Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Trách nhiệm pháp lý và các loại trách nhiệm pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI (CSII)
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Lớp tín chỉ: PLDC1022H_K21_HK1_D1.3_LT
HỌC KỲ: 01 - NĂM HỌC: 2021 – 2022

Đề tài:
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VÀ
CÁC LOẠI TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ

Họ và tên sinh viên

: Lý Thanh Thảo

Mã SV

:

Ngày/tháng/năm sinh : 23/01/2003
Lớp niên chế

:

Họ và tên giảng viên

:


TP. HCM – 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
CHƯƠNG 1. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ............................................................2
1.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý.......................................................................2
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý.................................................................2
1.3. Phân loại trách nhiệm pháp lý........................................................................3
1.4. Năng lực trách nhiệm pháp lý.........................................................................3
1.5. Truy cứu trách nhiệm pháp lý.........................................................................4
1.5.1. Khái niệm của truy cứu trách nhiệm pháp lý...................................................4
1.5.2. Đặc điểm của truy cứu trách nhiệm pháp lý.....................................................4

CHƯƠNG 2. CÁC LOẠI TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ.......................................5
2.1. Trách nhiệm hình sự.........................................................................................5
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự........................................................................5
2.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự...................................................................5
2.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự.........................................................................5
2.1.4. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự................................................................... 6

2.2. Trách nhiệm dân sự..........................................................................................7
2.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự.........................................................................7
2.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự....................................................................7
2.2.3. Cơ sở của trách nhiệm dân sự..........................................................................8

2.3. Trách nhiệm hành chính..................................................................................8
2.3.1. Khái niệm trách nhiệm hành chính..................................................................8
2.3.2. Đặc điểm của trách nhiệm hành chính.............................................................8
2.3.3. Cơ sở của trách nhiệm hành chính...................................................................9

2.4. Trách nhiệm kỷ luật........................................................................................10

2.4.1. Khái niệm của trách nhiệm kỷ luật................................................................10
2.4.2. Nguyên tắc xử lý kỷ luật................................................................................10
2.4.3. Các hành vi của cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ luật......................10
2.4.4. Các hình thức kỷ luật đối với cơng chức........................................................11

2.5. Một số trách nhiệm pháp lý khác..................................................................12
KẾT LUẬN............................................................................................................13


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện nay, việc nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là một yêu
cầu tất yếu khách quan và đặc biệt trở thành một yêu cầu rất cần thiết đối với việc xây
dựng phát triển nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước sử dụng pháp luật - một trong những công cụ hiện hữu để nhà
nước quản lý xã hội, có vai trị đặc biệt trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển
của cả một đất nước.
Việt Nam hiện đang là một nước trên đà phát triển, các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, giáo dục và khoa học cơng nghệ khơng ngừng đổi mới nhưng vẫn cịn
rất nhiều bất cập về những vấn đề xã hội liên quan đến pháp luật. Cụ thể là những
hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Đây cũng chính là cơ sở
hình thành nên trách nhiệm pháp lý vì vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý làm phát
sinh một mối quan hệ pháp lý đặc biệt - gọi là trách nhiệm pháp lý.
Trước hết, ta cần hiểu khái niệm về trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý là
hậu quả bất lợi mà chủ thể pháp luật phải gánh chịu do pháp luật quy định vì hành vi
vi phạm pháp luật của mình (hoặc người khác mà mình bảo lãnh hoặc giám hộ). Khác
với các loại hình trách nhiệm khác, trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với sự cưỡng chế
nhà nước với việc áp dụng chế tài do pháp luật quy định. Thông qua trách nhiệm pháp
lý nhà nước quản lý xã hội đi lên đà phát triển vững mạnh – một xã hội văn minh,
cơng bằng, tiến bộ.
Nhờ có trách nhiệm pháp lý nhà nước có thể ngăn ngừa, giáo dục và cải tạo

những hành vi vi phạm pháp luật. Từ những quy định của pháp luật về trách nhiệm
pháp lý, mọi người dân có lịng tin vào pháp luật. Do đó trách nhiệm pháp lý gắn liền
với đời sống xã hội, có tính chất đặc biệt quan trọng và đảm bảo các hành vi vi phạm
đều được xử lý nghiêm minh. Bên cạnh đó, pháp luật cịn bảo đảm dân chủ, cơng
bằng, phù hợp với lợi ích chung của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau. Nhận
thức được những tính chất quan trọng trên và nhẳm mục đích nâng cao ý thức pháp
luật về trách nhiệm pháp lý, em đã chọn đề tài: “Trách nhiệm pháp lý và các loại
trách nhiệm pháp lý”.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
1.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Trong đời sống xã hội, trách nhiệm là việc mà mỗi người phải làm và phải có ý
thức với những việc làm đó. Trách nhiệm ln là một gánh nặng nhưng nó sẽ giúp
chúng ta rất nhiều trong q trình phát triển. Người sống có trách nhiệm sẽ được người
khác tôn trọng và sẽ dễ dàng đạt được nhiều thành công. Họ sẽ luôn luôn chủ động
trong mọi việc, tự tin phát triển bản thân mình, dám làm những điều mình muốn và sẵn
sàng chịu trách nhiệm về những việc đã làm mà không đổ lỗi hay đùn đẩy cho bất kỳ
ai.
Trong lĩnh vực pháp lý thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa khác
nhau: tích cực và tiêu cực. Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là điều cần phải
làm trong hiện tại và tương lai, ở nghĩa này trách nhiệm đồng nhất với “nghĩa vụ” là
nội dung quan hệ pháp luật và tương đồng với “bổn phận” trong quan hệ đạo đức. Đó
là hành vi phải tiến hành trong hiện tại và tương lai.
Theo nghĩa tiêu cực trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi về
vật chất và tinh thần đối với một chủ thể đã có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong
quá khứ, biểu hiện sự lên án, phê phán của nhà nước và dư luận của xã hội đối với

