Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

DẠNG đề PHÂN TÍCH đoạn TRÍCH TRONG vợ NHẶT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.9 KB, 16 trang )

ĐỀ 1:
“Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra
biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đưa con mình. …Bà cụ nghẹn
lời khơng nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống rịng rịng.” (Vợ nhặt, Kim Lân)
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về ngịi bút
miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Bài làm:
Những năm tháng trước cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân trong trang
viết của các nhà văn khốn khổ đến mức tột cùng. Ở Ngô Tất Tố, ta bắt gặp chị Dậu với bầu
trời tăm tối, ở Nguyễn Cơng Hoan là tình cảnh cho vay lấy lãi nặng nề. Cịn đến Kim Lân,
sau nỗi đau của ơng Hai, nhà văn lại tìm về với nạn đói 1945 với truyện ngắn Vợ nhặt.
Trong tác phẩm này, nhà văn của nông dân không chỉ thành công ở việc xây dựng tình
huống truyện độc đáo mà cịn có biệt tài trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Trong đó, phải
kể đến diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi chấp nhận 1 nằng dâu mới giữa nạn đói kinh
hồng “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi…Bà cụ nghẹn lời khơng nói được nữa,
nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.”
Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên
thủy” của cuộc sống nơng thơn. Hay nói cách khác, nhà văn Kim Lân là một trong những
cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại, là người đã viết
những trang hay nhất về làng q bằng cả lịng u thương, sự gắn bó và trái tim hết mực
chân thành. Tác phẩm Vợ nhặt nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện
ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng
dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hịa bình lặp lại (1954), ông dựa vào một phần cốt
truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Truyện ngắn Vợ nhặt được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945 với trên
hai triệu đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng dẫn cô vợ về nhà
ra mắt mẹ. Sự kiện này làm xáo động cả vùng quê, cả xóm ngụ cư nghèo khổ. Họ ngạc
nhiên vì trong thời buổi đói khát này, Tràng lại liều mạng nước thêm một miệng ăn.
Bà cụ Tứ là mẹ của Tràng, người phụ nữ đã mất chồng, chịu cảnh “mẹ góa, con
côi”. Bà hiện lên qua cái dáng lom khom, là dáng hình của một người đã lớn tuổi, cái lưng
cịng như đã hứng chịu cả một đời gió sương, hơn nữa, lom khom cịn vẽ lên cái dáng hình


Trang 1


gầy guộc), tiếng ho hung hăng thể hiện sự ốm yếu, cái đặc trưng của người già và miệng
thì lầm bầm tính tốn, có lẽ cả đời bà, vì khơng còn chồng, nên chẳng phút thảnh thơi, phải
lo chắt chiu, ki cóp, phải lo từng đồng, từng bữa, và tội nghiệp thay, đến cả lúc già cả, gần
đất xa trời, cái toan tính vẫn chẳng thể bỏ được, cái khốn khổ, trách nhiệm đã đeo đẳng cả
cuộc đời bà.
Giữa của tác phẩm, anh Tràng đưa thị về ra mắt bà Tứ. Khi hiểu ra cơ sự, người mẹ
nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt
“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự
hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi: “Bà
lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao
nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ơi, người ta dựng
vợ gả chông cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nôi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt
sau này. Cịn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt...
Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”Khi nghe
Tràng giới thiệu về người vợ nhặt, bà lão chỉ cúi đầu nín lặng. Cái nín lặng của người mẹ
già đã hiểu ra bao cơ sự. Từ sự phấp phỏng, ngạc nhiên ban đầu, bà đã hiểu được gần như
đầy đủ. Từ cái cúi đầu nín lặng đến hiểu ra bao cơ sự là cả một sự ứng xử khéo léo, bao
dung mà độ lượng. Cái cúi đầu hiểu ra bao cơ sự cũng chứng tỏ sự thấu hiểu và từng trải lẽ
đời. Bà đã giải được những éo le, lạ lùng trong ngơi nhà mình lúc bấy giờ. Là những
chuyện khó nói, mà Tràng khơng nêu rõ, có thể là điều mà người phụ nữ kia sẽ thấy xấu hổ
khi được hỏi hoặc được nói ra thẳng thắn. Bà hiểu ra, và bà không nỡ hỏi. Đó là trí tuệ của
một người đã từng trải, và đó là trái tim của một người mẹ vị tha, nhân hậu. Trong nó của
bà cụ Tứ, bao ngổn ngang, bối rối. Mà trong những nỗi niềm đó, có một chữ lo. Đó là cái
lo khơng biết chúng nó có ni được nhau qua cảnh khốn khó này khơng. Cái đói, dường
như phủ đầy trong cuộc sống, xâm lấn vào tận mỗi tế bào. Vì thế, chuyện hỉ sự, vậy mà,
người ta vẫn cịn nhức nhối vì lo, vì sợ.
Trong đoạn văn miêu tả bà cụ Tứ khóc, Kim Lân đã rất tinh tế khi dùng từ “rỉ”.

