Đề tài:
Các loại trách nhiệm pháp lý đặt ra do hành vi vi
phạm hợp đồng trong kinh doanh, thương mại của
pháp luật Việt Nam. Chọn một trách nhiệm để phân
tích làm rõ.
Theo quy định tại Điều 292 Luật Thương mại năm 2005 thì có 06 loại trách nhiệm
pháp lý do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh, thương mại. Ngoài 06 loại trách
nhiệm pháp lý trên đối với các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
06 loại trách nhiệm pháp lý đặt ra do hành vi vi phạm hợp đồng trong kinh doanh,
thương mại của luật Việt Nam là:
1/ Buộc thực hiện đúng hợp đồng:
* Khái niệm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là hình
thức chế tài, theo đó bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải
chịu chi phí phát sinh.
* Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là: có hành vi vi phạm
hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm.
* Các trường hợp phải sử dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là:
- Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp
đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp
đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng
thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác
thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng
tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự
chấp thuận của bên bị vi phạm.
- Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại trên thì bên bị
vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế
theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản
tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật
của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp
lý.
- Bên bị vi phạm phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng, thù lao
dịch vụ, nếu bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định.
- Trường hợp bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả
tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định trong
hợp đồng và theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Nhà thầu phụ thi công chậm tiến độ, nhà thầu chính có quyền yêu cầu nhà
thầu phụ phải có các biện pháp tăng ca tăng kíp, bổ sung thêm máy móc, nhân
công để lấy lại đúng tiến độ. Hoặc nhà thầu chính có quyền lấy lại một phần công
việc để tự thực hiện hoặc thuê nhà thầu khác với mọi chi phí do nhà thầu phụ chịu.
Ví dụ khác: Nhà thầu phụ cung cấp xi măng giao hàng nhưng xi măng bị ẩm,
không đạt tiêu chuẩn thì nhà thầu chính có quyền yêu cầu giao lại hàng, hoặc lấy
hàng của nhà cung cấp khác với chi phí chênh lệch do nhà thầu phụ chịu.
2/. Phạt vi phạm hợp đồng
* Khái niệm: Phạt vi phạm hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là hình thức
chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng, theo đó bên bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có
thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại điều 294 Luật
Thương mại.
* Mục đích của chế tài phạt vi phạm hợp đồng: chủ yếu là trừng phạt, tác động vào
ý thức của các chủ thể hợp đồng nhằm giáo dục ý thức tôn trọng hợp đồng, phòng
ngừa vi phạm hợp đồng. Với mục đích như vậy, phạt vi phạm hợp đồng được áp
dụng một cách phổ biến đối với các vi phạm hợp đồng.
* Căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng: Theo Luật Thương mại, chế
tài phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng khi có các căn cứ:
- Các bên có thoả thuận về việc áp dụng chế tài này.
- Có hành vi vi phạm hợp đồng.
- Không rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm.
* Mức phạt: Mức tiền phạt vi phạm hợp đồng bị giới hạn bởi pháp luật (các bên có
quyền thoả thuận về mức phạt nhưng không được vượt quá mức phạt do pháp luật
quy định). Theo Luật Thương mại, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
trong kinh doanh, thương mại hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các
bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm.
Ví dụ: Doanh nghiệp A và B kí kết hợp đồng có giá trị là 5 tỷ. A là bên vi phạm.
Hợp đồng quy định nếu bên nào vi phạm sẽ bị phạt 20% giá trị hợp đồng, tương
đương với 1 tỷ đồng. Khi tranh chấp xảy ra , bên B chỉ được nhận khoảng tiền phạt
vi phạm tối đa là 8% giá trị của phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm tương đương
với 400 triệu đồng.
* Trừ những trường hợp sau đây:
- Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định
có kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt
do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định.
- Trường hợp thương nhân kinh doanh dihj vụ giám định cấp chứng thư giám định
có kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho
khách hàng trực tiếp yêu cầu giám định.