hành vi đó. Và trách nhiệm pháp lý được khái niệm như sau:
Trách nhiệm pháp lý là loại quan hệ pháp lý đặc biệt giữa nhà nước, thơng qua
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ thể vi phạm pháp luật, theo đó, nhà nước có
quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt được quy định ở các
chế tài quy phạm pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật và chủ thể vi phạm phải
gánh chịu hậu quả bất lợi do đã vi phạm pháp luật.

1.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý mang yếu tố sự lên án của nhà nước và xã hội đối với hành
vi vi phạm pháp luật, là sự phản ứng của nhà nước đối với hành vi đó. Đặc điểm này
thể hiện ở nội dung của trách nhiệm pháp lý. Vì vậy, trách nhiệm pháp lý là biện pháp
tác động có hiệu quả đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Về mặt hình thức, trách nhiệm pháp lý là việc thực hiện chế tài pháp luật thông
qua hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và việc chủ thể vi phạm
pháp luật phải thực hiện chế tài đó. Trách nhiệm pháp lý không phải là sự áp dụng chế
tài bất kỳ, mà chỉ áp dụng các chế tài có tính chất trừng phạt: Chế tài hình sự, áp dụng
cho trách nhiệm hình sự; Chế tài hành chính, áp dụng cho trách nhiệm hành chính; Chế
tài kỷ luật, áp dụng cho trách nhiệm kỷ luật; Chế tài dân sự (chế tài tài sản), áp dụng
cho trách nhiệm dân sự.
Trách nhiệm pháp lý liên quan đến sự cưỡng chế nhà nước. Khi có hành vi vi
phạm pháp luật xảy ra, thì lúc đó giữa chủ thể vi phạm và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ xuất hiện một loại quan hệ pháp luật, trong đó nhà nước có quyền xác định
các biện pháp cưỡng chế và áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó. Nhưng khơng phải
mọi biện pháp cưỡng chế trong trường hợp này là trách nhiệm pháp lý. Chỉ những biện
pháp nào có tính chất trừng phạt, tức là tước đoạt, làm thiệt hại về một phạm vi nào đó
các quyền tự do, lợi ích hợp pháp mà chủ thể vi phạm pháp luật đáng ra được hưởng.
Những biện pháp cưỡng chế nhằm mục đích ngăn ngừa vi phạm pháp luật đang xảy ra
không thuộc loại trách nhiệm pháp lý.
2



Cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm
pháp luật là nguyên nhân, trách nhiệm pháp lý là hậu quả. Cơ sở pháp lý của việc xác
định trách nhiệm pháp lý là quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đặc điểm này xuất phát từ quan hệ không tách rời giữa trách nhiệm pháp lý và
nhà nước. Chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới xác định một cách chính thức
hành vi nào là hành vi vi phạm pháp luật và áp dụng biện pháp pháp lý đối với chủ thể
đã gây ra hành vi vi phạm pháp luật đó.

1.3. Phân loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi do nhà nước áp dụng đối với cá
nhân, tổ chức gây ra hậu quả vi phạm pháp luật của mình hoặc của người mà mình bảo
lãnh hoặc giám hộ. Theo đó, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật phải chịu những chế
tài được quy định tại phần chế tài của quy định pháp luật.
Các loại trách nhiệm pháp lý hiện nay:
- Trách nhiệm hình sự.
- Trách nhiệm hành chính.
- Trách nhiệm dân sự.
- Trách nhiệm kỷ luật.
Đối với mỗi loại hành vi vi phạm khác nhau, tùy thuộc vào tính chất hành vi đó
là gì, hồn cảnh, điều kiện, hậu quả mang lại như thế nào sẽ là căn cứ để xác định
người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm hành chính hay trách nhiệm kỷ luật theo quy định của pháp luật. Thơng qua đó,
sẽ hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ:
- Ví dụ 1: Chị A tham gia giao thông điều khiển xe máy vượt đèn đỏ. Chị A phải
chịu trách nhiệm hành chính và bị xử phạt từ 600.000 đồng – 1.000.000 đồng.
- Ví dụ 2: Anh M với ơng C cãi nhau về vấn đề anh M làm bể chậu cây mà ông C
yêu quý, trong lúc say rượu anh M đã đánh ơng C trong trạng thái tinh thần kích động
mạnh, tỉ lệ tổn thương cơ thể của ông C là 40% , anh M phải chịu trách nhiệm hình sự

trước hành vi của mình.

