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng vậy nên tất yếu đại đoàn kết
được xác định là nhiệm vụ hàng đầu, và phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực
Sự kế thừa, tiếp thu, nhận thức và sáng tạo của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
đã làm phong phú hơn lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về công tác dân vận và tổ chức
quần chúng của Đảng Cộng Sản.
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công


Một lần nữa khẳng định được tầm quan trọng sức mạnh của đoàn kết, liên minh giữa
các giai cấp, tầng lớp và giữa những con người con người có cùng tấm lịng u nước.
Giá trị lý luận về đại đồn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam soi sáng
trong thực tiễn cách mạng không chỉ trong q khứ mà cịn cả hơm nay và mai sau.
6.2. Giá trị thực tiễn
Giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc thể hiện rất rõ ràng
trong thời kỳ đấu tranh giành lại độc cho đất nước và cho đến ngày nay sức sống của nó
vẫn rực cháy tiếp tục trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ khỏi từ trong giặc ngoài. Là nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó
khăn thử thách để tiến tới mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ,

văn minh”.
Trong q trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, giành lại chủ quyền lãnh thổ cho đất
nước, đoàn kết dân tộc phát huy sức mạnh quy tụ, kéo sát lại mọi người từ Bắc vào Nam,
từ nông thôn đến thành thị, từ niềm núi hải đảo, từ già trẻ lớn bé, từ nam hay nữ, tất thẩy
những người có lịng u nước đồng sức đồng lòng tạo nên sức mạnh to lớn làm nên
những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp. Chẳng tự nhiên mà ta có được tự do chủ quyền
như ngày hôm nay, cũng chẳng tự nhiên chúng ta giành thắng lợi trong các cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Tất cả đều là nhờ vào sự đoàn kết mà phát huy sức mạnh dân tộc toàn dân
kháng chiến chống giặc ngoại xâm thông qua sự lãnh đạo của Đảng với mục đích “Đồn
kết tồn dân, phụng sự tổ quốc”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết đã thấm nhuần
vào tư tưởng người Việt, có thể coi là một nét văn hóa hay phong tục của ngừi Việt. Và
trong suốt 90 năm thục hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc tư
tưởng đó đã trở thành nền tảng, chân lý soi đường để Đảng và nhân dân ta thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới trong suốt 30 năm qua, đưa cách mạng Việt Nam vững
bước đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội mà
đại đồn kết dân tộc cũng góp phần lớn trong việc xây dựng “đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, tiếp tục nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước tiến tới xã hội chủ nghĩa,
hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đại


đoàn kết càng phải được củng cố và khẳng định mạnh mẽ hơn nữa. Nhận diện được sự
quan trọng và sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc, các thế lực thù địch tìm mọi
cách chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc bằng nhiều thủ đoạn, chiêu trị khác nhau, xun
tạc về chủ trương, chính sách của Đảng, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tín
ngưỡng, tơn giáo, sắc tộc... nhằm kích động, làm dấy lên những vấn đề bất ổn trong khối
đại đoàn kết. Chính vì thế nên giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết càng
mang giá trị hơn lớn mạnh, tiếp sức, củng cố sự nghiệp đổi mới; quy tụ giai cấp công
nhân, nông dân, đội ngũ tri thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người

cao tuổi, các dân tộc đồng bào định cư ở nước ngoài. Dưới sự soi sáng của tư tưởng Hồ
Chí Minh Mặt trận tổ quốc Việt Nam và cá đồn thể nhân dân đóng vai trị tập hợp, vận
động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình
kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo động lực chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội xây dựng nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Vai trị đó được biểu hiện thông qua các hoạt động tổ chức xã hội, phát động và thực
hiện phong trào thi đua yêu nước trên tồn quốc được sự hưởng ứng tích cực từ mọi tầng
lớp, các cuộc vận động toàn dân đoàn kết giúp đỡ người ở vùng khó khăn, vùng gặp nạn,
cùng nhau phát triển kinh tế - xã hội bền vững với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía
sau”, xóa đói giảm nghèo; hưởng ứng các phong trào phòng chống tội phạm, tệ nạn xã
hội. Các phong trào cụ thể như “Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn
minh”, “Tồn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “chung tay vì người
nghèo”,.... đều được sự hưởng ứng của người dân, tích cực tham gia đã tạo nên sự gắn kết
cộng đồng, tăng cường thêm sự tin tưởng và thương yêu nhau giữa những con người,
giữa những tầng lớp, cải thiện những khó khăn, thúc đẩy nhanh bước phát triển bền vững
đến xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Để giữ vững và phát huy những giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đồn kết dân tộc chúng ta cần có sự nhận thức, hành động tỉnh táo và đúng đắn;
làm tốt công tác tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
VII. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Nhờ vận dụng đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, nên cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ (1945-1975) của nhân dân Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được thắng lợi to lớn, đem lại độc lập và thống nhất thật sự
cho dân tộc. Việt Nam hiện nay,đang trên con đường xây dựng và phát triển đất nước với
mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước dân giàu nước mạnh cơng chủ văn minh.Từ thời

