Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

SKKN một số giải pháp rèn kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong bài thi vào lớp 10 THPT môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.58 KB, 35 trang )

1

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình
Chúng tơi là:

TT

Họ và tên

1

Đỗ Xn Quyền

2

Nguyễn Thị Lan Hương

(PHỤ LỤC 1)
1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng
Là đồng tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số giải pháp rèn kĩ
năng làm câu nghị luận xã hội trong bài thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn.
Lĩnh vực áp dụng: Môn Ngữ văn
Thời gian áp dụng: Năm học 2018-2019, năm học 2019-2020 và năm
học 2020-2021.
2. Nội dung
Giai đoạn 2010-2020 đánh dấu bước thay đổi của giáo dục Việt Nam gắn
với thực hiện Nghị quyết Ðại hội XI, XII của Ðảng, trong đó đột phá chiến lược


là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân.
Nhiều năm qua, các tỉnh, thành phố trên cả nước nói chung và tỉnh Ninh
Bình nói riêng đã từng bước đổi mới cách ra đề thi tuyển sinh lớp 10 theo hướng
gắn lý thuyết với thực tiễn. Nội dung đề thi trong chương trình Trung học cơ sở,
tập trung ở lớp 9. Tuy nhiên, đề ra theo hướng chủ yếu kiểm tra khả năng tư duy,
vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn của học sinh. Vì


2

vậy, gắn với việc đổi mới cách ra đề thi, cách dạy và học tại trường cũng được
đổi mới theo hướng phát huy năng lực học sinh, gắn kiến thức với thực tiễn,
giúp học sinh dần làm quen với dạng đề thi này.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới và thực tiễn dạy học, tôi đã lựa chọn thực
hiện đề tài: Một số giải pháp đổi mới rèn kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong
bài thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn.
2.1. Giải pháp cũ thường làm.
2.1.1. Thực trạng:
Trong kì thi vào lớp 10 THPT trước đây, đề thi thường có ba câu hỏi. Câu
nghị luận xã hội 3,0 điểm thường được hỏi theo dạng bài sau: Viết một bài văn
ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về một vấn đề sự
việc, hiện tượng đời sống hoặc một tư tưởng đạo lý.
Ví du:
Viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của
em về tác hại của việc hút thuốc lá và rút ra bài học cho bản thân.
-

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2014-2015, Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình)

Viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của
em về lời nhắn nhủ trong câu ca dao sau:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
-

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2014-2015, Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình)
Đây là những dạng đề khá quen thuộc với giáo viên và học sinh. Hơn nữa,
câu nghị luận xã hội lại tách bạch nội dung với phần Đọc - hiểu và yêu cầu bàn
luận về một vấn đề lớn trong khuôn khổ một bài văn.
Việc ôn tập kĩ năng cho học sinh tập trung vào các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý
Bước 2: Lập dàn ý
Bước 3: Viết bài
Bước 4: Đọc lại bài và sửa chữa.
(PHỤ LỤC 2)
Giáo viên lên lớp cũng thiên về giảng dạy lý thuyết, đọc – chép bài văn
mẫu, kiểm tra học thuộc, chưa chú trọng hướng dẫn kĩ năng, chưa chủ động đổi


3

mới, vận dụng linh hoạt các kĩ thuật hay phương pháp dạy học. Học sinh chỉ cần
học thuộc lòng, chưa được rèn nhiều kĩ năng vận dụng.
2.1.2. Hạn chế của giải pháp cũ và những yêu cầu đặt ra cho giải pháp
mới:
Cách ơn tập của giáo viên khơng có sự đổi mới đã dẫn đến tình trạng học
sinh nhàm chán, ngại học văn, ngại đưa ra những bình luận, nhận xét hoặc đánh
giá cá nhân, đặc biệt là thiếu tư duy phản biện.