1.4. Năng lực trách nhiệm pháp lý
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng của cá nhân hay tổ chức gánh
chịu hậu quả bất lợi, biện pháp cưỡng chế của nhà nước được quy định ở chế tài quy
phạm pháp luật.
Đối với cá nhân, năng lực trách nhiệm pháp lý được pháp luật của nhà nước quy
định như sau:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, chịu
trách nhiệm hành chính về mọi vi vi phạm hành chính.
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm
nghiêm trọng do cố ý, phải chịu trách nhiệm hành chính do cố ý thực hiện vi phạm
hành chính.
Bên cạnh điều kiện về độ tuổi, người có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý phải
là người có trạng thái thần kinh bình thường, ổn định, không mắc bệnh tâm thần, hay
căn bệnh khác mà khơng điều chỉnh được hành vi của mình.

3


Đối với tổ chức, năng lực pháp lý xuất hiện khi tổ chức đó được thành lập theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định hoặc được nhà nước thừa nhận. Năng lực pháp lý
của tổ chức chấm dứt khi tổ chức đó giải thể, phá sản hoặc sáp nhập vào một tổ chức
khác.
Ngồi ra, trách nhiệm pháp lý cịn là việc cá nhân, tổ chức cần phải thực hiện
nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tùy theo mức độ, tính chất hành vi gây ra cá nhân,
tổ chức phải gánh chịu trách nhiệm hình sự, hành chính, dân sự hoặc kỷ luật.
Ví dụ: Em H (19 tuổi) vì thiếu tiền chơi game, H nảy sinh ý định cướp tài sản và
lên kế hoạch với bạn của mình là M. Trên đoạn vắng, hai em đã cướp túi xách của chị
C. Chị C chống cự và em H đã dùng dao đâm chị C khiến chị tử vong. Em H phạm tội

trong trạng thái tinh thần bình thường và đã đủ tuổi để truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Do đó, em H phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định trong bộ luật hình sự vì
hành vi vi phạm pháp luật của mình.

1.5. Truy cứu trách nhiệm pháp lý
1.5.1. Khái niệm của truy cứu trách nhiệm pháp lý
Truy cứu trách nhiệm pháp lý chính là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước
do cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành nhằm cá biệt hoá bộ
phận chế tài của quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.
1.5.2. Đặc điểm của truy cứu trách nhiệm pháp lý
Thứ nhất, truy cứu trách nhiệm pháp lý là hoạt động thể hiện quyền lực nhà
nước. Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý do các cơ quan nhà nước, nhà chức
trách có thẩm quyền hoặc chủ thể được pháp luật trao quyền tiến hành theo quy định
của pháp luật và mỗi chủ thể đó cũng chỉ được truy cứu trách nhiệm pháp lý trong một
phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật. Truy cứu trách nhiệm pháp lý còn là sự
tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước. Điều này thể hiện qua việc quy định các biện
pháp cưỡng chế nhà nước cần áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật sẽ trở thành
hiện thực trong thực tế.
Thứ hai, truy cứu trách nhiệm pháp lý là việc cá biệt hoá các biện pháp cưỡng
chế của nhà nước. Truy cứu trách nhiệm pháp lý là việc cá biệt hoá các biện pháp
cưỡng chế nhà nước được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật
đối với chủ thể vi phạm pháp luật, có thể hiểu là áp dụng một biện pháp cưỡng chế nhà
nước cụ thể được quy định trong phần chế tài của Bộ luật dành cho người vi phạm,
nghĩa là việc áp dụng hình thức cưỡng chế dựa trên mức độ nghiêm trọng của hành vi
vi phạm.
Cuối cùng, truy cứu trách nhiệm pháp lý là hoạt động có trình tự, thủ tục rất chặt
chẽ. Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý có trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ do
pháp luật quy định để có thể bảo đảm tính chặt chẽ rõ ràng của pháp luật và tính đúng
đắn của hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý, hạn chế đến mức tối thiểu những sai
lầm có thể xảy ra, tránh hiện tượng oan sai, bỏ qua hành vi vi phạm. Khi truy cứu trách

nhiệm pháp lý, các cơ quan nhà nước, cơ quan có thẩm quyền phải thu thập, xử lý
thơng tin một cách chính xác, đầy đủ, tồn diện để xác định tính trung thực, tính khách
quan của vụ án, đối chiếu với các quy định của pháp luật, lựa chọn chế tài quy phạm
pháp luật phù hợp, đúng đối tượng, đúng tính chất và mức độ.