Dường như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi phận, cay
đắng, xót xa như nghẹn lại trong lịng khiến bà khơng thể khóc. Hình ảnh “giọt nước mắt”
trong lần miêu tả thứ nhất của bà cụ Tứ khiến người đọc đắng lòng bởi số kiếp nghèo khổ,
khốn khó, tội nghiệp của con người. Biết bao nhiêu cơ cực của cuộc đời đã chất chứa, dồn
Trang 2


tụ và ứ nghẹn trong dòng nước mắt hiếm hoi, ít ỏi ấy. Viết về hình ảnh “giọt nước mắt”,
Nguyễn Khuyến trong bài Khóc Dương Khuê cũng có câu:
“Tuổi già như hạt lệ sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
Hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiến cho họ dù đau
đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên những dòng nước mắt
chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi.
Khác với anh con trai, bà cụ Tứ chìm trong những nỗi niềm, vừa ai ốn, xót thương,
vừa mừng vừa tủi. Bà mừng vì con có được vợ và bà trăn trở về bổn phận làm mẹ. Với
người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, ni con trưởng thành,
mà cịn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cơ vợ cho
con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện
lên đầy tâm sự. Trong lòng bà ngổn ngang với những dòng hồi tưởng về những năm tháng
dài dằng dặng của quá khứ, với những cay đắng chồng chất trong cuộc đời, những tình
cảnh buồn tủi của tình cảnh hiện tại, những lo lắng về tương lai. Nhưng dù buồn, vui, lo,
tủi thì mọi ý nghĩ của bà đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương vơ bờ bến. Từ chỗ xót xa
cho con trai, bà cũng đồng cảm cho cảnh ngộ của người đàn bà xa lạ. Không phản đối,
không tra xét cũng không hề rẻ rúng, coi thường, bà chỉ “đăm đăm” nhìn đứa con dâu mà
lịng”đầy thương xót”. Sự chấp nhận nàng dâu cho thấy bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo
thông thường mà cả gánh nặng sẽ chồng chất trên vai trong ám ảnh chết chóc. Bà cảm
thơng, thấu hiểu và cả hàm ơn “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới
đến lấy con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Ngơn ngữ độc thoại nội tâm hàm chứa

sắc thái đối thoại vừa như để bênh vực con dâu vừa cố an ủi chính mình.
Những chi tiết miêu tả thái độ, cách nói năng cưu xử của bà cụ Tứ cũng tô đậm
thêm vẻ đẹp tấm lòng nhân hậu của một người mẹ. Từ cách khẽ dặng hắng, nhẹ nhàng nói,
hạ giọng xuống thân mật, nhất là cách dùng từ “các con” để gọi con và con dâu như một
biểu hiện chắc chắn của sự chấp nhận nàng dâu mới. Cư xử của bà cũng tinh tế để làm vợi
đi những căng thẳng lo lắng nhất là những tủi hổ bẽ bàng của 2 con. Giọt nước mắt được
đặc tả lần thứ 2:“Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo,
cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u
Trang 3


mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Bà cụ
nghẹn lời khơng nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống rịng rịng.” Cách khóc “rịng
rịng” giống như một sự giải tỏa, gột rửa những nỗi đau, tủi hận. Tiếng khóc lúc này
khơng cịn là sự kìm nén mà cịn là sự giãi bày. Bà khóc để sẻ chia lịng mình, để tìm được
sự thơng cảm từ các con. Nhưng thật đặc biệt là lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ cịn
lại khơng gian riêng giữa bà Tứ và nàng dâu. Điều này đã cho thấy bà Tứ không chỉ
thương con trai, thương bản thân mình mà cịn thương người đàn bà xa lạ. Hình ảnh dăm
ba mâm cho thấy được sự chu đáo và trân trọng người con dâu của bà cụ Tứ. Chỉ là cô gái
tầm phơ tầm phào anh cu Tràng nhặt ngoài đường ngoài chợ, nhưng bà khơng muốn vì thế
mà cơ bị rẻ rúng. Làm dăm ba mâm để cho cô một thân phận, thế mới thấy người mẹ
nghèo thật sâu sắc và tinh tế. Hình ảnh dịng nước mắt lại xuất hiện như cả một bầu trời
thương lo và trách nhiệm của người mẹ nghèo. Bà khơng chỉ thương con, cịn thấy mình
có lỗi với con. Là mẹ, không lo được cho con, trong xúc cảm người mẹ, thấy trào dâng
niềm hờn tủi.
Bà cụ Tứ khóc nhưng cũng là người chủ động gạt đi nước mắt để sống lạc quan, bà
là điểm tựa cho hạnh phúc của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà
cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang
mở ra ở phía trước. Có thể nói cả hai lần xuất hiện hình ảnh dịng nước mắt, ta đều thấy vẻ
đẹp bà cụ Tứ hiện lên, đó là lịng thương con vơ hạn. Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm

sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nơng dân
nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945. Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ
yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngồi ra, qua những lời nói, cử chỉ, hành
động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Đặc
biệt với chi tiết dòng nước mắt cài vào và lặp lại, ta thấy một sự am hiểu tâm lý rất sâu và
tinh của nhà văn. Người già hay lo nghĩ, cũng hay tủi hờn, dòng nước mắt làm ta nhớ đến
cái dáng quen thuộc của những người bà, người mẹ nông thôn lam lũ mà cần cù, một đời
lo cho con, tất cả vì con.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện
thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt
vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật
bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua
Trang 4


cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế,
khiến các phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Trang 5


ĐỀ 2:
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào… hắn cũng muốn làm một việc gì
để dự phần tu sửa lại căn nhà” (Vợ nhặt, Kim Lân)
Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về giá trị
nhân đạo của tác phẩm.
Bài làm:
Kim Lân là một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một
con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy”. Ơng rất thành cơng về đề tài
nông thôn và người nông dân mà ông rất am hiểu cảnh ngộ và tâm lý của họ. Vốn

tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” nhưng do chiến tranh thất lạc bản thảo nên
khi hịa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện
ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật
sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu
toàn tác phẩm. Bằng tài năng nghệ thuật bậc thầy, nhất là bậc thầy của miêu tả tâm
lý Kim Lân khắc họa rõ nét sự thay đổi trong tâm trạng, nhận thức của Tràng trong
đoạn văn miêu tả buổi sáng sau khi Tràng có vợ “Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng
con sào… hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.
Nhân vật Tràng là nhân vật trung tâm của tác phẩm, hiện thân cho số phận
và phẩm chất của người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945. Số phận của
Tràng cũng như bao người dân khác trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Kim Lân đã để
nhân vật xuất hiện trong một khơng khí ảm đạm. thê lương, “người chết như ngả
rạ”, “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”,…Tràng là một người lao động
nghèo, sống với bà mẹ già là bà cụ Tứ ở xóm ngụ cư nơi vốn bị thiên hạ coi
thường, rẻ rúng. Anh làm nghề đẩy xe thóc cho Liên đồn, một cơng việc vất vả
bấp bênh mà thu nhập chẳng đáng là bao. Tràng hiện lên với dáng đi ngật ngưỡng,
cái đầu trọc nhẵn ln chúi về phía trước, cái lưng to và rộng như lưng gấu, khn
mặt xấu xí, hai con mắt nhỏ tí,…Một lần kéo xe thóc lên tỉnh Tràng đã quen với


một cơ gái. Sau một câu nói nửa thật nửa đùa, cô gái đã theo không anh về nhà làm
vợ. Trong hoàn cảnh khốn khổ, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ. Hành động
tưởng như liều lĩnh ấy ngờ đâu lại mở ra một cuộc sống hoàn toàn khác với Tràng.
Đoạn trích trên miêu tả quang cảnh gia đình nhà Tràng vào buổi sáng sau khi
Thị theo Tràng về làm vợ. Nếu buổi chiều hơm trước hình ảnh ngơi nhà Tràng hiện
lên thật đơn sơ, lạnh lẽo, rúm ró thì đến sáng ngày hôm sau, nhà văn đã mở ra một
bầu khơng khí hồn tồn khác biệt. Khi Tràng tỉnh dậy, một cảm giác lạ đang ngập
tràn trong anh. Đó chính là sự thay đổi trong trạng thái cảm xúc. Tràng thấy "trong
người êm ái như từ giấc mơ đi ra". Việc có vợ vẫn hình như khơng phải. Hạnh
phúc như một thứ men say làm anh lâng lâng hạnh phúc! Tràng bước ra sân và