-

Hầu hết học sinh đều mệt mỏi khi phải ngồi lắng nghe mà không được
chủ động tham gia vào bài giảng. Nhiều học sinh không thể nhớ được hết những
gì mà giáo viên trình bày và thậm chí cịn nhớ rất ít. Giáo viên cũng mệt mỏi khi
nói nhiều, từ tiết này đến tiết khác.
- HS còn thụ động, ít tương tác và tham gia xây dựng bài với giáo viên.
- Khả năng ghi nhớ bài cũ của HS cịn yếu.
- HS chưa tự tìm cho mình một phương pháp ghi nhớ hiệu quả.
- Việc học bài chủ yếu là thuộc lịng, máy móc, khơng liên kết…
2.2. Giải pháp mới cải tiến
-

Để thấy được đặc điểm và yêu cầu của dạng bài viết đoạn văn nghị luận
xã hội, trước hết chúng ta quan sát lại câu nghị luận xã hội trong các đề thi chính
thức của những năm gần đây.
Từ nội dung phần Đọc hiểu, em hãy nêu cảm nhận về lòng tốt giữa con
người với con người trong cuộc sống hiện nay. (Trình bày trong một đoạn văn
khoảng 200 từ).
-

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2019-2020, Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình)
Anh (chị) hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của bản thân về vai trị của gia đình trong cuộc sống của mỗi người.
-

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2020-2021, Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình)
Vài năm trở lại đây, cấu trúc đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT mơn Ngữ

văn đã có sự thay đổi, gồm 2 phần: Phần Đọc – hiểu (3,0 điểm); Phần Làm văn
(7,0 điểm, gồm 2 câu: Câu 1 nghị luận xã hội 2,0 điểm, câu 2 nghị luận văn học
5,0 điểm). Dù chỉ chiếm 2,0 điểm/10,0 điểm nhưng câu nghị luận xã hội sẽ giúp
học sinh gỡ điểm nếu làm đúng và trúng vấn đề, góp phần nâng điểm số toàn bài
thi cao hơn.


4

Từ cấu trúc ngôn từ quen thuộc trong các đề: "Từ nội dung đoạn trích ở
phần Đọc hiểu...", nội dung nghị luận có quan hệ hữu cơ với nội dung chính của
ngữ liệu đọc hiểu. Đặc điểm này chỉ có từ kỳ thi năm 2017, khi đề bài yêu cầu
viết đoạn văn nghị luận xã hội từ một nội dung nào đó trong ngữ liệu đọc hiểu,
thay vì bài văn nghị luận xã hội độc lập.
Điều này mang đến thuận lợi cho học sinh trong quá trình làm bài khi các
em có được những gợi ý quan trọng ngay từ việc suy nghĩ và trả lời các câu hỏi
đọc hiểu trước đó. Tuy nhiên, các em cũng cần lưu ý tránh sự trùng lặp ý giữa
câu hỏi đọc hiểu và nội dung đoạn văn nghị luận xã hội.
Câu lệnh trong đề luôn xác định rõ hai yêu cầu của đoạn văn, trước hết là
một trong những yêu cầu về hình thức đoạn văn: viết đúng dung lượng theo yêu
cầu đặt ra trong câu lệnh của đề bài; sau đó là u cầu về nội dung nghị luận, đó
là một khía cạnh, một bình diện, một ý nhỏ trong vấn đề lớn. Quan sát các đề đã
dẫn phía trên, hầu hết nội dung nghị luận đều hướng tới tư tưởng đạo lý - do vậy
cần lưu ý thêm dạng đề nghị luận về một hiện tượng xã hội. Ví dụ: hiện tượng
bạo lực học đường/ hội chứng đám đông/ phong trào thiện nguyện trong xã hội
thời hiện đại/ các trào lưu sử dụng mạng xã hội...
Như vậy, ngoài việc thay đổi cách hỏi, yêu cầu về dung lượng và điểm số,
câu nghị luận xã hội còn liên quan chặt chẽ đến phần Đọc – hiểu văn bản, được
dẫn dắt từ nội dung đọc hiểu. Vậy nên cách đưa vấn đề bàn luận cũng rất đa
dạng và địi hỏi học sinh có kĩ năng viết súc tích, cảm xúc. Theo đánh giá chung

