Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tài liệu Luận văn: Chính sách Tiền tệ với mục tiêu ổn định giá cả pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.55 KB, 28 trang )

4

LUẬN VĂN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VỚI MỤC TIÊU ỔN
ĐỊNH GIÁ CẢ
4

Mục Lục
Mục Lục 2
Phần 1: Cơ sở lý thuyết của chính sách tiền tệ 2
1.Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ : 2
2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ 3
2.2 Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ : 4
2.3 Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ : 5
3.Các công cụ của CSTT 5
Phần 2: Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiên nay với mục tiêu ổn định
giá cả 8
2. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ 14
2.1 Các công cụ của chính sách tiền tệ: 15
2.2 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ 17
Phần 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện 20
3.1.2. Một số định hướng cơ bản: 20
3.2.Giải pháp : 21
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ 21
Phần 4 : Dự đoán chính sách tiền tệ 2010 với mục tiêu ổn định giá cả 23
1.Ý kiến 1 : Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm 2010. Những luận điểm
bảo vệ ý kiến trên là : 24
Ý kiến 2: Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng kết hợp với chính sách tài khóa mở
rộng nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Việc này sẽ gây ra lạm phát nhưng không phải là lạm
phát phi mã. Những luận điểm bảo vệ ý kiến trên là : 25


Ý kiến 3: Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng 1 cách thận trọng. Ý kiến này được
đông đảo các nhà hoạch định chính sách đồng ý hơn cả. Luận điểm bảo vệ ý kiến này
là: 25
Đề tài: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI MỤC TIÊU
ỔN ĐỊNH GIÁ CẢ
Phần 1: Cơ sở lý thuyết của chính sách tiền tệ
1.Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ :
4
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung
ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình
nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng
trưởng kinh tế.
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo
hai hướng:
Chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy
sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng - chính sách tiền
tệ chống thất nghiệp)
Chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm
đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp
tăng - chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ :
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính
sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động
trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ
với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá, chính sách
thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách
chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm
làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.

2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
2.1 Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ :
*Ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự
tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định
được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng
hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước
mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát
triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất
nghiệp tăng lên.
*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp
tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh
doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ
lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trưởng kinh tế :Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi
chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để
giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng
bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính
4
phủ.Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết
quả hai mục tiêu trên đạt được một cách
hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối
quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách
rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn
hạn thì các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn
nhau. Vậyđể đạt được các mục tiêu trên
một cách hài hoà thì NHTW trong khi
thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp

với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn
định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài
hạn của chính sách tiền tệ.
2.2 Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ :
a. Khái niệm :
Là mục tiêu do NHTW lựa chọn nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng và
phải có liên hệ với mục tiêu cuối cùng
b. Các tiêu chuẩn lựa chọn
 Có thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng để NHTW
điều chỉnh hướng tác động khi cần thiết.
 Có khả năng kiểm soát được.
 Có liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng: đây là tiêu chuẩn quan
trọng nhất của mục tiêu trung gian.
c. Các chỉ tiêu thường được lựa chọn
• chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng : lựa chọn MS làm lượng tiền trung
gian phải thả nổi lãi suất
• chỉ tiêu lãi suất: để duy trì mục tiêu lãi suất, mức cung tiền và tiền cơ
sở sẽ biến động.
d. Sự chọn lựa mục tiêu trung gian trong những trường hợp cụ thể
- Khi nhu cầu về hàng hóa biến động bất thường, đường IS dao động
mạnh từ IS’ đến IS’’.
 Nếu mức lãi suất i* được chọn làm mục tiêu trung gian, việc mở rộng
hoặc thu hẹp lượng tiền cung ứng nhằm duy trì mức lãi suất i
*
sẽ làm đường
LM dịch chuyển => Y sẽ biến động từ Y’đến Y’’
 Nếu chọn MS làm mục tiêu, thì sản lượng sẽ biến động từ Y”
M
đến

Y’
M

 Nên lựa chọn mục tiêu trung gian là lượng tiền cung ứng.
- Khi nhu cầu tiền tệ biến động mạnh hơn
4

Nếu cố định MS: tổng sản lượng quốc dân sẽ biến động từ Y’
M
đến
Y”
M
.

Nếu cố định i
* :
mọi biến động của mức cầu tiền sẽ dẫn đến những biến
động tương ứng của mức cung tiền nhằm duy trì mức lãi suất cố định, do đó
LM luôn cố định tại vị trí của nó, mức sản lượng vì thế cố định tại Y
*
 Việc lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian sẽ thích hợp hơn.
2.3 Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ :
- Là mục tiêu do ngân hàng trung ương lựa chọn nhằm đạt được mục
tiêu trung gian. Nó có phản ứng tức thời với những thay đổi trong sử dụng
công cụ của CSTT
- Tiêu chuẩn lựa chọn :
• Có mối quan hệ mật thiết với mục
tiêu trung gian.
• NHTW có thể đo lường được
• chịu sự tác động của công cụ gián

tiếp
- Các chỉ tiêu thường được lựa chọn
• Về lượng : lượng tiền trung ương
MB, dự trữ của các ngân hàng trung gian
R ( Việt Nam chọn dự trữ của các ngân
hàng thương mại)
• Về giá: lãi suất liên ngân hàng, lãi
suất chiết khấu, lãi suất thị trường mở, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tín
phiếu kho bạc.
3.Các công cụ của CSTT
3.1 Công cụ gián tiếp
a. Nghiệp vụ thị trường mở
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện
trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết lượng tiền
cung ứng.
Cơ chế tác động: Khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ sở
tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị
trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi
lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ), nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ
làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông(C).
Ưu điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một
công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng
4
khoán mua( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn
kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế.
Nhược điểm: vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ
thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ
này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị
trường vốn.
b. Dự trữ bắt buộc

Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại, do
NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu
tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só
tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ
thống ngân hang.
Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp
đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các
NHTM. Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay
của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm
cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Ưu điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý của Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của
nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là
ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền).
Nhược điểm: tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó
rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động
kinh doanh của các NHTM.
c. Chính sách tái chiết khấu:
Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối
với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi
suất tái chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay tái chiết
khấu (cửa sổ chiết khấu)
Cơ chế tác động: Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế
(khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho
vay của các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh
tế giảm (tăng). Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu
của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa phổ
biến để có thể làm công cụ tái chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp
vụ này thông qua việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.

Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là
người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn
4
trong thanh toán, và có thế kiểm soát được hoạt động tín dụng của các
NHTM đồng thời có thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với
nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.
Nhược điểm: hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho
vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo
mó, sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung
ứng, trong một nền kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả các công cụ này
thì sẽ không cần đến bất cứ một công cụ nào khác. Tuy vậy trong những
điều kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các giai đoạn kinh tế quá
nóng ) thì để đạt được mục tiêu của mình, NHTW có thể sử dụng các công
cụ điều tiết trực tiếp.
3.2 Công cụ trực tiếp
a. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm: là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM
không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định (một
năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình. Việc định ra
hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô (tốc độ tăng trưởng ,lạm phát tiêu thụ ) sau đó NHTW sẽ phân bổ cho
các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy
định.
Cơ chế tác động :Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với
lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho
nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu của NHTM.
Ưu điểm: Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi
các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất

cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của
nền kinh tế .
Nhược điểm: có thể triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm
giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức
tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi
nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
b. Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm: NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất
cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh
hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản
lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm
cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
4
Ưu điểm: Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu của từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều
kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.
Nhược điểm: dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì
thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ
chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy
định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt
động kinh doanh của mình.
Phần 2: Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn
hiên nay với mục tiêu ổn định giá cả
1. Nhìn lại tình hình chung của giá cả trong năm 2008 cho tới nay
a)Sự bất thường trong diễn biến giá cả hàng hóa năm 2008


Tháng

1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Chỉ số giá
tiêu dùng 102.4 106.0 109.2 111.6 116.0 118.4 119.8 121.7 121.9 121.6 120.7 119.9
Lương thực,
thực phẩm 103.8 110.2 114.5 118.0 126.6 130.7 132.0 132.7 132.7 132.1 132.0 131.9
Lương
thực 103.4 106.7 117.9 125.1 152.9 159.4 158.9 157.1 154.4 151.4 146.7 143.3
Thực

phẩm 103.8 111.6 113.1 115.6 118.2 121.8 123.5 124.1 124.4 124.4 125.6 126.5
Đồ uống và 101.8 103.7 104.4 105.1 107.1 108.2 109.3 110.0 110.6 111.3 112.3 113.1
4
thuốc lá
May mặc,
giày dép, mũ
nón 101.4 102.8 103.7 104.7 105.7 106.7 108.2 109.2 110.1 110.8 111.8 112.9
Nhà ở và vật
liệu xây dựng 102.9 104.3 108.0 110.8 112.2 114.3 116.3 118.8 118.0 116.8 111.1 108.5
Thiết bị và đồ
dùng gia đình 100.9 101.6 103.1 104.1 105.1 106.4 108.0 109.2 110.5 111.3 112.0 112.7
Dược phẩm, y
tế 100.7 101.1 101.9 102.7 103.2 103.9 106.0 107.3 108.1 108.8 109.1 109.4
Phương tiện
đi lại,bưu điện 100.0 101.5 107.3 109.8 110.2 110.6 111.2 121.3 120.7 119.6 114.3 106.6
Giáo dục 100.2 100.3 100.6 101.0 101.4 102.1 103.2 104.4 105.8 106.6 106.7 106.9
Văn hoá, thể
thao, giải trí 100.1 102.4 103.7 104.3 104.9 105.3 106.2 107.3 108.9 109.3 109.6 110.3
Hàng hoá và
dịch vụ khác 102.6 106.1 106.2 106.8 107.1 108.1 109.4 110.4 110.8 111.7 112.1 113.0
Chỉ số giá
vàng 105.1 111.3 118.5 115.9 111.4 116.3 120.0 116.4 109.0 112.5 106.0 106.8
Chỉ số giá đô
la Mỹ 99.7 99.6 98.1 99.3 100.3 105.0 106.9 103.8 103.0 103.0 105.1 106.3
Năm 2008 là năm giá cả biến động bất thường ở mức cao, chia thành hai
giai đoạn rõ rệt với sáu tháng đầu năm tăng rất cao, sáu tháng cuối năm thì
dịu dần ở quý 3, và 3 tháng cuối năm giảm, đạt dưới 100%.
Diễn biến giá của năm vừa qua có sự nối tiếp của năm 2007, mức tăng
cao của nửa đầu năm 2008 đã có đà từ 6 tháng cuối năm trước đó. Trong 2
quý cuối năm 2007, chỉ số giá tăng trung bình khoảng 1,14%/tháng. Như