nhận thấy xung quanh mình có cái gì đổi mới. Đó là một buổi sớm mùa hè tươi
sáng, ánh sáng tràn ngập khắp nơi. Khung cảnh nhà cửa, sân vườn được quét tước
sạch sẽ, gọn gàng. “Mấy bộ quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở
một góc đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong đã kín nước
đầy ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch..”. Tác giả đã sử dụng
khéo léo những hình ảnh gần gũi, bình dị đơn sơ, kết hợp với biện pháp liệt kê, đối
lập tương phản để khắc họa rõ nét những thay đổi về cảnh vật trong căn nhà ấy.
Đặc biệt là hình ảnh “ánh nắng”. Nó khơng chỉ diễn tả thời gian buổi sáng mà cịn
gợi ra thời gian, khơng gian thống đỗng. Có lẽ do chính người vợ nhặt đã đem
đến ánh sáng, luồng sinh khí, hơi ấm, sự sống cho căn nhà Tràng. Đây chính là sự
khởi đầu cho một cuộc sống mới trở nên tốt đẹp hơn. Thấy mẹ rẫy cỏ, vợ quét tước
nấu nướng, cảnh tượng diễn ra thật bình thường nhưng đổi với Tràng nó thật cảm
động thấm thía biết bao. Quang cảnh nhà Tràng dù vẫn là khung cảnh đơn sơ,
nghèo khó nhưng nó khơng cịn tuềnh tồng, thảm hại, lạnh lẽo như trước đây, giờ
đây nó đã ngăn nắp, gọn gàng vì có bàn tay chăm lo của người phụ nữ. Nó khơng
cịn là khơng gian hiện thân cho sự tồn tại mà lúc này nó thực sự là không gian
sống của con người.


Sự thay đổi về quang cảnh ngôi nhà làm Tràng có sự thay đổi cả về nhận
thức. Con người mong hạnh phúc đến và hạnh phúc đến lượt nó có thể làm thay
đổi con người. Trước hạnh phúc Tràng như lột xác, lần đầu tiên, anh ta run rẩy
sống trong một cảm giác rất người: “Bỗng nhiên hắn thấy thương u, gắn bó với
cái nhà của hắn lạ lùng”. Ngơi nhà dù nghèo khó nhưng nó vẫn là tổ ấm che mưa
che nang cho cả gia đình anh. Hai chữ “tổ ẩm” ấn chứa niềm hạnh phúc lớn lao mà
bấy lâu. Khơng chỉ thấy thương u, gắn bó, Tràng cịn ý thức được trách nhiệm
với gia đình, ý thức rất rõ, rất sâu về bổn phận làm chồng, làm cha: “Hẳn sẽ cùng
vợ sinh con đẻ cái ở đây”, “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có
bổn phận lo lắng cho vợ con sau này” . Hai chữ “nên người” hạ xuống như một
điểm nhấn xác nhận sự biến đổi về chất ở Tràng. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính

là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình.
Nó là nền tảng của xã hội. Là căn cốt của nhân tính. Tràng phục sinh nhân tính nhờ
vươn tới ý thức về gia đình.
Song chi tiết đắt nhất của Kim Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn
này: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn là một việc gì để dự phần tu
sửa lại căn nhà”. Tràng đã có một sự thay đổi tiếp theo trong hành động. Hai chữ
“xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là hăm hở, háo hức trong bước chân của Tràng tìm
đến hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn đấy là dấu hiệu một bước ngoặt lớn ở
Tràng. So với cái dáng “ngật ngưỡng” ở mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm”
này là một đột biến không chỉ ở dáng đi mà cịn là thay đổi cả số phận, tính cách
của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức. Nàng Kiều xưa
từng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều). Gót chân đến với
hạnh phúc của Kiều táo bạo thế mà cứ chênh vênh, đơn độc khiến cho người đọc lo
lắng bởi chỉ có một mình giữa đêm trăng trung cổ. Cịn cái “xăm xăm” của Tràng
mới vững khỏe, tự tin làm sao, đó là cái xăm xăm của con người trong hạnh phúc.
Tràng quyết định tu sửa ngôi nhà nghĩa là Tràng và gia đình mình khơng chấp nhận