của người viết, đây là một dạng câu hỏi thiết thực, gần gũi nhưng cũng khó đạt
điểm cao nếu khơng ôn luyện một cách thành thục.
Qua thực tế giảng dạy, chúng tơi thấy bên cạnh q trình giúp học sinh
chiếm lĩnh tri thức về kiểu bài nghị luận xã hội trong sách giáo khoa tập 2 môn
Ngữ văn lớp 9 ở hai dạng bài: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống và
Nghị luận về vấn đề tư tưởng, đạo lý, thì việc rèn kĩ năng làm bài cho học sinh
là vấn đề then chốt.
Trong q trình ơn luyện, tiếp cận và áp dụng, chúng tôi đã trăn trở, cải
tiến và kết hợp nhiều giải pháp mới:
Giải pháp 1: Cung cấp có hệ thống kiến thức về các dạng bài nghị luận xã
hội cho học sinh.
Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh tích lũy tri thức.
Giải pháp 3: Nhận diện một số cách trình bày đoạn văn cơ bản.


5

Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh nhận diện đề, tìm ý, xây dựng luận
điểm bàn luận một khía cạnh, một bình diện theo yêu cầu của đề bài.
Giải pháp 5: Rèn kĩ năng diễn đạt, phép liên kết (liên kết các câu trong
văn bản), cách đưa và lựa chọn dẫn chứng.
Giải pháp 6: Tổng hợp kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong 2 dạng bài
cơ bản thường gặp trong đề thi vào lớp 10 THPT.
Giải pháp 7: Hướng dẫn học sinh cách triển khai ý của đoạn văn (lập dàn
ý) qua phương pháp Graph.
Giải pháp 8: Tập cách thể hiện cá tính (dấu ấn cá nhân) trong đoạn văn
nghị luận xã hội.
(PHỤ LỤC 3)
* Tính mới, tính sáng tạo của các giải pháp:
Giải pháp này đáp ứng một cách tối ưu yêu cầu đổi mới giáo dục trong

thời đại ngày nay, đó là:
Chuyển từ cách học lý thuyết đơn thuần sang học lý thuyết gắn liền với
thực hành, trải nghiệm nhằm giúp học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn
cuộc sống.
- Cụ thể hóa được nội dung bài học, hệ thống chặt chẽ nội dung bài học.
-

Giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy… Cách này giúp các em được rèn luyện một cách
liên tục nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất của mình.
-

Hình thức học tập đa dạng, phong phú sẽ phát huy tính tự giác, tích cực,
chủ động của người học trong quá trình rèn luyện, học tập tại trường học, khắc
phục được lối học thụ động, phụ thuộc hoàn toàn vào giờ lên lớp trước đây. Một
số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì
vậy việc sử dụng các giải pháp đổi mới giúp HS học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não.
3. Hiệu quả kinh tế - xã hội dự kiến đạt được
3.1. Hiệu quả kinh tế:
-

So với các ngành nghề khác, hiệu quả kinh tế thể hiện qua bộ môn Ngữ
văn không rõ ràng cụ thể, khơng nhìn thấy ngay được. Nhưng với cách thức đổi
mới rèn kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong đề thi tuyển sinh vào lớp 10
THPT như đã trình bày ở trên, chúng tơi nhận thấy học sinh hiểu bài tốt hơn, các