chúng ta đã biết, việc tăng chỉ số giá mạnh vào cuối năm 2007 đã đẩy CPI
năm này lên 12,63%.
Đà tăng vẫn tiếp tục kéo sang đến năm 2008, mặc dù đã có một số biện
pháp để cố gắng kìm hãm như thắt chặt tiền tệ Trong 6 tháng này, bình
quân chỉ số CPI tăng 2,86%/tháng. Đây là tốc độ tăng bình quân cực cao.
Trong cả chục năm mới có chuyện tăng như vậy. Trước đây, bình quân mỗi
tháng chỉ trên 1% đã là cao rồi.
Như thế thì qua 6 tháng, chỉ số giá đã lên đến hơn 18%, nếu so với tháng
12 năm 2007. Khi đó, nhiều lo ngại đã nảy sinh và có những ý kiến cho rằng
chỉ số giá cả năm 2008 sẽ lên đến 30%. Theo quy luật thì tháng 2 tăng rất
cao, sau đó đến tháng 3 thì chỉ số giá giảm tốc, hoặc âm, đến tháng 4, tháng
5 bằng bằng, hoặc âm một chút. Thế nhưng năm 2008 lại tăng cao liên tục,
đến hết tháng 3, cho thấy nguy cơ không thể giữ được ở mức một con số.
4
Mức tăng của CPI vào tháng 5 cũng đạt mức đỉnh điểm của năm.
Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008
và từ 1% lên 2% vào ngày 27/06/2008, tận dụng sự trượt giá VND so USD
thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh
toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm
2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với
31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với
năm2006.
Đủ "bộ" nguyên nhân: Lạm phát năm 2008 ở mức cao là tổng hòa của
các loại nguyên nhân, cả chi phí đẩy, cầu kéo, lạm phát tiền tệ và cộng thêm
yếu tố tâm lý.
• Về chi phí đẩy, giá nguyên liệu đầu vào hồi quý 1/2008 tăng rất
cao, ví dụ thép, vật liệu xây dựng tăng giá liên tục. Năm nay, giá
nhiều mặt hàng chịu sự tác động từ giá thế giới.
Cụ thể là việc tăng giá dầu đã ảnh hưởng đến giá cả nhiều
mặt hàng như thép, xi măng, lương thực Đặc biệt là lúc đó,

thị trường thế giới thiếu lương thực. Do đó, gạo từ mức giá
400-500 USD/tấn đã tăng đến hơn nghìn, thậm chí 1.200
USD/tấn.
Nền kinh tế chúng ta là nền kinh tế mở, và Việt Nam phải
nhập nhiều nguyên liệu, nên khi giá thế giới tăng đã như cơn
bão ập vào ngay, khiến chúng ta phải gánh chi phí đầu vào
tăng mạnh.
Nhưng, thậm chí có những mặt hàng chẳng phải nhập khẩu
gì cả mà giá vẫn tăng rất cao như gạch chẳng hạn, tăng gấp
4
đôi, gấp ba. Nhiều lúc, tốc độ tăng giá của gạch còn cao hơn
cả thép. Rõ ràng, đã có một tác động dây chuyền nào đó.
• Về cầu kéo, nếu nhìn cả năm thì nhu cầu tiêu dùng năm 2008 so
với các năm trước đó không thay đổi nhiều, nhưng giai đoạn 6
tháng đầu năm lại tăng khá cao, mặc dù giai đoạn này giá hàng hóa
tăng.
Một đặc điểm nữa là năm nay, thị trường chứng khoán kém
sôi động hơn trước, thị trường bất động sản cũng đóng băng
nên một lượng tiền đã đổ vào thị trường hàng tiêu dùng,
chuyển thành tích trữ hàng hóa, khiến giá hàng hóa tăng.
• Tiền tệ thì đúng là nguyên nhân dẫn tới lạm phát trong năm 2008
vì năm 2007 trước đó, khi lượng USD vào nhiều theo kênh FII
(đầu tư gián tiếp - PV) thì các ngân hàng đã phải đưa một lượng
tiền mặt ra để đối ứng, giữ vững tỷ giá.
Nhưng mặt khác, động thái đó lại làm mất giá đồng tiền nội
tệ. Sau này, Ngân hàng Nhà nước đã có một loạt động thái
thu tiền về bằng tăng dự trữ bắt buộc, bán trái phiếu nhưng
cũng không thể thu ngay về được. Lượng tiền trong lưu
thông còn rất lớn gây áp lực lạm phát.
 Năm 2008, yếu tố tâm lý cũng có đóng góp đáng kể vào mức tăng

của chỉ số giá
Yếu tố tâm lý nổi lên ở mấy đợt sốt giá cả trong năm 2008, liên
quan đến xi măng, sắt thép, đặc biệt là các lần sốt gạo. Riêng về sốt
gạo,có thể khẳng định là hoàn toàn do yếu tố tâm lý, vì nước ta là
nước xuất khẩu gạo, không hề thiếu nguồn cung.
Cơn sốt gạo năm vừa qua phát đi từ Tp.HCM và lan ra cả nước.
Trong thời điểm giá gạo tăng đột biến, tại Tp.HCM, có hiện tượng
người dân tranh nhau đi mua gạo giá cao, thậm chí mỗi người chỉ
được mua vài kg. Điều này càng kích thích giá cả tăng cao hơn.
Sau đó, cũng có một số biện pháp bình ổn lại, nhưng rõ ràng giá
cả đã lên rất cao và ảnh hưởng từ giá gạo đã kéo theo hàng loạt hàng
hóa, dịch vụ khác tăng theo. Kết quả là vào tháng 5, chỉ số giá đã tăng
cao nhất trong năm vừa qua, tới 3,91%.
Thêm vào đó là xăng dầu, theo chúng tôi thống kê được thì năm
vừa qua, Nhà nước đã 15 lần điều chỉnh giá xăng dầu, trong đó chỉ có
hai lần tăng giá, 13 lần giảm giá. Tuy tăng giá hai lần nhưng biên độ
điều chỉnh rất cao, nhất là lần điều chỉnh hồi tháng 7, tới gần 30%.
Giá xăng dầu tăng đã tác động mạnh đến nền kinh tế. Dầu
diezen tăng thì các tầu đánh cá phải nằm bờ hết. Cứ thế, sản xuất bị
đình đốn, hàng hóa ít đi, khó khăn chồng chất lên.
4
Một yếu tố nữa có thể đề cập thêm là thời tiết. Mặc dù các năm
đều có bị ảnh hưởng của thời tiết đến các hoạt động kinh tế, thế nhưng
năm vừa qua có quá nhiều diễn biến bất thường. Ví dụ như trận rét hồi
đầu năm, hay cuối năm có trận lụt tại Hà Nội đều là mấy chục năm
mới có một lần, tác hại rất lớn.
Nhìn lại giai đoạn này, những vòng tác động gián tiếp và tâm
lý đã đẩy nhiều loại hàng hóa tăng giá bất hợp lý. Tại một số thời
điểm, trong lúc giá xi măng xuất xưởng của một số nhà cung cấp chỉ
có 53.000-55.000 đồng/bao, thì giá bán trên thị trường lên 80.000 -