cuộc sống tạm bợ nữa, đó là sự chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài. tun chiến với nạn
đói.
Đoạn trích đã thể hiện cái nhìn chân thật, chan chứa yêu thương, tích cực,
mới mẻ về người nơng dân. Kim Lân đã phát hiện, trân trọng, nâng niu những
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động. Trong cái khốn cùng, người nông dân
vẫn không bi quan, chán nản, tuyệt vọng mà vẫn khát khao hạnh phúc, vượt lên
hoàn cảnh để có được tương lai tốt đẹp. Đó chính là tư tưởng nhân đạo được nhà
văn khéo léo lồng ghép vào trong tác phẩm. Đoạn trích cịn thể hiện nghệ thuật
miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Với những ngôn từ mộc
mạc, giản dị dậm chất nơng thơn có thêm sự gia cơng sáng tạo của nhà văn. Kim
Lân đã đặt nhân vật trong tình huống bất ngờ, éo le để bộc lộ vẻ đẹp, phẩm chất.
Cùng lối kể truyện hấp dẫn sinh động giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về nhân

vật anh cu Tràng. Một người nơng dân tuy sống trong hồn cảnh khổ cực nhưng
chưa bao giờ từ bỏ mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc sau này.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim
Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Vậy là, cái nạn đói khủng khiếp như một cơn
lũ lớn cuốn đi biết bao sinh mạng nhưng nó cũng đã đem đến cho Tràng một người
vợ, một mái ấm gia đình. Nhân vật Tràng và câu chuyện nhặt được vợ của anh
cũng giúp nhà văn khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của người lao động
nghèo: họ ln có tình người sâu đậm, ln sẵn lịng cưu mang, giúp đỡ nhau, họ
yêu thương nhau và cùng hướng đến tương lai. Họ là những con người giàu tình
yêu và sức sống. Đồng thể hiện ngịi bút miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo và giá trị
nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.


ĐỀ 3:
“Bữa cơm ngày đói trơng thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối…Bữa cơm từ đấy khơng ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong
lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”.(Vợ nhặt,
Kim Lân)
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về
tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân).
Bài làm:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng quan niệm rằng: “Thiên chức của nhà
văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.
Thật vậy, người nghệ sĩ ln mang trong mình một sứ mệnh thiêng liêng là phải
lặn thật sâu vào tâm hồn con người để khám phá hết những điều trắc ẩn và từ đó
thắp sáng lên những vẻ đẹp còn đang khuất lấp trong mỗi con người. Chính vì thế,
mỗi tác phẩm được xem như đứa con tinh thần mà trong “đứa con” ấy, họ đặc biệt
trao hết cả tâm tư, tình cảm của mình thơng qua các nhân vật. Có chăng vì lẽ đó mà
nhà văn Kim Lân đã thổi hồn mình trên những trang giấy để tái hiện thành công
bức tranh nạn đói năm Ất Dậu qua truyện ngắn “Vợ nhặt”. Giữa hồn cảnh tăm tối

vẫn ngời sáng lên một tình mẫu tử thiêng liêng được tác giả khắc họa rõ nét qua
nhân vật bà cụ Tứ - một người mẹ giàu tình thương con, thương người và mang
trong mình niềm lạc quan mãnh liệt với cuộc sống. Ngòi bút tài hoa của nhà văn đã
được thể hiện một cách sâu sắc trong đoạn trích “Bữa cơm ngày đói trơng thật
thảm hại …. len vào trong tâm trí mọi người”. Qua đó, ta còn thấy được tư tưởng
nhân đạo của Kim Lân.
Nguyễn Khải đã từng nói về Kim Lân “Đó khơng phải là người viết mà là
thần viết. Thần mượn tay người để viết nên những trang bất hủ”. Thật vậy, Kim


Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn với tài năng xây dựng tình huống truyện
độc đáo, đặc biệt miêu tả tâm lý nhân vật hết sức tinh tế và sắc sảo. Ta thường biết
đến ơng với “Một lịng đi về đất, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông
thôn”. Bởi ông sở hữu những trang văn viết về nông thôn và người nông dân với
phong tục và đời sống làng quê, những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của
người nơng dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lớn lên trong hồn cảnh mn vàn khó
khăn đã thơi thúc cây bút tài hoa cất lên tiếng nói chân thực, xúc động về cuộc
sống và những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng, những con
người làng quê Việt Nam nghèo khổ mà vẫn u đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh.
Đặc biệt ơng đã đóng đinh tên mình vào lịng người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt”.
Truyện ngắn được lấy bối cảnh vào nạn đói năm 1945 với tiền thân là tiểu thuyết
“Xóm ngụ cư” được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và
mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ơng dựa vào phần cốt truyện cũ và
viết phần truyện ngắn này. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” năm
1962. Đoạn trích trên nằm ở phần giữa của truyện.
Năm 1945, nạn đói đang hoành hành dữ dội ở nước ta, người chết như rơm
rạ ngồi đường. Khơng khí nồng nặc mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gay của xác
người. Trong khu xóm có anh Tràng sống cùng với bà cụ Tứ - mẹ của anh Tràng
làm nghề kéo xe thóc thuê, anh vui tính, hóm hỉnh, hay đùa giỡn với mấy đứa trẻ
trong xóm. Tràng và cơ thị đã nên dun vợ chồng chị với những câu nói nửa thật