6


em hào hứng, say mê học văn và làm tốt câu nghị luận xã hội hơn trước. Các em
đã có kĩ năng làm bài nên việc học tập các môn học khác của các em cũng khác
trước. Trong các kì thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT, có nhiều học sinh đạt điểm
cao mơn Ngữ văn, góp phần tăng tỉ lệ đỗ vào trường THPT công lập của nhà
trường. Chi phí học tập cho các em giảm bớt rõ rệt. Các em nhận được sự động
viên khen thưởng về tinh thần và vật chất của Hội khuyến học trong nhà trường,
ở địa phương và các dòng họ.
3.2. Hiệu quả xã hội:
a. Đánh giá chung:
Việc xếp nghị luận xã hội là một dạng văn bản quan trọng nhất không thể
thiếu trong chương trình giáo dục văn học bậc phổ thơng đã nói lên tầm quan
trọng của nó trong việc giáo dục học sinh. Trước hết, mục đích của bài văn nghị
luận xã hội là đưa ra bàn bạc, làm rõ những mặt tích cực- tiêu cực, đúng-sai, tốtxấu trong xã hội với mục đích tuyên truyền, kêu gọi mọi người đứng ra giải
quyết các vấn đề bất công trong xã hội, vì vậy bài văn nghị luận xã hội góp phần
giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục học sinh về ý thức xây dựng lối sống
công bằng, văn minh, thông qua việc thể hiện tư tưởng, quan điểm, cách nhìn
nhận, đánh giá với vấn đề. Ngồi ra, bài văn nghị luận xã hội giáo dục cho học
sinh cách hình thành tư duy hợp lý, khoa học, biết cách bày tỏ cách quan điểm,
tư tưởng của mình một các rành mạch, rõ ràng, biết cách tìm hiểu, khám phá và
xác định chân lý trong cuộc sống.
Bài văn nghị luận xã hội có vai trị khơng nhỏ trong việc giáo dục, hình
thành nhân cách, phát triển tư duy cho học sinh, vì vậy việc rèn luyện, bồi
dưỡng các kỹ năng trong việc làm văn nghị luận xã hội là rất cần thiết và quan
trọng đối với việc giáo dục văn học cấp trung học cơ sở.
Với những kinh nghiệm hướng dẫn trên, tơi nhận thấy có sự biến chuyển
rõ rệt trong chuyên đề ôn tập rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học
sinh. Giáo viên không phải mất nhiều thời gian hướng dẫn học sinh giải từng đề
cụ thể mà chỉ cung cấp cho các em “chìa khóa” để làm bài. Chìa khóa đó là một
hệ thống những kiến thức, kĩ năng cần thiết mà học sinh phải có để sử dụng

trong q trình viết một đoạn văn nghị luận thơng thường. Khi học sinh đã có
nền tảng kiến thức cơ bản, giáo viên chỉ cần minh họa bằng một số đề, từ đó,
hồn tồn có thể chủ động, tự tin thực hiện bất kì một yêu cầu nào.


7

Khi áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy tôi nhận thấy hiệu quả xã hội là
quan trọng nhất. Học sinh say mê u thích mơn học, học sinh gắn bó với
trường lớp, với bạn bè, khơng vi phạm các vấn đề về đạo đức hay các tệ nạn xã
hội. Cũng từ đó, phụ huynh học sinh đã có những nhận thức đúng đắn hơn, tích
cực hơn với bộ mơn Ngữ Văn. Nhiều phụ huynh đã khuyến khích con em mình
học Văn cũng như các bộ mơn Khoa học Xã hội khác. Bởi môn nào cũng quan
trọng và đều giúp ích cho học sinh sau này.
b. Kết quả cụ thể:
Thực hiện sáng kiến của mình, trên cơ sở bám sát chương trình phân mơn,
trong các bài kiểm tra thường xun và định kì của học sinh, chúng tơi đã kiểm
chứng bằng một số yêu cầu viết đoạn văn cụ thể.
Bảng so sánh kết quả trước và sau thực nghiệm:
Trước khi vận dụng các giải pháp đổi mới:

201

201

202


9A (18-19)
9A (19-20)

9A (20-21)


8

Biểu đồ thể hiện kĩ năng thực hành viết đoạn văn nghị luận xã hội của
học sinh trước khi giáo viên vận dung các giải pháp đổi mới.
Sau khi vận dụng các giải pháp đổi mới:

20

20

20

9A (18-19)

9A (19-20)
9A (20-21)

Biểu đồ thể hiện kĩ năng thực hành viết đoạn văn nghị luận xã hội của
học sinh sau khi giáo viên vận dung các giải pháp đổi mới.
Từ bảng số liệu trên cho thấy, sau khi chúng tôi tiến hành ôn luyện cho
học sinh lớp 9 kĩ năng làm câu nghị luận xã hội, theo các giải pháp đã trình bày
trong sáng kiến, nhiều học sinh nắm chắc tại lớp phần lý thuyết và vận dụng
thực hành, viết đoạn văn nghị luận xã hội đạt kết quả cao.