3/ Bồi thường thệt hại: (Làm rõ sau)
4/ Tạm ngừng thực hiện hợp đồng:
* Khái niệm: Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong kinh doanh, thương mại: Đây
là một chế tài mới quy định tại Luật Thương mại, theo đó một bên tạm thời không
thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng kinh doanh, thương mại.
* Căn cứ áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực
hiện hợp đồng;
Ví dụ: Công ty A và công ty B ký hợp đồng mua bán 50 chiếc ô tô hiệu Toshiba,
Trong hợp đồng hai bên có thỏa thuận rõ ràng là 50 ô tô trên phải được sản xuất
100% theo công nghệ Nhật Bản và công ty A sẽ giao số ô tô trên làm hai đợt, công
ty B sẽ thanh toán toàn bộ tiền hàng vào đợt giao hàng thứ nhất, nếu một trong hai
bên vi phạm thì bên kia có thể tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên sau khi
công ty A hoàn thành đợt giao hàng thứ nhất, công ty B vẫn chưa tiến hành thanh
toán số tiền trên.
Do đó, công ty A đã tạm ngừng việc giao đợt hai với lý do hành vi chậm thanh toán
của bên công ty B đã vi phạm thỏa thuận của hai bên.
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực
hiện thì hợp đồng đó vẫn còn hiệu lực. Trong khi đó bên bị vi phạm có quyền yêu
cầu bòi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại.
Ví dụ: Các bên thỏa thuận cụ thể về nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng nhưng
người bán không giao hàng hoặc giao hàng thiếu, giao sai hàng hoặc giao hàng
không đúng chất lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy, nếu người bán
giao hàng không phù hợp với hợp đồng.
* Về hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng: Khi hợp đồng trong
kinh doanh, thương mại bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực, bên
bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
5/ Đình chỉ thực hiện hợp đồng:
* Khái niệm: Đình chỉ thực hiện hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là việc
một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong kinh doanh, thương mại.
Khi hợp đồng trong kinh doanh, thương mại bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng
chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các
bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có
quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
* Căn cứ áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp
đồng. Trường hợp này, các bên dự liệu và thỏa thuận rõ trong hợp đồng những
hành vi vi phạm nào xảy ra thì bên bị vi phạm được quyền áp dụng biện pháp đình
chỉ hợp đồng để bảo vệ lợi ích của mình.
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là sự vi phạm hợp đồng của một bên
gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của
việc giao kết hợp đồng.
* Về thủ tục: Khi áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên bị vi phạm (bên
bị áp dụng chế tài) phải thông báo việc tạm đình chỉ cho bên kia. Nếu không thông
báo, dẫn đến thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường cho họ.
* Về hậu quả pháp lý của việc đình chỉ hợp đồng:
- Trường hợp chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các
bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có
quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đồng thời với việc áp dụng
chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng
6/ Hủy hợp đồng:
* Khái niệm: Huỷ bỏ hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là sự kiện pháp lý
mà hậu quả của nó làm cho nội dung hợp đồng bị hủy bỏ không có hiệu lực từ thời
điểm giao kết hay nói một cách khác hủy hợp đồng là việc bãi bỏ việc thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng.
* Có hai trường hợp hủy bỏ hợp đồng, đó là:
- Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa
vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.Khi một hợp đồng trong kinh doanh, thương
mại bị huỷ bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực từ thời điểm giao
kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp
đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải
quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa
vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của
họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi
ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
- Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng,
các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
* Về căn cứ áp dụng: chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng khi xảy ra vi phạm
hợp đồng thuộc một trong các trường hợp:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp
đồng.
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu
cầu bồi thường thiệt hại nếu bên bán giao ít hơn số lượng đã thoả thuận, hoặc vật
được giao không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được, hoặc
vật được giao không đúng chủng loại. Đây là trường hợp hủy bỏ hợp đồng mua
bán tài sản theo quy định của pháp luật.