90.000đồng/bao
Không chỉ tác động đến giá các loại hàng hóa vật chất, thị
trường chứng khoán cũng nhiều lần chứng kiến tác động của chỉ số
giá đến sự tăng hay giảm của “bảng điện tử”. Những công bố CPI sớm
của các thành phố quan trọng như Tp.HCM, Hà Nội có thời điểm
cũng “áp đặt” xu hướng cho thị trường mua bán giầy tờ có giá này.
CPI cũng đẩy lãi suất huy động và cho vay của các ngân
hàng thương mại tăng liên tục trong giai đoạn này, có những thời
điểm vượt trên 18-19%, đối với huy động tiền gửi, và 21-24% với cho
vay.
Bình quân mức tăng CPI thời kỳ này đạt 2,48%/tháng, dù
đã được điều chỉnh bởi các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của
Chính phủ.
 Đối với giai đoạn sau này, khi chỉ số giá giảm:
Việc chỉ số giá giảm, là điều bất ngờ. Sau 6 tháng đầu năm tăng
rất cao, đến quý 3, chỉ số giá giảm tốc, chỉ còn tăng trên 1%, và đến
tháng 9 thì chỉ tăng 0,18%. xưa nay không bao giờ có chuyện giảm
giá vào quý 4, nhất là các tháng 11 và 12.
Tháng 10 thì còn có thể vì thường là tháng 9 tăng cao do ảnh
hưởng từ Tết Trung Thu, rồi ngày khai giảng, bố mẹ các em học sinh
phải mua nhiều sách vở theo biểu đồ chung thì tháng 9 lên cao,
tháng 10 dịu xuống, rồi tháng 11, 12 lại tăng lên.
Nguyên nhân giảm này, thứ nhất là chính sách tiền tệ thắt chặt
có tác dụng kiềm chế lạm phát, nhưng hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp
làm ra lại cũng không bán được, rất khó khăn, dấn tới giảm giá.
Nguyên nhân nữa là giá thế giới giảm. Nhiều loại hàng hóa đều
bắt đầu giảm giá trong nửa cuối năm 2008, đặc biệt là giá dầu giảm rất
mạnh, đến gần đây chỉ còn trên 40 USD, thậm chí có lúc dưới 40
USD/thùng.
Giá thép cũng giảm rất mạnh, rồi giá lương thực. Gạo, sau một

thời gian tăng giá mạnh thì thế giới họ bắt đầu tăng sản xuất lên, đẩy
4
giá gạo giảm. Việt Nam có chuyện lo mất an ninh lương thực thì giãn
xuất khẩu.
Hơn nữa, sau những thiên tai hồi đầu năm, ta phải gieo cấy lại,
cứ nghĩ có lẽ mất mùa nhưng năm nay lại được mùa, nguồn cung thừa
thãi khiến giá gạo xuống nhanh. Ngoài ế thừa do không xuất được, ta
lại nhập khẩu gạo ngon qua Campuchia, khiến nhu cầu tiêu dùng gạo
trong nước càng giảm hơn nữa.
Một chuyện nữa liên quan đến thịt lợn, mặt hàng quan trọng
trong tiêu dùng của người dân Việt Nam, có trọng số khá cao trong rổ
hàng hóa tính CPI. Hồi đầu năm, giá thịt lợn tăng rất cao, nguyên
nhân do dịch bệnh. Lúc đó, ta xuất mạnh lợn sữa sang Trung Quốc,
nguồn cung càng thiếu.
Để bình ổn giá, Chính phủ cho nhập thịt về, sau đó thì hàng về
quá nhiều. Giai đoạn sau này thì mặt hàng này lại kéo chỉ số giá đi
xuống. Vì vậy, ngành chăn nuôi năm vừa qua cũng bị ảnh hưởng ít
nhiều bởi nhập khẩu thịt lợn, thịt gà
Tháng 11, tại các tỉnh chỉ số giá đã xuống rồi thì Hà Nội vẫn
tăng. Đây lại là trung tâm kinh tế, có sức lan tỏa mạnh. Chính vì thế
thiệt hại càng nặng nề hơn.
Về phía Chính phủ, nhận thức được nguy cơ này, gói giải pháp
tổng thể hơn 100.000 tỷ đồng đã được tung ra để kích thích nền kinh
tế. Tại phiên họp thường kỳ tháng 12 vừa qua, các thành viên Chính
phủ cũng nhất trí tiếp tục thực hiện năm nhóm giải pháp cấp bách, chủ
yếu để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, bao gồm thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh và xuất khẩu; kích cầu đầu tư; chính sách tài chính, tiền tệ
linh hoạt; bảo đảm an sinh xã hội và tăng cường công tác điều hành.
b)Biến động giá cả 2009 và những dự báo
Theo số liệu do Tổng cục Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu

dùng (CPI) tháng 1/2009 tăng 0,32% so với tháng 12/2008 và tăng
17,48% so với cùng kỳ năm 2008.
Như vậy, CPI đã tăng trở lại sau 3 tháng giảm liên tục, nhưng
đây là mức tăng thấp nhất của tháng 1 trong vòng 4 năm qua (tháng
1/2006 tăng 1,2%; tháng 1/2007 tăng 1,05%; tháng 1/2008 tăng 2,38%
so với tháng trước)
Trong năm nay, lạm phát vẫn là yếu tố đầu tiên cần được tính
đến, Việt Nam vẫn phải tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng
giảm dần.
Năm 2009, giá cả thị trường Việt Nam sẽ biến động và gắn kết
ngày càng chặt chẽ vào biến động của giá nguyên, nhiên vật liệu trên
thị trường thế giới.
4
CPI năm 2009 sẽ là 7%[16/07/2009]
CPI có thể tiếp tục tăng nhẹ trong các tháng tiếp theo nhưng không có
sự biến động lớn và CPI tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm
2008 tăng ở mức 1 con số (<10%).
2. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực
hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh
tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp
chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm
tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt
thì ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh
lượng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức
tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên
cơ sở: tỉ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng
quay tiền tệ
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một

cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ
không đông cứng, đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều
năm )
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thống NH đã được phân thành 2 cấp
NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên
4
lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc
NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.1 Các công cụ của chính sách tiền tệ:
 Công cụ lãi suất:
Ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách
tiền tệ, nó là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các
Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh.
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các
NHTM trong việc ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và
nhu cầu tín dụng thị trường, tăng sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và
làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM
thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo mục tiêu chính sách tín dụng.
Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức
lãi suất :“trần” theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng)
(4,2% năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được
công bố, các NHTM được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và
huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh
riêng.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn dư thừa từ thành thị về nông
thôn thì lãi suất cho vay ở nông thông được duy trì cao hơn một chút so với
lãi suất cho vay ở thành thị.

Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp
với diễn biến của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh
nguy cơ giảm phát đang làm chậm lại tốc độ tăng trưởng.
Chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá
VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong
quá trình ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền
Việt Nam và lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình
trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng bước đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở
Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát
triển chưa cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền
tệ của NHNN Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
 Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu
của thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm
phát.
4
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất
dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh
toán vì lạm phát có xu hướng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của
nền kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không áp dụng
công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ
(mặc dù có thể coi nó như một giải phóng tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ được xoá bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định,
thị trường vốn phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
 Công cụ Dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn được sử dụng sớm
nhất ở Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB
có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.

Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM Việt
Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN
đã quy định tỉ lệ DTBB là 10%; được áp dụng cho các NHTMQD, NHTM
cổ phần ,chi nhánh NH nước ngoài,NH liên doanh và các công ty tài chính.
Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10%
nhất là các NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này,
trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức
DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi
khác nhau : tiền gửi, tiền tiết kiệm không kì hạn: 13%;tiết kiện kì hạn 3,6
tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu: 8%) ; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng
quy chế phạt đối với các TCTD không thực hiện đúng quy chế DTBB.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB
được điều chỉnh nhiều lần theo xu hướng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích
thíh đầu tư, tiêu dùng.
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín
dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của
các NHTM do lãi suất giảm.
Công cụ DTBB ngày càng được hoàn thiện và trở thành công cụ đắc
lực của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
 Công cụ Cho vay tái chiết khấu
Ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã được sử dụng như là một công
cụ của CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì chưa
hội đủ những điều kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả
của nó còn nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở
thành công cụ đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc
gia. Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu được thực hiện qua việc NHNN cho
NHTM vay ngắn hạn căn cứ vào khế ước tín dụng ( có chất lượng ) do
NHTM đem thế chấp tại NHNN, lãi suất tái cấp vốn được xác định dựa theo
4
lãi suất cho vay (cao nhất ) của các NHTM và được điều chỉnh linh hoạt theo

mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ để các NHTM điều chỉnh lãi suất
cùng với sự phát triển của thị trường ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc
lực của chính sách tiền tệ quốc gia
 Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở
Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín
phiếu NHNN các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để
thực hiện CSTT quốc gia”
Ở Việt Nam thị trường mở đã tìm được con đường đi riêng cho mình
và tính ưu việt của nó đã được phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định
(đã giúp cho các NHTM được chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng vốn
khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã thực hiện được mục tiêu
CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính
chất thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
2.2 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ
những năm qua.
2.2.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.
*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu
đáng được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm
soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một
bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng
tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn định, đời sống người dân không ngừng
được cải thiện. Năm 2008, Thu nhập bình quân đàu người của Việt Nam đạt
và vượt 1000 USD/năm
Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của
CSTT ở Việt Nam đã góp phần đạt được hai mục đích thường mâu thuẫn
nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát vừa tăng trưởng kinh tế. Có được kết qủa
này còn phải kể đến vai trò của nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của
nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa đạt được mức năng suất biên của
sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế.

2.2.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ
của CSTT những năm qua.
Trong những năm qua, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc
kiểm soát và điều hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phương pháp dự
đoán không phù hợp, phương thức điều hành MS không linh hoạt cùng với
các biến đổi kinh tế, mới chỉ quan tâm đến khối lượng tiền phát hành hàng
năm cho 2 mục tiêu (cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế thông
qua cho vay chiết khấu các NHTM và mua ngoại tệ, chưa đánh giá đúng khả
năng tạo tiền của các NHTM).
4
Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm
điều tiết sự tăng, giảm khối lượng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời
gian qua cũng bị hạn chế ở nhiều mặt.
Nhóm các công cụ trực tiếp: Được sử dụng chủ yếu trong việc điều
tiết cung tiền thời gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình
chuyển đổi kinh tế trong giai đoạn đầu nhưng trong tương lai sẽ không còn
phù hợp nữa (rõ nhất là công cụ hạn mức tín dụng đã bị loại bỏ từ quý II/98).
Lãi suất là công cụ được sử dụng thường xuyên nhất trong điều hành
CSTT ở Việt Nam vừa qua. Tuy nhiên, cũng như tình trạng ở các nứơc đang
phát triển khác, ở Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lắm với đầu tư. Việc
các NHTM tự quy định lãi suất tiền gửi thanh toán trong khung trần lãi suất
cho vay tối đa đã dẫn tới các NHTM tranh giành khách hàng bằng việc tăng
lãi suất tiền gửi thanh toán lên khá cao, khiến chotổng số vốn huy động của
toàn ngành NH không tăng mà chỉ chuyển từ NH này sang NH khác, gây bất
ổn định trong kinh doanh.
. Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ
đạo của NHNN, nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các
NHTM.
. Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị
trường vì thế nó có tác dụng khẳng định hơn là hướng dẫn diễn biến thực tế.