nửa đùa của anh và bốn bát bánh đúc. Giữa khoảng thời gian cùng cực, thêm cái
miệng ăn đã là một vấn đề trong xã hội lúc bấy giờ nhưng Tràng vẫn mặc kệ, nhặt
cô vợ này về nhà . Về đến nhà Tràng, khi nhìn thấy mẹ Tràng - một bà lão già nua,
ốm yếu, miệng lẩm bẩm như đang toan tính điều gì bước vào, thị khép nép lễ phép
chào hỏi. Bà cụ Tứ không khỏi ngạc nhiên sau khi nghe con trai giải bày, bà nửa
mừng nửa lo mà vẫn bằng lịng chấp nhận cơ con dâu này. Từ ngày có thị, nhà cửa
lúc nào cũng tươm tất gọn gàng. Cả nhà cùng nhau ngồi ăn sáng. Giờ đây, Kim Lân


đã đặt góc quay của mình ghi lại cận cảnh bức tranh sinh hoạt với nạn đói thảm
khốc “Bữa cơm ngày đói trơng thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành”. Thật đau xót thay! Thế nhưng bao trùm lên cả bữa ăn vẫn là sự dạt dào của
tình người, tình đời “bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu” .
Kì lạ thay! Giữa cái cảnh chết đói, chết khát bao trùm lên cả ngôi làng này, bà cụ
Tứ vẫn nghĩ đến chuyện nuôi gà. Bà bảo Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đơi gà,
ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy có ngày đàn gà cho mà xem. Có chăng trong câu
chuyện nói vui đùa, hí hỏm nửa giả nửa thật này lại chứa đựng một hàm ý sâu sắc?
Trong một ý nghĩ xa xơi và mơ hồ nào đó cũng có thể bà đã đặt niềm tin vào đôi vợ
chồng son này. Bà tin rằng trên mảnh đất mà cái chết hiện lên thành màu, thành
mùi, thành hình này sức sống sẽ lấn át cái chết. Cặp vợ chồng này cũng như đôi gà
kia, rồi sẽ sinh tồn, tự vượt qua nạn đói, để rồi cũng sẽ sinh con đàn, cháu đống.
Trong bữa cơm đói khổ ấy, bà lão nói tồn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng.
Người mẹ hiền đã chắc chiu từng chút niềm vui, tạo ra khơng khí hịa hợp, vui vẻ
trong căn nhà rách nát. Cảm xúc của bà cụ Tứ khi nghe người con giãi bày sự việc,
muốn cưới người đàn bà xa lạ kia làm vợ là cái cúi đầu nín lặng, là những giọt
nước mắt rỉ xuống từ kẻ mắt kèm nhèm, là bộn bề những lo toan cho cuộc sống của
các con sau này. Lòng bà rối bời những câu hỏi khơng biết chúng nó có ni nổi
nhau sống qua cơn đói khát này khơng. Thế nhưng người mẹ nhân hậu và sâu sắc
này không phải đến lúc ăn bữa cơm này mới bắt đầu gieo niềm tin vào cuộc đời

của các con sau này mà ngay từ lúc đồng ý cho cặp đôi này đến với nhau, bà cũng
đã nhen nhóm niềm tin qua lời động viên với cô con dâu bằng kinh nghiệm từng
trải của mình, bằng triết lí dân gian “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” . Cái đói khát
khơng thể gục ngã được người mẹ nơng dân có niềm tin sắt đá. Bà luôn thắp lên
ngọn lửa của khát khao, niềm hy vọng cho những đứa con của mình, mong chúng
rồi sẽ có những tháng ngày hạnh phúc, sung túc và ấm no hơn lúc bây giờ.