Nhận thấy khả quan mà sáng kiến mang lại, chúng tơi đã mạnh dạn vận
dụng trong q trình bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lớp 9 của huyện Yên

Khánh. Đây cũng là một trong những yếu tố làm nên thành công của đội tuyển


9

Ngữ văn trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh những năm vừa qua. Kết quả cụ thể
như sau:
Năm học
2016 2017 2018 -

2019-2

2020-2
Kết quả thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn trong những
năm học gần đây của các lớp tôi trực tiếp giảng dạy cũng cho thấy rõ
tính hiệu quả của sáng kiến.
Năm

2018 2019 2020 Sáng kiến đã được học sinh và giáo viên, cán bộ quản lý đánh giá
cao. (PHỤ LỤC 4)
Kết quả thiết thực của sáng kiến là hình thức tuyên truyền tốt nhất đến cán
bộ, giáo viên trong trường, trong huyện, là động lực giúp cho các cán bộ, giáo
viên có nhận thức đúng đắn về sự đổi mới, trong đó chú trọng cơng tác quản lý
giáo dục, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy. Nhà
trường đã chủ động đưa học sinh đến với thực tế nhiều hơn; tổ chức cho cán bộ,
giáo viên tiếp thu việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục theo
hướng tăng cường năng lực thực hành, vận dụng kiến thức, định hướng năng lực
cho học sinh. Giáo viên hạn chế được sự giảng giải, thuyết trình để tập trung vào
tổ chức, hỗ trợ quá trình học tập của học sinh. Học sinh cơ bản thay đổi được
thói quen học tập thụ động, được rèn luyện nhiều hơn về kỹ năng sống…

Điều kiện và khả năng áp dụng
4.1. Điều kiện áp dụng:
* Đối với giáo viên:
4.


10

Nghiên cứu kĩ nội dung, chương trình sách giáo khoa, nắm vững những
kiến thức của từng bài và những kiến thức liên quan để thiết kế các hoạt động
phù hợp.
-

Vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực để kích thích tư duy và khả năng
sáng tạo của học sinh, tạo cơ hội cho học sinh phát biểu ý kiến, phản biện.
-

Tích cực học hỏi, tham gia chuyên đề của tổ, nhóm chun mơn, tích
cực bồi dưỡng thường xun.
-

Thường xun đánh giá kết quả của học sinh, kết quả giảng dạy của
mình, có phương án điều chỉnh cho phù hợp cho những giờ dạy sau.
* Đối với học sinh:
- Nắm vững kiến thức cơ bản và trau dồi khả năng hiểu biết xã hội.
- Có lịng đam mê, u thích mơn học.
- Phải có ý thức cố gắng, kiên trì, chịu khó trong học tập.
-

Trong giờ học trên lớp, cần nắm vững lí thuyết, có kĩ năng vận dụng,

thường xun trao đổi cùng bạn bè để nâng cao kiến thức cho học sinh.
4.2. Khả năng áp dụng:
-

Sáng kiến có tính thực tiễn cao, có thể vận dụng rộng rãi trong quá trình
dạy và học ở cấp THCS và THPT. Đặc biệt, sáng kiến này có thể áp dụng với
nhiều đối tượng học sinh, kể cả học sinh đại trà cũng như học sinh khá giỏi. Các
thầy giáo, cô giáo và học sinh có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong q
trình ơn thi các cấp… để đạt hiệu quả thiết thực, phù hợp với yêu cầu đổi mới
giáo dục theo hướng phát triển năng lực học sinh hiện nay.
Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng
sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Đỗ Xuân Quyền
Nguyễn Thị Lan Hương


11

PHỤ LỤC 1
Thơng tin nhóm tác giả sáng
kiến 1. Đỗ Xn Quyền
Chức danh: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị cơng tác: Trường THCS Khánh Cường, n Khánh, Ninh Bình
Trình độ chun mơn: Đại học Ngữ văn
Email:
Số điện thoại: 0915922919
2.