4


CHƯƠNG 2: CÁC LOẠI TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
2.1. Trách nhiệm hình sự
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất
lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước nhà nước do việc người đó thực hiện tội
phạm. Là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được thể hiện ở
bản án kết tội của tịa án có hiệu lực pháp luật, hình phạt và một số biện pháp cưỡng
chế hình sự khác do luật hình sự quy định.
2.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự
Thứ nhất, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở
chỗ người đã gây tội phải chịu trách nhiệm trước nhà nước.
Thứ hai, trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý. Là trách nhiệm
của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật
hình sự bằng một hậu quả bất lợi do tịa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện.
Thứ ba, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và
được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định.
Cuối cùng, trách nhiệm hình sự bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt
động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách
nhiệm hình sự và mang án tích. Có thể nói, trách nhiệm hình sự là dạng trách nhiệm
pháp lý nghiêm khắc nhất bởi phương tiện thực hiện trách nhiệm hình sự là hình phạt.

2.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cơ sở của trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 2 của Bộ luật hình
sự:
“Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự”.
Chỉ pháp nhận thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của
Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Bởi theo đó thì chỉ khi nào người thực hiện hành vi chứa đựng đầy đủ các dấu
hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định
như vậy giúp đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
Về mặt khách quan: Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi là cách cư xử của con người ra thế giới khách
quan được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động trách nhiệm hình sự chỉ
phát sinh khi có hành vi phạm tội. Hành vi đó có thể gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây
thiệt hại cho xã hội.
Về mặt chủ quan: Cơ sở của trách nhiệm hình sự dựa trên yếu tố “lỗi” của
người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lỗi được dựa trên quan
điểm chủ quan của người phạm tội.
Về mặt khách thể: Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội phải xâm hại
đến quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đây là dấu hiệu bắt buộc để xác
định có cấu thành tội phạm hay khơng. Ngồi ra có các dấu hiệu khơng bắt buộc như:
đối tượng của tội phạm, người bị hại.

5


Về mặt chủ thể: Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự,
tức là khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của mình. Người đó phải đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điều

12 của Bộ luật hình sự.
2.1.4. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 12 của Bộ luật Hình sự
năm 2015.
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều sau đây:
- Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua
bán người dưới 16 tuổi); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài
sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản);Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất
ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);Điều 265 (tội tổ chức đua xe
trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép); Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi
hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật);
Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm
nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc phương tiện điện tử của
người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện
tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá
hủy cơng trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).”

Như vậy, năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đã đạt
đến một độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ tiếp tục phát triển và hồn thiện thêm trừ
một số trường hợp đặc biệt (người bị mắc bệnh tâm thần…) được quy định trong Bộ
luật hình sự.
Nhà nước ta đã quy định 14 tuổi là mức tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm
hình sự và 16 tuổi là mức tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Vì con người
chúng ta khơng phải sinh ra đã có năng lực trách nhiệm hình sự mà nó là khả năng tự ý
thức của bản thân mỗi cá thể được hình thành trong quá trình phát triển cả về mặt tự
nhiên và xã hội. Người chưa đủ 14 tuổi thì về mặt sinh lý trí tuệ chưa phát triển đầy đủ
nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình. Người từ đủ
14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi cũng được coi là người chưa có năng lực trách
nhiệm hình sự đầy đủ. Nên họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội
phạm theo quy định của pháp luật chứ khơng chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội
phạm.
6


Hiện nay, số lượng trẻ vị thành niên phạm tội đang tăng cao, Đảng và nhà nước ta
đã và đang có những chủ trương chính sách riêng đối với người chưa thành niên phạm
tội. Chủ yếu nhằm mục đích răn đe, giáo dục bởi ở lứa tuổi này, ý thức phạm tội của
họ chưa cao nên có thể uốn nắn và cải tạo.
Ví dụ về vi phạm hình sự:
A (19 tuổi) là công dân cư trú tại khu vực biên giới, lợi dụng việc này, ngày
22/06/2020 A đã mua ma túy với một người Trung Quốc (không rõ tên, địa chỉ) với giá
10.000 nhân dân tệ và đem số ma túy về chia nhỏ bán cho các đối tượng nghiện trong
xã. Ngày 28/6/2020 lực lượng chức năng đã bắt quả tang đối tượng về hành vi mua
bán trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 143 gam hêrôin, 18 triệu đồng.
Hành vi của A có đủ các yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy được
quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.
Thứ nhất, về mặt khách thể:

- Hành vi của A đã xâm phạm đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và tính mạng,
sức khỏe của con người. Đây là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ (Khoản
1 Điều 8 Bộ luật hình sự).
Thứ hai, về mặt khách quan:
- Ma túy là chất tuyệt đối bị cấm sử dụng trong đời sống xã hội. Hành vi mua bán
ma túy của A là vi phạm pháp luật. Việc A mua ma túy từ một người Trung Quốc và
bán lại cho những người dân trong xã sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến an
ninh, trật tự, an tồn xã hội và tính mạng, sức khỏe của người dân.
Thứ ba, về mặt chủ quan:
- A phạm tội với lỗi cố ý. A nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp
luật nhưng vẫn thực hiện. Theo đó, A đã lợi dung nhà mình ở khu vực biên giới để mua
ma túy với người Trung Quốc và đem về bán lại cho những người trong xã.
Thứ tư, về chủ thể:
- Chủ thể của tội phạm là cá nhân, cụ thể là A (19 tuổi).
- Hành vi của A đủ các yếu tố cấu thành tội phạm nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình
sự.