Mặt khác cơ sở để NHNN điều chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trường
phái trọng tiền ( căn cứ vào sự thay đổi của chỉ số giá cả thị trường là chủ
yếu,sự ảnh hưởng của thị trường vốn còn hạn chế)
. Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải được
hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Việc kiểm soát
lãi suấtcủa NHNN hiện nay chính là một kiểu can thiệp giá của nhà nước.
Nếu cứ như vậy sẽ là không phù hợp trong tương lai khi hệ thống thị trường
ở ViệtNam phát triển hoàn thiện hơn.
Công cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp
lệnh NH T5/1990 ) chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%,
điều nàychỉ phù hợp trong thời kỳ đầu nhưng sau đó khi đồng tiền Việt Nam
đi vào ổn định thì đó là tỉ lệ không hợp lý, thiếu linh hoạt song NHNN trong
thời gian đó vẫn không có quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp lệnh phải có
thời gian.
Kể từ khi luật NHNN được thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có được điều
chỉnh giảm đi (0-20%) và linh hoạt hơn nhưng theo nhiều chuyên gia đánh
giá thì nó vẫn ở mức cao.
Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD chưa nghiêm,
tiềm ẩn các nguy cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tượng
phải áp dụng quy chế DTBB còn chưa đầy đủ, các đối tượng áp dụng thì
mức độ tỉ lệ DTBB còn khác nhau- có nhiều yếu tố khộng hợp lý. Như vậy
4
NHNN vẫn chưa thực sự tạo ra được một “sân chơi bình đẳng”đối với các
TCTD.
Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của công cụ nay còn hạn
chế, chưa biểu hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trường, lãi
suất tái cấp vốn, chúng ta đã liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn chưa
thúc đẩy nền kinh tế phát triển rõ rệt, kết quả biểu hiện còn khá khiêm tốn.
Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơ chế đầy đủ
để CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT) phát huy tác dụng, mối liên hệ

- tác động của nó với các biến số kinh tế vĩ mô còn rất hạn chế.
Công cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan
trọng để thực hiện nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thương phiếu chưa phát
triển phổ biến trong các giao dịch thương mại; công cụ mà NHNN thực hiện
nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN. Theo lý thuyết,
lương tiền phát hành vào lưu thông qua con đường tái chiết khấu sẽ là phù
hợp hơn nếu nó được dựa trên các thương phiếu(vì lượng tiền đó được bảo
đảm bằng sự gia tăng khối lượng hàng hoá của nền kinh tế) .
. Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán
của các NHTM hiện nay phải chăng là quá dễ dãi theo nguyên lí phát hành
tiền. Nó có thể đáp ứng nhu cầu trước mắt của các NHTM nhưng nó cũng dễ
phát sinh các tiêu cực trong qúa trình thực hiện , chưa kích thích sự năng
động của các NHTM . Như vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, gây bất ổn đối
với giá trị đồng tiền quốc gia.
.Trong việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dường như chúng ta chỉ
nặng về điều chỉnh lãi suất chiết khấu mà chưa chú ý đến “cửa sổ chiết
khấu”của NHTW đối với các NHTM (vì quy mô cung ứng cho vay chiết
khấu của NHNN đối với các NHTM cũng phải căn cứ vào thực lực của
chính các NH đó).
Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi còn mang nặng
tính bao cấp ( ưu tiên NHTMQD) do vậy vai trò “người cho vay cuối cùng”
đối với mọi TCTD của NHNN chưa thực sự thể hiện rõ nét.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Về cơ bản thì đây chưa thực sự trở
thành một công cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc
dù theo lý thuyết vai trò của nó là rất to lớn.
Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau:
. Quá trình tạo “hàng hoá” còn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín
phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN của NHNN còn mang nặng tính
hành chính, các chủ thể tham gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc
doanh, Công ty Bảo hiểm với mục đích đơn giản là giải quyết nguồn vốn hả

dụng dư thừa của họ.
. Việc mua bán lại tín phiếu còn chưa phổ biến đối với công chúng
khiến cho lượng tín phiếu mà các TCTD sau khi mua được hầu như lại nằm
4
im trong két của họ điều đó cũng làm giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị
trường sơ cấp.
.Trên thị trường mở ,khối lượng giao dịch còn thấp , số thành viên
tham gia chưa nhiều nên tác độngcủa thị trường mở đến lượng vốn khả dụng
của các NHTM còn rất hạn chế.
Như vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hướng cơ bản
và các giải pháp cụ thể để có thể sử dụng các công cụ của CSTT một cách có
hiệu quả ở Việt Nam.
Phần 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện
các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Định hướng
3.1.1.Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bước sang thế kỷ 21,đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để
phát triển đó là : sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so
sánh của đất nước phục vụ cho sự phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng
ta từ khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục,cao thì lại đang
có xu hướng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này.Lý do
được giải thích có thể là do hậu quả thiên tai ,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc
xuất phát từ chính các yếu tố,lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu
kém tụt hậu tương đối so với khu vực và thế giới .
Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt
đẹp tạo cơ hội để phát triển đất nước ;chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều
các quốc gia trong khu vực và thế giới ,tham gia nhiều hiệp ước kinh tế như
AFTA,WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp với các tổ chức,định chế tài
chính lớn như IMF,WB,ADB
Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông á,Đông Nam á đang có