Nguyễn Thị Lan Hương


Chức danh: Giáo viên

Đơn vị công tác: Trường THCS Khánh Cường, n Khánh, Ninh Bình
Trình độ chun mơn: Thạc sĩ Ngữ văn
Email:
Số điện thoại: 0948157079


12

PHỤ LỤC 2
CÁC BƯỚC LÀM BÀI, BỐ CỤC THƯỜNG LÀM

Các bước làm bài văn nghị luận xã hội.

Bố cuc bài văn nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống.

Bố cuc bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý.


13

PHỤ LỤC 3
NỘI DUNG CÁC GIẢI PHÁP MỚI CẢI TIẾN ĐỂ RÈN KĨ NĂNG
LÀM BÀI CÂU NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG BÀI THI VÀO LỚP 10

THPT MÔN NGỮ VĂN
Giải pháp 1: Cung cấp có hệ thống kiến thức về các dạng bài nghị luận
xã hội cho học sinh.

Trong phân môn Làm văn, lý thuyết là nền tảng vô cùng quan trọng bởi lý
thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung
cấp cho người viết cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề trong bài
viết. Vì lẽ đó, sẽ khơng q nếu nói hệ thống lý thuyết chính là “quỹ đạo” của
người viết. Và để kết quả bài làm đảm bảo không lạc đề, triển khai đúng vấn đề,
thì quá trình triển khai bài viết, người viết khơng thể đi chệch cái “quỹ đạo” đó.
Những kiến thức, kĩ năng và thao tác lập luận về Làm văn nghị luận ở phổ
thơng khơng phải hồn tồn mới mà là sự lặp lại có nâng cao, xoay quanh hai
kiểu bài chính: Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội. Đối với kiểu bài Nghị
luận xã hội tập trung vào hai dạng chính: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và
Nghị luận về một hiện tượng đời sống. Nghị luận xã hội nhằm hướng đến những
suy nghĩ của HS vào các vấn đề chính trị, xã hội. Mục tiêu cần đạt là giúp HS
huy động được kiến thức và kĩ năng để tạo lập được một văn bản nghị luận xã
hội hồn chính, đúng hướng. Chính vì vậy, các đơn vị bài học trong chương
trình khơng chỉ cung cấp những kiến thức, mà còn rèn luyện các kĩ năng bổ trợ
cho HS trong việc tạo lập văn bản.
* Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống:


14

* Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý:


15

Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh tích lũy tri thức.
Các lĩnh vực xã hội làm đề tài cho bài văn nghị luận xã hội rất đa dạng,
nên kiến thức phục vụ cho bài làm của học sinh là rất phong phú. Nhưng, điều
quan trọng, học sinh phải có ý thức quan sát, tìm hiểu, ghi chép, để vận dụng

(giáo viên cần hướng dẫn để học sinh biết để ý, để tâm những vấn đề của đời
sống, xã hội)
Có thể định hướng học sinh huy động kiến thức từ các nguồn:
Kiến thức từ sách vở: Chủ yếu từ báo chí, sách tham khảo về các lĩnh vực
của cuộc sống, từ văn học, lịch sử, khoa học, tôn giáo, sách về gương người tốt
việc tốt …" Hạt giống tâm hồn", "Hạt giống hạnh phúc", "Suy nghĩ của những
người trẻ",… Điều quan trọng cùng các em tìm và lựa chọn sách cần thiết để
học, biết cách đọc, hệ thống hóa kiến thức.
Kiến thức từ đời sống: Hiểu biết, tích lũy hoặc từ đời sống hàng ngày của
bản thân người viết, yêu cầu học sinh có thói quen quan sát cuộc sống, những
hoạt động, sự việc, những vấn đề từ cuộc sống xung quanh quan trọng hơn là
biết suy nghĩ, suy xét những gì mình nghe được, quan sát được. Trên cơ sở đó,
biết lựa chọn, nắm bắt lấy bản chất vấn đề.