chiến tranh sang thời hịa bình, từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang quản lý
kinh tế theo cơ chế thị trường... là những bước chuyền đối lớn lao, tác động đến cơ cấu xã
hội, cơ cấu giai cấp, lối sống của các tầng lớp nhân dân, các gia đình trong xã hội. Do đó,
đặt ra nhiều vấn đề về liên minh, liên kết, tập hợp các tầng lớp xã hội, các cá nhân trong
khối đoàn kết dân tộc, nhằm tạo nên sức mạnh mới cho dân tộc Việt Nam.
Từ những bài học có giá trị lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng và phất triển
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nội dung thứ sáu trong Du
thảo cuơng lĩnh là "Xây dụng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, cùng cổ và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất". Nói về hệ thống chính trị, Dự
thảo Cương lĩnh nhấn mạnh "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thế nhân dân có vai
trị rất quan trọng trong sự nghiệp đại đồn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc". Cương lĩnh là văn kiện cơ bản của Đảng nên chỉ có thể nêu lên những quan điểm
và phương hướng lớn, khơng thể đề cập những chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể.
Do đó, các kỳ Đại hội đều cần bổ sung những giải pháp để thực hiện hiệu quả.
Với chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong Dự thảo Cương lĩnh, trước hết cần nhận
thức rõ đại đoàn kết tồn dân tộc khơng phải là sự hơ hào, kêu gọi chung chung mà là
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng có ý nghĩa khoa học, lý huận và chính
trị - thực tiễn sâu sắc. Muốn tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng hùng mạnh, thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng lãnh đạo, cầm quyền phải chú trọng xây dựng, hoàn
thiện và bảo đảm tính đúng đắn, hiện thực của Cương lĩnh, đưong lối chính trị, đề ra mục
tiêu chiến hược lâu dài phản ánh quy luật phát triển của cách mạng, đồng thời đề ra
những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phù hợp với từng giai đoạn. Đảng chú trọng lãnh đạo,
chỉ đạo xây dụng, phát triển các tổ chức quần chúng, lựa chon hình thức tổ chức thích
hợp để tập hợp và phát huy vai trị tích cuc, chủ động, tự giác của các tầng lớp nhân dân.
Đảng coi trọng và không ngừng đổi mới công tác vận động quần chúng, cùng cố sự gắn
bó mật thiết với nhân dân, khắc phục những biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng nhân
dân.


Chính sách đối với các tầng lớp xã hội:

-Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và
chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề
nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao đong, đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
-Xây dựng, phát huy vai trị của giai cấp nơng dân, chủ thể của q trình phát triển nơng
nghiệp, nơng thơn.
-Xây dụng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước. Tạo điều kiện xây dụng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trách nhiệm
xã hội cao.
- Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối
sống, tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể hực, trí tuệ cho thế hệ trẻ.
-Nâng cao trình đo mọi mặt và địi sống vật chất, tinh thần của phụ nữ.
-Phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân của cựu chiến binh.
- Quan tâm chăm sóc sức khoẻ, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hố, được
tiếp cận thơng tin, sống vui, sống khoė.
Đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả
thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ
thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào ổn
định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân
ta với nhân dân các nước. Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp xảy dụng đất nước.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hố, phát huy vai trị nòng



cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực
hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân
dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại.
Ở thời điểm hiện nay những thời cơ và thách thức đan xen nhau đang thường xuyên
tác đong đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng
ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, phải vận
dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của
tình hình mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triền,
hoàn thiện cùng với thực tiễn biến đổi của đất nước.
Kết luận
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngồi đều ln ln
tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển
đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội
dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập th ểvà cá nhân trên cơ sở lấy
liên minh cơng nơng và trí thức làm nòng cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì
độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch
sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp
thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết có một vai trị cực kỳ quan trọng. Nó khơng chỉ là lời giải đáp đúng
đắn cho những bài tốn của cách mạng vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử
nó vẫn giữ nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng
minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ
đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm
sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành

hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch


trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt
Nam hơn nửa thế kỷ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh được qn triệt và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển
mạnh mẽ và giành được thăng lợi, nơi nào, lúc nào rời xa tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó
cách mạng bị trở ngại và tổn thất.

ĐỀ TÀI PHỤ:
PHÂN TÍCH NỘI DUNG VÀ
Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM:
“VÌ LỢI ÍCH MƯỜI NĂM
THÌ PHẢI TRỒNG CÂY. VÌ
LỢI ÍCH TRĂM NĂM THÌ
PHẢI TRỒNG NGƯỜI”
(HỒ CHÍ MINH)


Đề cương thảo luận
I.
II.
III.
IV.

HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA LUẬN ĐIỂM
VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI
VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
KẾT LUẬN



I.

HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA LUẬN ĐIỂM
Cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người

cộng sản vĩ đại, một anh hùng giải phóng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc
đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ Quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng
cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hịa bình, cơng lý trên thế giới. Mục đích
cao cả của Người, mục đích mà Người nguyện phấn đấu suốt đời, đó là mong cho dân
tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "nếu nước độc
lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt
đời, Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo
Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội
chủ nghĩa khơng có con đường nào khác ngồi giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng,
đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa
“hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Vì vậy, sinh thời Hồ Chí Minh rất quan tâm tới
nền giáo dục nước nhà. Đã nhiều lần, người đến thăm, động viên giáo viên, học sinh, sinh
viên ở một số trường. Và tại lớp học chính trị của giáo viên cấp hai, cấp ba toàn miền
bắc, ngày 13/9/1958, Bác Hồ đã có bài nói quan trọng về nhiệm vụ của những người thầy
giáo với sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Bác căn dặn: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
II.
VAI TRỊ CỦA CON NGƯỜI
Câu nói của Bác là lời khuyên nhủ đã trở thành khẩu hiệu nổi tiếng không chỉ đối
ngành giáo dục nước ta. Bởi lời khuyên nhủ ấy rất hình tượng, cụ thể, gần gũi, dễ hiểu và
dễ thấm nhuần các trọng trách lâu dài của dân tộc, của đất nước. “ Vì lợi ích mười năm
trồng cây” đó là một nhiệm vụ lâu dài và mang lợi ích về sau. Như Bác cũng từng nói



×