2.2. Trách nhiệm dân sự
2.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối
với người vi phạm pháp luật dân sự. Nhằm bù đắp về tổn thất vật chất tinh thần cho
người bị hại, là hậu quả pháp lý bất lợi áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật dân
sự để buộc chủ thể này phải khắc phục những tổn thất gây ra.
2.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự được hiểu là một trách nhiệm pháp lý cho nên nó sẽ mang
những đặc tính nói chung của trách nhiệm pháp lý:
Thứ nhất là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm, chỉ được áp dụng khi có hành
vi vi phạm pháp luật và chị áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó.
Thứ hai là một hình thức cưỡng chế của nhà nước do cơ quan tổ chức có thẩm

quyền nhà nước áp dụng.
Cuối cùng, trách nhiệm dân sự luôn mang đến một hậu quả bất lợi cho người có
hành vi vi phạm pháp luật.
7


Ngồi những đặc điểm trên, trách nhiệm dân sự cịn mang những đặc điểm riêng:
Trách nhiệm dân sự mang tính tài sản. Đây chính là đặc điểm cơ bản của trách
nhiệm dân sự. Do đó, trách nhiệm dân sự của người vi phạm bao giờ cũng là sự bù đắp
cho bên vi phạm những lợi ích vật chất nhất định.
Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự có thể là người vi phạm nhưng cũng có thể là
người khác, như là người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành niên, pháp
nhân, cơ quan, tổ chức.
Hậu quả bất lợi mà người vi phạm phải chịu là việc bắt buộc phải thực hiện nghĩa
vụ hoặc bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và khắc phục vật chất cho bên vi
phạm.
2.2.3. Cơ sở của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự phát sinh khi cá nhân tổ chức vi phạm sự thỏa thuận trong
giao dịch dân sự hay có lỗi trong việc thực hiện hành vi gây hại đối với người khác
(sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín,…). Sự thỏa thuận của các bên là cơ sở hình
thành trách nhiệm dân sự.
Ví dụ: Anh T (là sinh viên Trường Đại học Lao động – Xã hội Cơ sở II) thỏa
thuận bán chiếc điện thoại Iphone 7 cũ cho chị M (bạn học cùng lớp) với giá 5 triệu
đồng.
- Cơ cấu của quan hệ pháp luật trong tình huống trên:
- Chủ thể: Anh T, chị M.
- Khách thể: chiếc điện thoại Iphone 7 cũ.
- Nội dung quan hệ pháp luật:
+ Anh T có quyền nhận 5 triệu đồng từ chị M và nghĩa vụ đưa cho chị M
chiếc điện thoại Iphone 7 cũ.

+ Chị M có quyền nhận chiếc điện thoại Iphone 7 cũ và nghĩa vụ đưa số tiền
5 triệu đồng cho anh T.
- Chị M và anh T phát sinh quan hệ pháp lý dân sự trao đổi mua và bán.

2.3. Trách nhiệm hành chính
2.3.1. Khái niệm trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
thực hiện hành vi vi phạm hành chính phải gánh chịu biện pháp cưỡng chế hành chính
tùy theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp cưỡng chế này do một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết định trên cơ sở pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính. Đây là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng đối
với cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật hành chính.
2.3.2. Đặc điểm của trách nhiệm hành chính
Đầu tiên, trách nhiệm hành chính chỉ đặt ra đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
hành chính.
Thứ hai, truy cứu trách nhiệm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm là
việc chủ thể có thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt đối với cá nhân,
tổ chức này.
Thứ ba, trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân vi
phạm trước nhà nước. Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính xâm hại đến trật tự quản
lý nhà nước và chỉ nhà nước mới có quyền áp dụng chế tài đối với các chủ thể đó, do
vậy trách nhiệm của cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trước nhà nước.
8


Thứ tư, việc truy cứu trách nhiệm hành chính được thực hiện trên cơ sở các quy
định của pháp luật hành chính.
Thứ năm, chế tài của trách nhiệm hành chính thì mức độ nghiêm khắc nhẹ hơn so
với chế tài hình sự.
Cuối cùng là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý sẽ khơng mang án tích. Bởi