16

Chuyên muc “Việc tử tế” trong chương trình VTV1 đã tái hiện
nhiều tấm gương tốt.
Kiến thức từ trải nghiệm bản thân, đây sẽ là ví dụ minh họa sống đúng, có
sức thuyết phục nếu nó được vận dụng vào bài văn một cách tự nhiên, chân
thành.
Giải pháp 3. Nhận diện một số cách trình bày đoạn văn cơ bản.
Giáo viên nhấn mạnh cho học sinh ba cách trình bày cơ bản sau:
Phương pháp diễn dịch: câu chủ đề, câu nêu ý khái quát đặt ở đầu đoạn;
các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các
câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân
tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của
người viết.
-


(1)

(Câu chủ đề)

(3)

(2)

(4)



- Phương pháp quy nạp: câu chủ đề, câu nêu ý khái quát đặt ở cuối đoạn.

(2)

(1)

(4)

(3)

(Câu chủ đề)

...


17


Phương pháp tổng - phân - hợp: Câu mở đầu đoạn văn nêu lên một nhận
định chung. Các câu sau khai triển đoạn đưa ra các biểu hiện cụ thể minh họa
cho nhận định chung. Từ những chứng cớ cụ thể này, câu kết đoạn đúc kết thành
một nhận định mới vừa phù hợp với nhận định ban đầu, vừa được nâng cao hơn.
Đó là mơ hình tổng hợp - phân tích - tổng hợp (tổng - phân - hợp). (Khuyến
khích học sinh trình bày theo mơ hình này).
-

Ví dụ: Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày quan điểm
của em về hậu quả của việc “phán xét người khác một cách dễ dàng”.
- Câu 1: Câu chủ đề:
Trong cuộc sống, nhiều người có thói quen phán xét người khác nhưng
đã bao giờ họ nghĩ đến hậu quả của việc “phán xét người khác một cách dễ
dàng” hay chưa?
- Câu 2 -> Câu 7: Hậu quả của việc phán xét người khác một cách dễ
dàng
Những lời phán xét được thốt ra một cách dễ dàng thường thiếu đúng
đắn, khách quan vì người thốt ra chúng chỉ dựa trên một khía cạnh nào đó với
cái nhìn phiến diện, chủ quan. Với sự phát triển của mạng internet và các trang
mạng xã hội, việc buông lời phán xét người khác càng trở nên dễ dàng hơn, gây
ra những hệ luỵ không nhỏ trong mối quan hệ con người với con người. Người
hay phán xét người khác một cách dễ dàng dần trở thành những con người ích
kỉ, hẹp hịi, bị mọi người xa lánh. Người bị phán xét thiếu cẩn trọng thì bị tổn
thương về mặt tinh thần (trầm cảm, stress,…) thậm chí có thể ảnh hưởng tới thể
xác. Nhiều cơ cậu học trị vì bị bạn bè phán xét mà dẫn đến xơ xát, nhẹ thì khẩu
chiến nặng thì huyết chiến. Đáng sợ hơn cả là những người nổi tiếng trong cộng
đồng mạng hay trong đời sống xã hội, khi không chịu nổi những lời gièm pha ác
ý, thiếu chính xác, họ đã chấm dứt sự sống của bản thân (U-Nee: nữ diễn viên
kiêm ca sĩ Hàn Quốc tự sát tại nhà ngày 21/1/2007 vì những lời bình luận khơng
hay trên mạng…)

- Câu 8 –> Câu 10: Bình luận
Có thể thấy, thực tế cuộc sống ln có những người tự cho mình quyền
phán xét người khác, phát huy triệt để khả năng “bới lơng tìm vết”, khen thì ít
mà chê thì nhiều. Chúng ta cần phân biệt sự khác biệt giữa sống có chính kiến:
biết khen – biết chê với lối sống phán xét người khác một cách tuỳ tiện. Khi
phán xét một người nào đó ta cần có tấm lịng trong sáng, đức tính trung thực,