* Hậu quả pháp lý sau khi hủy bỏ hợp đồng:
- Hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục
thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền
và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
- Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng. Nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải
được thực hiện hợp đồng. Trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã
nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đồng thời với việc áp dụng
chế tài hủy bỏ hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại:( Trách nhiệm pháp lý chọn để làm rõ )
* Khái niệm: Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất
do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
* Mục đích: Khác với phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại là hình thức chế
tài được áp dụng nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên bị
vi phạm hợp đồng trong kinh doanh, thương mại. Với mục đích này, bồi thường
thiệt hại chỉ được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra.
* Căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại: Theo Luật Thương mại, để áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải có các căn cứ:
Một là, có hành vi vi phạm:
Thế nào là có hành vi vi phạm? Hành vi vi phạm là hành vi của một bên đã xử sự
không đúng với nội dung mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy
định của pháp luật.
Do đó, những hành vi được coi là vi phạm hợp đồng, vi phạm nghĩa vụ là những
hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng, nó
được thể hiện dưới các hình thức sau:
- Từ chối thực hiện nghĩa vụ: ví dụ, từ chối giao hàng, từ chối thanh toán tiền, từ
chối làm một công việc đã hứa.
- Chậm thực hiện nghĩa vụ: ví dụ, bên nhận vận chuyển hàng có nghĩa vụ giao
hàng ngày X nhưng đã giao hàng chậm vào ngay Y.
- Thực hiện một phần nghĩa vụ: ví dụ, bên bán có nghĩa vụ giao 1000 chiếc xe đạp
hiệu X vào ngày 10/04/2018 nhưng vào ngày này, bên bán chỉ giao 500 chiếc xe.
- Thực hiện không đúng nghĩa vụ: thường là liên quan đến chất lượng sản phẩm
hoặc công việc là đối tượng của nghĩa vụ, chẳng hạn, trong số 100 xe đạp hiệu X
giao cho bên mua, có nhiều chiếc không sử dụng được.
Đây là điều kiện tiên quyết để có thể áp dụng trách nhiệm pháp lý trong kinh
doanh, thương mại trong hợp đồng (cho dù đó là chế tài buộc thực hiện hợp đồng,
hủy, đình chỉ hợp đồng hay phạt hợp đồng).
Hai là, có thiệt hại thực tế xảy ra:
Thiệt hại là những gì một bên mất đi và những gì đáng lẽ ra họ nhận được nhưng
do vi phạm hợp đồng của phía bên kia nên họ đã không thể nhận được. Thiệt hại
bảo gồm thiệt hại thực tế và thiệt hại phát sinh.
Thiệt hại ở đây phải là thiệt hại về tài sản, thiệt hại có thực nghĩa là thiệt hại có thể
xác định, tính toán được.
Trong thực tế, thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng bao gồm: những chi
phí để ngăn chặn, hạn chế khắc phục hậu quả do bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
gây ra, những tổn thất xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng phát sinh làm thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút có thể tính toán được chứ không phải là do suy diễn
mà có.
Bên thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh có tổn thất và mức độ tổn thất (Điều
304 Luật Thương mại).
Về cách tính thiệt hại, nếu các bên không có thỏa thuận, pháp luật Việt Nam quy
định khác chi tiết cách tính.
Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ là khi có vi phạm hợp đồng, có thiệt hại
xảy ra nhưng không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Đó là việc vi phạm hợp
đồng do sự kiện bất khả kháng.
Bất khả kháng là sự kiện mà các bên không thể lường trước được, tức là nằm ngoài
hoàn toàn khả năng tính toán của các bên. Thường có 3 loại sự kiện bất khả kháng:
- Thiên tai: ví dụ: gió, bão, động đất, núi lửa tuôn trào,...nên A không thể giao hàng
cho B đúng thời hạn như đã thỏa thuận.
- Chiến tranh: ví dụ: vì chiến tranh bất ngờ xảy ra ở nước X nên doanh nghiệp A
của nước X không thể giao hàng cho doanh nghiệp B của nước X như đã thỏa
thuận.