vì người vi phạm hành chính khơng có các hành vi đặc biệt nguy hiểm như tội phạm.
2.3.3. Cơ sở của trách nhiệm hành chính
Cơ sở phát sinh bất cứ loại trách nhiệm pháp lý nào cũng đều chính là vi phạm
pháp luật. Khơng có vi phạm pháp luật thì sẽ khơng thể truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Do đó, cơ sở phát sinh trách nhiệm hành chính là vi phạm hành chính.
Cấu thành vi phạm hành chính:
- Mặt khách quan:
+ Vi phạm hành chánh có thể là hành vi vi phạm phát luật ( hành động hoặc
không hành động).
+ Do pháp luật cấm.
+ Không thực hiện hành vi mà pháp luật bắt buộc.
+ Mang tính chất nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm.
+Xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
+ Mối liên hệ nhân quả với các vi phạm hành chính mà hậu quả là yếu tố bắt
buộc thì phải xác định giữa hành vi vi phạm và hậu quả có quan hệ nhân quả trực tiếp.
+ Thời gian, địa điểm: đây không phải là yếu tố bắt buộc trong mặt khách
quan của cấu thành vi phạm hành chính, chỉ đối với những vi phạm hành chính nhất
định thì địa điểm, thời gian mới đóng vai trị quan trọng, thậm chí quyết định có vi
phạm xảy ra hay không.
+Phương tiện, công cụ thực hiện vi phạm hành chính cũng là một trong những
yếu tố bắt buộc trong một số cấu thành vi phạm hành chính.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: là dấu hiệu bắt buộc.
+ Lỗi cố ý hoặc vô ý.
+ Động cơ và mục đích vi phạm hành chính là yếu tố khơng bắt buộc.
+ Độ tuổi và nhận thức là căn cứ để loại trừ yếu trong vi phạm hành chính:
Người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: xử phạt vì hành vi cố ý.
Người từ 16 tuổi đến 18: bị xử về mọi hành vi.
Ví dụ về vi phạm hành chính: D bán trái cây và bánh trên vỉa hè ở nơi có quy
định cấm bán hàng rong, bị cảnh sát giao thơng phạt 100.000 đồng.

Việc D bán trái cây chính là vi phạm hành chính, cụ thể vi phạm kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ tại mục 2 chương II Nghị định 100/2019/NĐ-CP.
Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính:
- Hành vi có lỗi:
+ Điều 35 Luật giao thơng đường bộ 2008: Lòng đường và hè phố chỉ được
sử dụng cho mục đích giao thơng. Trong một số trường hợp vẫn cho phép tổ chức một
số hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội trên đường bộ.
+ Do đó, việc bán hàng rong là hành vi có lỗi. Lỗi có thể là lỗi cố ý (D biết
nhưng vẫn làm) hoặc lỗi vô ý (không biết quy định của pháp luật).
- Vi phạm quy định quản lý nhà nước:
+ Hành vi trên vi phạm quy định quản lý nhà nước về quản lý giao thông
đường bộ (vi phạm kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ).
9


+ Theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
+ Khoản 1 điều 12 Nghị định 100 quy định hành vi này phải bị xử phạt từ
100.000 đồng đến 200.000 đồng.

2.4. Trách nhiệm kỷ luật
2.4.1. Khái niệm của trách nhiệm kỷ luật
Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với cán bộ, công chức,
viên chức do vi phạm kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ
hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: M làm việc tại công ty cổ phần B. Trong thời gian làm việc, M thường
xun đi làm muộn và khơng hồn thành đúng thời hạn các cơng việc được giao. Do
đó, ban Giám đốc đã tiến hành kỷ luật M trước toàn thể cán bộ nhân viên tại đơn vị,
đồng thời giảm trừ lương của M trong tháng đó.
2.4.2. Nguyên tắc xử lý kỷ luật
Mỗi hành vi vi phạm bị xử lý một lần bằng một hình thức kỷ luật nếu trong cùng

một thời điểm cán bộ cơng chức viên chức có từ hai thành viên vi phạm trở lên thì sẽ
bị xử lý kỷ luật về hành vi vi phạm và áp dụng hình thức kỷ luật tùy vào mức độ vi
phạm.
Trách nhiệm kỷ luật đảm bảo tính khách quan, cơng bằng, công khai, minh bạch
và đúng pháp luật.
Khi xem xét xử lý kỷ luật phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ, tác hại
nguyên nhân của vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ tiếp thu và
sửa chữa việc khắc phục khuyết điểm, vi phạm hậu quả đã gây ra.
Khơng áp dụng hình thức xử phạt hành chính hoặc hình thức kỷ luật đảng thay
cho hình thức kỷ luật hành chính và khi xử lý kỷ luật hành chính khơng thay cho truy
cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi vi phạm đến mức độ xử lý hình sự.
Trường hợp cán bộ, cơng chức, viên chức đã bị xử lý kỷ luật đảng thì hình thức
kỷ luật hành chính phải bảo đảm ở mức độ tương xứng với kỷ luật đảng.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật đảng, cơ quan, tổ
chức, đơn vị phải xem xét, quyết định việc xử lý kỷ luật hành chính.
Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, tinh thần, danh dự, nhân phẩm
trong q trình xử lý kỷ luật.
Cán bộ, cơng chức, viên chức có hành vi vi phạm lần đầu đã bị xử lý kỷ luật mà
trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày quyết định xử lý kỷ luật có hiệu lực có cùng hành
vi vi phạm thì bị coi là tái phạm; ngồi thời hạn 24 tháng thì hành vi vi phạm đó được
coi là vi phạm lần đầu nhưng được tính là tình tiết tăng nặng khi xem xét xử lý kỷ luật.
2.4.3. Các hành vi của cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ luật
Theo Điều 6 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định:
Điều 6. Các hành vi bị xử lý kỷ luật
1. Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ
của cán bộ, công chức, viên chức; những việc cán bộ, công chức, viên chức không
được làm; nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; vi phạm đạo đức, lối sống
hoặc vi phạm pháp luật khác khi thi hành cơng vụ thì bị xem xét xử lý kỷ luật.
2. Mức độ của hành vi vi phạm được xác định như sau:
a) Vi phạm gây hậu quả ít nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ tác hại