Khơng khí gia đình đầm ấm, hịa hợp, đang trên đà vui thì bất chợt ngừng
lại. Họ phải đối mặt với sự thật đắng chát “Niêu cháo lõng bõng mỗi người có
được lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Tình cảnh trớ trêu ấy thật làm nhói đau lịng
người, niềm vui như vơi đi một nửa, sự tủi hờn cứ thế nhân đơi. Thế nhưng đúng
lúc đó, bà cụ tứ đã nối dài ngày vui của các con cùng với những hành động và lời
nói hết sức lạc quan, dí dỏm mà tràn trề sức sống. Bà nhìn hai con vui vẻ, dường
như đang cố tạo khơng khí vui tươi, ấm áp để đôi vợ chồng trẻ không bị tổn thương
“Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ”. Bà đã kéo dài tia hy vọng và
niềm tin cho một bữa ăn ngon và ấm cúng. Người mẹ ấy đã khoác chiếc áo màu
hồng lên màu đen của cuộc sống hiện tại. “Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ
bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt
cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười”. Nụ cười chất chứa bao nhiêu niềm
vui của người mẹ, hằn in trên khn mặt đã có nhiều nếp nhăn mà ta có thể cảm
nhận được nắng mưa vất vả mà bà đã trải qua một cuộc đời. Bà lão múc ra một bát:
“Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Từ “ngon” ở đây thật đặc biệt. Đây không phải
là cảm xúc về vật chất mà là cảm xúc về tinh thần. Nào phải bà không hiểu thấu cái
vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà khơng hay về tương lai màu xám
của những đứa con mình? Chỉ là bà đang cố làm chỗ dựa vững chắc cho con, cố
nén lại nỗi lo lắng để khơi dậy chút nguồn vui cho khơng khí gia đình. Tận cùng
nỗi xót xa, ta lại cảm động vơ cùng trước tấm lịng của người mẹ. Người con dâu
đón lấy cái bát. Phải chăng giờ đây đơi mắt kia tối lại vì thị bất chợt nhận ra một sự
thật đắng cay? Đó không phải là nồi chè xanh mà người ta thường nói đến mà là

thứ thức ăn dành cho động vật. Thế nhưng thị đã cảm được hơi ấm của tình người.
Chính tình thương và tấm lịng bao dung của người mẹ đã cảm hóa tâm hồn của cơ.
Khơng cịn dáng vẻ chua ngoa, những hành động kém duyên khi ăn nữa mà là sự
từ tốn, sự trân trọng và nâng niu bát cháo cám cũng như tình cảm và người mẹ
chồng đã dành cho mình. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh này trong “Chí Phèo”


của Nam Cao. Đó là chi tiết “bát cháo hành” - một biểu tượng của tình người ấm
nóng duy nhất cịn sót lại nơi làng Vũ đại khơ khát u thương. “Bát cháo hành” là
liều thuốc giải cảm cho Chí sau những cơn say tưởng chừng không thể nào tỉnh
lại. Một tình người rất thực, rất hồn nhiên, vơ tư mà Thị Nở dành cho Chí. Thơng
qua bát cháo ấy đã đánh thức tâm hồn trong con người dường như đã tê liệt cảm
xúc. Thế mà giờ đây hắn đã cảm nhận được những âm thanh xung quanh “Tiếng
chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng
những người đi chợ trò chuyện” . Có thể nói đối với ai đó, bát cháo hành chỉ là
những thứ vụn vặt, nhỏ nhặt nhưng với Chí, hương thơm và làn khói bốc lên từ bát
cháo đã len lỏi vào lịng Chí, sưởi ấm và mở ra cho hắn con đường quay về với
cuộc sống lương thiện, được sống cho ra một con người. “Bát cháo hành” của Nam
Cao hay “nồi chè” của Kim Lân đều ánh lên ánh sáng của tình người, là món q
của một tấm lịng đơn hậu chất chứa u thương.
Mặc dù cái đói đang rình rập nhưng bà cụ Tứ vẫn cố gắng để có được một
bữa ăn như một bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình. Bà lạc quan, vui vẻ,
thậm chí là đầy tự hào về nồi cháo “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để! Cứ thử ăn
mà xem. Xóm ta khối nhà cịn chả có cá mà ăn đấy”. Bà tự hào là nhà bà sang nhất
xóm và cịn cám để ăn. Niềm tự hào kia thật cay đắng nhưng chất chứa trong đó
bao nhiêu là tình thương của người mẹ nghèo. Có lẽ nồi chè khốn đó bà cụ tứ đã
dành dụm từ rất lâu để tiếp đãi một vị khách nào đó mà khơng ngờ rằng vị khách
ấy chính là con dâu của bà. Nếu nói rằng chi tiết là “Bụi vàng của tác phẩm” thì nồi
chè khốn là “hạt bụi vàng” mà Kim Lân đã cho vào thiên truyện của mình để làm
lấp lánh vẻ đẹp của tình người, ngời sáng nhân cách con người. Đó là hiện thân của

tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ các con của bà phần nào vơi đi nỗi tủi hờn.
Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng ngưỡng mộ, đáng trân trọng và nâng niu. Thế
nhưng dù cho cảm động thế nào thì họ vẫn nhận ra cái “đắng – chát” trong cái bát
cháo cứ “nghẹ bứ trong cổ”. Khi nỗi lo lắng bao trùm lấy tâm trí họ, thần chết hiện


hữu trên mâm cơm thì họ khơng thể suy nghĩ lạc quan được nữa, họ không thể trốn
tránh hiện thực. Thực vậy, làm sao ta có đủ can đảm để chứng kiến nỗi đau của
người thân. Thế nên họ chỉ cịn cách “Cắm đầu ăn cho xong lần, tránh nhìn mặt
nhau” để cảm xúc đau xót ấy dần lắng xuống, để dần vơi đi nỗi đau của thực tại và
có đơi phút riêng tư trấn an bản thân.
Hồi Thanh đã từng nói rằng “Nếu cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng
cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ca
ngợi vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm” . Thật
vậy, nhà văn Kim Lân từng sinh ra từ đồng ruộng với xuất thân bần cố nông, ông
đã từng vất vả và cực nhọc biết bao nhiêu mới có thể thấu hiểu những cơ cực,
những tủi hờn cay đắng của người nông dân lao động nghèo khổ. Ông dường như
sống cùng nhân vật mới có thể lặn sâu tận đáy lòng mà làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm
hồn của họ. Bà cụ Tứ già nua, nghèo khổ mà có cách hành xử đầy nhân văn. Trong
hồn cảnh khốn cùng cái đeo bám, cái chết cận kề, trong ngôi nhà rách nát ấy vẫn
sáng rực ngọn lửa của tình người, tình mẫu tử thiêng liêng. Bà chấp nhận đứa con
dâu xa lạ, trên người mang con số khơng trịn trĩnh với tất cả tình thương và sự trân
trọng. Bà lạc quan, vui vẻ, khích lệ, động viên con, đặt hết cả niềm tin và tấm lòng
và nồi chè khốn. Người mẹ nhân hậu ln cố gắng kéo dài tia hy vọng cho các
con, dù cho nó chỉ mang một luồng sáng nhỏ nhoi và có thể bị dập tắt bất cứ lúc
nào. Như nhà văn cũng đã từng nói “Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ
hồn cảnh khốn khổ nào, người nơng dân ngụ cư vẫn khao khát vượt lên cái chết,
cái ảm đạm mà vui, mà hy vọng ….. Những người đói kia họ không nghĩ đến cái
chết, mà nghĩ đến cái sống”. Thật vậy tình người vẫn ln lan tỏa và nhờ đó thị
như được sống lại một lần nữa, nó cứu vãn cả thân xác và tâm hồn của thị. Qua đó

cho người đọc thấy rằng, nhà văn ln dang rộng vịng tay mở cánh cửa cho những
con người bế tắc, không lối thốt tìm được đến ánh sáng tươi đẹp của cuộc đời. Số
phận của một con người có thể khơng như ta mong đợi, nhưng chỉ cần đôi tay, cần


ý chí, ta có thể tạo ra những hy vọng để giải thoát bản thân khỏi những cái thiếu,
cái túng của cuộc đời. Đó là tư tưởng nhân đạo mà Kim Lân đã gửi gắm qua tác
phẩm.
“Vợ nhặt” chỉ là truyện ngắn nhưng có dung lượng dài như cuốn tiểu thuyết
vậy. Bởi nó lột tả hết tất cả vẻ đẹp của con người ngay trong bức tranh nạn đói
thảm khốc, với một ngịi bút tài hoa, ngơn từ mộc mạc, giản dị mà giàu sức gợi
hình, xây dựng tình huống truyện độc đáo và đặc biệt vô cùng tinh tế trong việc
miêu tả tâm lý nhân vật. Kim Lân đã khắc họa thành cơng cuộc sống của những
ngày đói khát thời ấy của nước ta và vẻ đẹp tâm hồn của mỗi người cho dù bị cái
đói dồn đến chân tường như vậy. Qua đoạn trích người đọc sẽ mãi ln thấm sau
nhân vật bà cụ Tứ - một bóng dáng người mẹ Việt Nam anh hùng, giàu đức hy
sinh, giàu tình người, ln lạc quan và vui vẻ. Như nhà giáo Trần Đồng Minh nhận
xét về tác phẩm “Vợ nhặt” : “Nhà văn dùng “Vợ nhặt” để làm cái địn bẩy để nâng
con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện “Vợ nhặt” đầy bóng tối nhưng từ đó
đã loé lên những tia sáng ấm lòng”.



×