- Quyết định chính trị, thay đổi pháp luật: ví dụ: B không thể nhận hàng nhập khẩu
vào Việt Nam, vì Nhà nước Việt Nam đã cấm nhập khẩu loại hàng hóa mà khi A và
B thỏa thuận mua bán chưa bị cấm nhập khẩu vào Việt Nam.
Ba là, có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra:
Không phải bất cứ sự vi phạm nghĩa vụ nào cũng đều là cơ sở của trách nhiệm dân
sự và không phải bất cứ sự thiệt hại nào xảy ra trong quan hệ nghĩa vụ cũng đều do
bên vi phạm phải gánh chịu. Chỉ khi có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm nghĩa vụ và thiệt hại thực tế xảy ra thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và thiệt hại thực tế xảy ra
được xác định khi hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế có mối liên hệ nội tại, tất
yếu. Hành vi vi phạm nghĩa vụ là nguyên nhân trực tiếp, còn việc phát sinh ra thiệt
hại là kết quả khách quan, tất yếu của hành vi vi phạm nghĩa vụ. Nguyên nhân và
kết quả có mối liên hệ nối tiếp nhau. Hành vi vi phạm nghĩa vụ phải có trước khi
có thiệt hại xảy ra. Nếu thiệt hại đã xảy ra trước khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ
thì thiệt hại đó không phải là kết quả củahành vi vi phạm nghĩa vụ, giữa chúng
không có mối quan hệ nhân quả. Và vì không có quan hệ nhân quả nên trong
trường hợp này bên có quyền không thể căn cứ vào thiệt hại trước đó để yêu cầu
bên vi phạm phải bồi thường. Hay nói một cách khác, thiệt hại phát sinh là hậu quả
tất nhiên của hành vi vi phạm, nếu không có hành vi vi phạm thì không có thiệt hại
xảy ra. Chỉ có người vi phạm gây thiệt hại mới phải áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Bốn là, người vi phạm nghĩa vụ có lỗi:
Lỗi là thái độ chủ quan và nhận thức lý trí của bên vi phạm nghĩa vụ đối với hành
vi và hậu quả gây ra. Từ đó, xác định được mức độ lỗi và hình thức lỗi của người
vi phạm .
Về nguyên tắc, bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại chỉ xảy ra khi người vi
phạm có lỗi, hay nói cách khác,có lỗi mới phải bồi thường. Sau đó mới xác định lỗi
ở hình thức nào. Có hai loại lỗi: Lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ hợp đồng thì bị coi là có lỗi.
Người bị coi là có lỗi cố ý nếu họ nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại
cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn
những vẫn để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Người bị coi là có lỗi vô ý , nếu họ không thấy trước hành vi của mình có khả năng
gây thiệt hại , hoặc thấy trước được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại nhưng lại cho
rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn thiệt hại đó.
* Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hợp đồng trong kinh doanh, thương
mại: có 2 loại là chịu nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng:
- Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: Xảy ra khi có sự vi phạm về nghĩa vụ được
quy định trong hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận từ trước.
Trong trường hợp này, thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc hay nói cách khác
là dù có xảy ra thiệt hại hay không bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý
đã ghi rõ trong hợp đồng.
Về mức bồi thường: các bên có thể tự thỏa thuận( thể hiện bản chất thỏa thuận của
hợp đồng).
Về thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này là : kể từ khi
hợp đồng có hiệu lực và có bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Là loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên
ngoài, không phụ thuộc hợp đồng mà chỉ cần tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật
dân sự, cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng không liên
quan đến bất cứ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại.
Trong trường hợp này, thiệt hại không chỉ là nền tảng cơ bản mà còn là điều kiện
bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Về mức bồi thường: Bên gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp thời, cả thiệt
hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp, điều quan trọng là các bên trong quan hệ trách
nhiệm dân sự có thể không biết nhau và không biết trước việc sẽ xảy ra để làm
phát sinh quan hệ trách nhiệm dân sự, do đó không thể thỏa thuận trước bất cứ một
việc gì. Các bên cũng có thể thỏa thuận về mức bồi thường.
Về thời điểm phát sinh: kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây thiệt hại