không lớn, tác động trong phạm vi nội bộ, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ
chức, đơn vị công tác.
10


b) Vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ, tác hại
lớn, tác động ngoài phạm vi nội bộ, gây dư luận xấu trong cán bộ, công chức, viên
chức và nhân dân, làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị cơng tác.
c) Vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ, tác hại
rất lớn, phạm vi tác động đến toàn xã hội, gây dư luận rất bức xúc trong cán bộ, công
chức, viên chức và nhân dân, làm mất uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.
d) Vi phạm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ,
tác hại đặc biệt lớn, phạm vi tác động sâu rộng đến toàn xã hội, gây dư luận đặc biệt
bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân, làm mất uy tín của cơ quan,
tổ chức, đơn vị cơng tác."
2.4.4. Các hình thức kỷ luật đối với công chức
Điều 79,80,81,82 Luật cán bộ công chức số 22/2008/QH12 quy định như sau:
Điều 79. Các hình thức kỷ luật đối với công chức
1. Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình
thức kỷ luật sau đây:
a) Khiển trách;
b) Cảnh cáo;
c) Hạ bậc lương;
d) Giáng chức;
đ) Cách chức;
e) Buộc thôi việc.
2. Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý.
3. Cơng chức bị Tịa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương

nhiên bị buộc thơi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; cơng chức
lãnh đạo, quản lý phạm tội bị Tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật thì đương nhiên thơi giữ chức vụ do bổ nhiệm.
4. Chính phủ quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục và
thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với công chức.
Điều 80. Thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật
1. Thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn do Luật này quy định mà khi hết thời hạn
đó thì cán bộ, cơng chức có hành vi vi phạm khơng bị xem xét xử lý kỷ luật.
Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm có hành vi vi phạm.
2. Thời hạn xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức là khoảng thời gian từ khi
phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật của cán bộ, công chức đến khi có quyết định xử lý
kỷ luật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thời hạn xử lý kỷ luật khơng q 02 tháng; trường hợp vụ việc có những tình tiết
phức tạp cần có thời gian thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hạn xử
lý kỷ luật có thể kéo dài nhưng tối đa không quá 04 tháng.
3. Trường hợp cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử
theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình
chỉ vụ án mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm kỷ luật thì bị xử lý kỷ luật; trong
thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người ra
quyết định phải gửi quyết định và hồ sơ vụ việc cho cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm
quyền xử lý kỷ luật.
Điều 81. Tạm đình chỉ cơng tác đối với cán bộ, công chức
11


1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý cán bộ, cơng chức có thể ra quyết định tạm
đình chỉ công tác trong thời gian xem xét, xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, nếu để cán
bộ, công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý. Thời
hạn tạm đình chỉ công tác không quá 15 ngày, trường hợp cần thiết có thể kéo dài thêm
nhưng tối đa khơng q 15 ngày; nếu cán bộ, công chức bị tạm giữ, tạm giam để phục

vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử thì thời gian tạm giữ, tạm giam được tính là thời
gian nghỉ việc có lý do; hết thời hạn tạm đình chỉ cơng tác nếu cán bộ, cơng chức
khơng bị xử lý kỷ luật thì được tiếp tục bố trí làm việc ở vị trí cũ.
2. Trong thời gian bị tạm đình chỉ cơng tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, cán bộ, công chức được hưởng lương theo quy
định của Chính phủ.
Điều 82. Các quy định khác liên quan đến cán bộ, công chức bị kỷ luật
1. Cán bộ, công chức bị khiển trách hoặc cảnh cáo thì thời gian nâng lương bị
kéo dài 06 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực; nếu bị giáng chức, cách
chức thì thời gian nâng lương bị kéo dài 12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có
hiệu lực.
2. Cán bộ, cơng chức bị kỷ luật từ khiển trách đến cách chức thì khơng thực hiện
việc nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày
quyết định kỷ luật có hiệu lực; hết thời hạn này, nếu cán bộ, công chức không vi phạm
đến mức phải xử lý kỷ luật thì tiếp tục thực hiện nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ, công chức đang trong thời gian bị xem xét kỷ luật, đang bị điều tra,
truy tố, xét xử thì khơng được ứng cử, đề cử, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt
phái, đào tạo, bồi dưỡng, thi nâng ngạch, giải quyết nghỉ hưu hoặc thôi việc.
4. Cán bộ, công chức bị kỷ luật cách chức do tham nhũng thì khơng được bổ
nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý.

2.5. Một số trách nhiệm pháp lý khác
Trách nhiệm vật chất là trách nhiệm mà người lao động phải gánh chịu khi gây
ra thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp (như làm hư hỏng hoặc làm mất dụng cụ, thiết
bị, các tài sản khác do doanh nghiệp, giao cho hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho
phép) hoặc công chức phải gánh chịu vì trong khi thi hành cơng vụ gây ra thiệt hại cho
tài sản của nhà nước hoặc của chủ thể khác. Người lao động hoặc công chức phải bồi
thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại theo thời giá thị trường và có thể được bồi
thường bằng cách trừ dần vào lương hàng tháng.