dấu hiệu phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm
qua.Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trường
tài chính tiền tệ ở nước ta .
Trong xu hướng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao
hiệu quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn
đề còn phải lưu tâm rất nhiều .
3.1.2. Một số định hướng cơ bản:
-Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hoà nhập
với thông lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng
định hướng của Đảng và Nhà nước .
-Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử
4
dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu
quả hơn.
-Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính
thực tiễn đó là thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh
tế .
3.2.Giải pháp :
3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi
-Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó
trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT
cần được độc lập với chính sách tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong
hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
-Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng
cố và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt
khác là cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của
CSTT.
-Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại
hệ thống NH để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .

-Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong
việc thu thập ,xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT
-Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để
cơ chế thực thi CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng được
nghiêm minh và có hiệu quả hơn.
-Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp
thói quen mới trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc
thực hiện các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn ,ví dụ: tạo thói quen thanh
toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh doanh ,thói quen sử dụng hoạt động
thị trường mở của các tổ chức tín dụng
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách
tiền tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh
nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát
thực tiễn VN -phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các
công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc
đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ thể:
*Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHTN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng
cần phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và
NHNN sẽ can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện cụ thể.
4
*Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên
tắc đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền,
tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp
các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của
các doanh nghiệp;sự biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ
lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị trường .

NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và
tiền vay dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy
động vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài
hạn có tính đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời
kỳ.
Việc duy trì các mức lãI suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp
điều khó khăn là phù hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách
và các kênh tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các
NHTM quốc doanh.
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một
cách hợp lý ,từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá”
trên đất Việt Nam .
Trước mắt, trong những tháng đầu năm 2001 nền kinh tế đang có
những biểu hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của
các TCTD đang gặp phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN
điều chỉnh lãi suất cơ bản với biên độ như hiện nay là còn rộng, từ đó làm
nảy sinh những hiện tượng thiếu tích cực trong cạnh tranh giữa các NHTM.
Do vậy, NHNN có thể nên điều chỉnh giảm biên độ dao động của mức lãi
suất cơ bản.
Về phía Nhà nước nên có chính sách tài chính phù hợp với các tổ
chức tín dụng, các NHTM ở Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ thuế vốn khá
cao, do vậy thuế đánh vào các tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh lại cho
phù hợp theo hướng giảm tỷ lệ thuế hoặc tính thuế trên lợi nhuận trước thuế
Hiện nay chúng ta chưa thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần
phải hướng theo mục tiêu đó và thực hiện từng bước bởi một lẽ đó là xu
hướng tất yếu và khi đó vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước bằng công cụ lãi
suất vẫn được thể hiện qua sự định hướng theo tín hiệu thị trường .
* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
-Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và
cung ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ

chế thị trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích
hợp để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng giữa các tổ
chức tín dụng: nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ
4
dự trữ bắt buộc đưa ra phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ ,với mục
tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ
thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam
- Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự
trữ bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế
dự trữ để đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện
tốt mục tiêu CSTT
-NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt
các qui chế dự trữ như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc
phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng
với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài chính NHNN.
-Trong thời gian trước mắt ,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,tỷ lệ dự
trữ bắt buộc cần phải giảm bớt ở mức độ phù hợp.
Phần 4 : Dự đoán chính sách tiền tệ 2010 với mục tiêu ổn
định giá cả
Như 1 chu kỳ kinh tế, sau suy thoái chắc chắn là giai đoạn phục hồi và
phát triển. Các nước luôn muốn nhanh chóng phục hồi và đưa nền kinh tế
vao giai đoạn phát triển.Tuy nhiên, giai đoạn phục hồi nhanh hay chậm phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, có thể chia thành yếu tố bên trong và yếu tố bên
ngoài
Yếu tố bên trong: Là những yếu tố cấu thành nội lực của nền kinh tế,
có vai trò quyết định trong việc phục hồi và tăng trưởng bền vững. Cụ thể là:
- Nguồn vốn
- Nguồn nhân lực
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Khoa học kỹ thuật

Yếu tố bên ngoài: Là nhũng yếu tố có tác động tới nền kinh tế trong
nước nhưng không thể thay đổi các yếu tố này 1 cách chủ quan. Các
yếu tố bên ngoài bao gồm:
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp
- Nguồn vốn đầu tư gián tiếp
- Các khoản viện trợ
Chính sách tiền tệ của 1 quốc gia có ảnh hưởng tới tất cả các yếu tố
trên. Với mục tiêu ổn định giá cả, tạo nền tảng để thực hiện các mục
tiêu khác, chính sách tiền tệ cần phải phù hợp với tình hình biến động
của thị trường, đặc biệt là thị trường vốn và thị trường tiền tệ đồng
thời cần có 1 sự điều hành tốt từ phía ngân hàng trung ương. Tuy
nhiên, sự biến dạng của nến kinh tế sau suy thoái thường là rất lớn,
4
đặc biệt là với 1 nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Một chính sách tiền tệ thắt chặt có thể làm mất đi động lực, sức bật
của nền kinh tế sau suy thoái. Nhưng 1 chính sách tiền tệ quá nới lỏng
có thể gây ra lạm phát, làm giai đoạn trì trệ sau khủng hoảng kéo dài.
Hiện nay có nhiều luồng ý kiến về chính sách tiền tệ của Việt Nam
trong năm 2010:
1.Ý kiến 1 : Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm 2010.
Những luận điểm bảo vệ ý kiến trên là :
- Thiệt hại do lạm phát cao năm 2007 vẫn chưa được khắc phục hoàn
toàn. Sau khi đã thực hiện chính sách kích cầu, rất có thể lạm phát sẽ
quay trở lại. Với những dấu hiệu xấu xuất hiện trên thị trường vốn và
thị trường tiên tệ, nếu lạm phát quay trở lại sẽ là rất khó để kiềm chế
- Trên thị trường tiền tệ, dân chúng gia tăng vay tiền đồng nhưng lại
gom giữ ngoại tệ. Do tâm lý đồng đô la sẽ phục hồi theo sự phục hồi
của nền kinh tế Mỹ, tạo môi trường cho đầu cơ lũng đoạn thị trường.
Trên thực tế, các doanh nghiệp vẫn đang phải mua bán với tỷ giá
ngoài biên độ mà ngân hàng đặt ra. Biện pháp bình ổn tỷ giá bằng việc