Trách nhiệm hiến pháp là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh chịu khi họ vi
phạm hiến pháp, chế tài đi kèm trách nhiệm này được quy định trong luật hiến pháp.
Trách nhiệm hiến pháp vừa là trách nhiệm pháp lý vừa là trách nhiẹm chính trị song
hẹp hơn trách nhiệm chính trị. Cơ sở của trách nhiệm hiến pháp là hành vi trực tiếp vi
phạm hiến pháp, ví dụ cơ quan nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với
hiến pháp, song có cả hành vi gián tiếp vi phạm hiến pháp, ví dụ, đại biểu dân cử có
thể bị miễn nhiệm khi khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Chủ thể
phải chịu trách nhiệm hiến pháp chủ yếu là các cơ quan nhà nước và những người có
chức vụ trong các cơ quan nhà nước.
Trách nhiệm pháp lý của quốc gia trong quan hệ quốc tế có thể phát sinh từ
hành vi vi phạm luật quốc tế của quốc gia. Ví dụ, quốc gia khơng thực hiện các cam
kết quốc tế mà mình đã công nhận hoặc ban hành luật trái với luật quốc tế, không ngăn
chặn kịp thời các hành vi cực đoan tấn cơng cơ quan đại diện ngoại giao nước ngồi
12


của những người biểu tình… Trách nhiệm này cũng có thể phát sinh khi có hành vi mà
luật quốc tế không cấm.

13


KẾT LUẬN
Tóm lại, việc nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý thật sự rất quan trọng trong đời
sống con người. Nhà nước ban hành pháp luật nhằm xử lý những hành vi gây rối, nguy
hiểm cho xã hội và có vai trò đặc biệt trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển của
một đất nước. Một quốc gia phát triển dài lâu, vững chắc là một quốc gia có sự tăng
trưởng liên tục khơng những kinh tế, mà cần có có sự đảm bảo, ổn định về mặt xã hội,
văn hóa và an ninh. Và để làm tốt được điều này, quy định và ý thức thực hiện pháp
luật dù là tự giác hay bắt buộc phải chặt chẽ và nghiêm túc.

Thông qua trách nhiệm pháp lý nhà nước thể hiện được quyền lực của mình bằng
những chế tài đã đặt ra. Nếu khơng có pháp luật, khơng có các chế tài thì xã hội sẽ mất
cân bằng, làm rối loạn không những về trật tự, an ninh mà cịn về đạo đức của con
người. Vì thế, ý nghĩa của việc nghiên cứu trách nhiệm pháp lý rất quan trọng trong
việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể, của mọi công dân, tổ chức,
nhất là học sinh, sinh viên – những mầm non tương lai của cả một đất nước… và góp
phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Tạo niềm tin cho dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể, bảo đảm
mọi hành vi vi phạm đều phải chịu hình phạt thích đáng.
Việc nhà nước đảm bảo xã hội được ổn định, an tồn, văn minh thì không thể nào
thiếu pháp luật và pháp luật như là một phương tiện không thể thiếu cho sự tồn tại vận
hành bình thường của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Đối với mỗi loại
hành vi vi phạm, xét theo độ tuổi và năng lực trách nhiệm pháp lý, tùy thuộc vào tính
chất hồn cảnh, điều kiện, hậu quả mang lại sẽ là căn cứ để xác định chủ thể phải chịu
trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính hay là bị xử lý kỷ
luật theo quy định của pháp luật. Vì thế, có pháp luật con người sẽ điều chỉnh được
hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội và thông qua sự hiểu biết về
pháp luật giúp con người tránh được những hành vi vi phạm và những hậu quả đáng
tiếc xảy ra.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự (số 100/2015/QH13) ngày 27/11/2015.
2. Luật cán bộ công chức (số 22/2008/QH12) ngày 13/11/2008.
3. Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về Quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
4. Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/09/2020 của Chính phủ về Xử lý kỷ
luật, cán bộ, cơng chức, viên chức.

5. Ts.Lê Minh Tồn(2010). Giáo trình Pháp luật Đại Cương, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
6. Cổng thơng tin điện tử Viện kiểm sốt nhân dân tối cao (2021), Hoàn thiện
quy định về xác định tuổi khi giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự và áp dụng thủ tục
tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, />27/11/2021.

ngày

tuy

cập

7. Nguyễn Tiến Đạt(2021), Trách nhiệm pháp lý là gì?, ngày truy cập 27/11/2021.
8. Thơng tin điện tử sở Nội vụ tỉnh Quảng Bình(2013), Vi phạm pháp luật và
trách nhiệm pháp lý, ngày truy cập 27/11/2021.
9. Ths.Ls.Phạm Quang Thanh(2021), Trách nhiệm hành chính là gì? Quy định về
xử phạt vi phạm hành chính, ngày truy cập 27/11/2021.



×