cung cấp ngoại tệ ra thị trường của ngân hàng Nhà nước được cho là
không thực tế và chỉ gây thêm áp lực cho dự trữ ngoại tệ quốc gia,
làm trầm trọng thêm nguy cơ mất cân bằng cán cân thanh toán. Sự
mất cân bằng giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch ngày càng nới
rộng tiềm ẩn 1 nguy cơ cao, trong khi đó thực tế, Việt Nam đang có 1
chế độ tỷ giá hối đoái phụ thuộc lớn vào đồng USD.
- Trên thị trường vốn, quyết định điều chỉnh tỷ lệ cho vay trung và dài
hạn trên nguồn vốn vay ngắn hạn của các ngân hàng thương mại từ
40% xuống còn 30% khiến cho các ngân hàng đều phải tăng cường
huy động vốn trong khi giảm bớt các khoản cho vay. Nhưng ngay cả
khi lãi suất huy động được nâng lên cao như vậy, tiền vẫn không chạy
về ngân hàng, hứa hẹn cuộc chạy đua lãi suất sẽ còn tiếp diễn. Các
chuyên gia nhận định,lãi suất huy động có lên đến 10,5% trong lúc
này thì vốn cũng khó chảy vào ngân hàng.
- Trên thị trường chứng khoán, bộ phận quan trọng của thị trường vốn,
đã có sự tăng điểm về các chỉ số quan trọng như VN-Index hay HAS-
Index, nhưng điều này lại được nhiều người lý giải là do 1 phần các
doanh nghiệp sử dụng vón vay ưu đãi để đầu tư và đó không phải lả 1
sự tăng trưởng thực mà là 1 quả bong bóng sắp xì hơi.
- Thị trường bất động sản và thị trường vàng có những biến động hết
sức khó lường. Cơn sốt giá vàng do tâm lý và do đầu cơ vừa qua là 1
ví dụ điển hình của 1 thị trường chưa thực sự đi vào giai đoạn phát
triển cao
4
- Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng trở lại, sự lo lắng về lạm phát
không phải là không có lý. CPI tăng do nguyên nhân chủ yếu là: sức
mua của người dân tăng vào các tháng cuối năm, và đông thời các
doanh nghiệp cũng có nhiều hình thức khuyến mãi để thu hút khách
hàng.
Ý kiến 2: Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng kết hợp với chính

sách tài khóa mở rộng nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Việc này sẽ
gây ra lạm phát nhưng không phải là lạm phát phi mã. Những
luận điểm bảo vệ ý kiến trên là :
- Sau khủng hoảng và giảm phát nền kinh tế cần phải có những yếu tố
kích thích cả từ phía cung và phía cầu nhằm phục hồi và tăng trưởng.
- Trên thị trường tiền tệ, chúng ta đang hướng tới 1 chế độ tỷ giá thả
nổi có điều tiết và ngày càng giảm bớt sự phụ thuộc vào USD trong
giao dịch quốc tế. Vì thế biến động về tỷ giá trong giai đoạn phục hồi
kinh tế là không thể tránh khỏi. Nhưng hiện nay đang có những biện
pháp nhằm giảm mức chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị
trường chính thức như : giữ ổn định mức tỷ giá , sử dụng quỹ dự trữ
ngoại hối nhằm tác động tới cung cầu ngoại tệ.
- Trên thị trường vốn, lãi suất tiền gửi VND và USD đang được ngân
hàng trung ương giữ ổn định. Lãi suất các ngân hàng thương mại
trong thời gian gần đây có chiều hướng tăng là do nhu cầu vốn của
nền kinh tế tăng cao và đây là 1 tín hiệu đáng mừng
- Thị trường chứng khoán trong những tháng gần đây đã có những
khởi sắc rõ rệt. Đặc biệt cổ phiếu các công ty hoạt động xuất nhập
khẩu, các công ty tài chính. Điều này cho thấy sự ấm lên của nền kinh
tế toàn cầu. Nếu thắt chặt tiền tệ vào lúc này sẽ làm mất thời gian và
cơ hội để lấy lại đà tăng trưởng
-Chỉ số giá tiêu dùng tăng sau thời kỳ giảm phát là dấu hiệu phục hồi
của nền kinh tế
- Cần có sự động bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ít
nhất là cho tới tháng 3 năm 2010. Điều này nhằm hát huy tối đa tác
dụng kích thích đối với nền kinh tế.
Ý kiến 3: Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng 1 cách thận trọng. Ý
kiến này được đông đảo các nhà hoạch định chính sách đồng ý
hơn cả. Luận điểm bảo vệ ý kiến này là:
-Sau suy thoái, bên cạnh những thách thức là cơ hội, 1 chính sách tiện

tệ nới lỏng thận trọng sẽ hạn chế được các rủi, giúp các doanh nghiệp

×