18

chân thành, thẳng thắn góp ý như Tuân Tử từng nói: “người chê ta đúng là thầy
của ta”.
- Câu 10 –> Câu 11: Bài học cho bản thân:
Ai trong chúng ta cũng có thiếu sót, cũng có lúc bng lời phán xét
người khác. Bởi vậy, hãy nhớ rằng: không nên tuỳ tiện phán xét người khác;
bình tĩnh lắng nghe, tỉnh táo xử lí những lời phán xét về mình.
Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh nhận diện đề, tìm ý, xây dựng luận
điểm bàn luận một khía cạnh, một bình diện theo yêu cầu của đề bài.
Trong đoạn văn nghị luận xã hội, học sinh phải phát biểu những suy nghĩ
nghiêm túc, chín chắn, sâu sắc của mình về một hiện tượng tốt, xấu trong đời
sống xã hội, về những vấn đề của cuộc sống từ chân lývĩnh hằng đến thời sự
nóng hổi.
Muốn vậy, trước hết học sinh phải nhận thức đúng vấn đề mà đề bài yêu
cầu nghĩa là việc xác định vấn đề phải trúng, vì thế khâu tìm hiểu đề hết sức
quan trọng. Chúng tơi thường u cầu học sinh chú ý đến các từ khóa (từ ngữ
quan trọng) để xác định:
Kiểu bài: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống hay nghị luận
về một vấn đề tư tưởng, đạo lý.
- Vấn đề nghị luận: Bàn về vấn đề gì, khía cạnh nào?
- Thao tác lập luận, hình thức thể hiện…

-

Nhận thức đề là cơ sở cho việc tìm ý và xây dựng hệ thống ý lớn cho bài
viết. Tư tưởng, suy nghĩ của người viết trước vấn đề cần nghị luận phải là tư
tưởng phù hợp đạo lý, lẽ phải thể hiện trách nhiệm của người viết trước những
vấn đề của đời sống.
Tư tưởng trong bài văn được thể hiện thông qua các luận điểm, luận điểm
là sợi chỉ đỏ, là xương sống của bài nghị luận, người viết phải xác định được hệ
thống luận điểm rõ ràng thì bài văn mới có phương hướng, có nội dung đúng, đủ
và sâu sắc.
Luận điểm trong bài nghị luận xã hội phải đạt các yêu cầu: Chính xác, rõ
ràng, sâu sắc và mới mẻ. Điều đó có nghĩa là: Luận điểm phải phản ánh đúng
bản chất vấn đề, phù hợp với đối tượng bàn luận, luận điểm được xây dựng phải
sáng rõ, nổi bật, nhờ luận điểm mà người đọc nhận thức vấn đề sâu sắc; luận
điểm cần đưa ra được những ý mới, ý hay, đem đến cho người đọc những nhận
thức mới.


19

Trong quá trình xây dựng luận điểm cho bài viết, học sinh luôn phải biết
tự đặt ra các câu hỏi: Vì sao, cần phải làm như thế nào, những hiện tượng nào
cần phê phán trong thực tế cuộc sống, bài học mỗi người tự rút ra được sau các
vấn đề bàn luận là gì?
Rèn cho học sinh trong quá trình làm bài, ln có ý thức bám sát u cầu
của đề. Triển khai các luận điểm để nội dung toàn bài cùng tập trung hướng tới
làm rõ một vấn đề xã hội từ đó cần bàn luận. Một trong những thủ pháp để tìm
được luận điểm mới, sâu sắc là người viết phải biết lật đi, lật lại vấn đề, bên
cạnh chính đề cần tìm ý phản đề hay giả định trong những trường hợp cần thiết.
Điều đó giúp cho vấn đề bàn luận được nhìn nhận, đánh giá ở nhiều góc độ và

tăng thêm sức thuyết phục. Yêu cầu này phải được đặt ra đối với các em và cần
để luyện tập để các em thấy nó cần thiết, không thể thiếu đối với tư duy, giải
quyết vấn đề của người học sinh giỏi (tránh được lối viết hời hợt, thuận chiều).
Ví du: Cho đoạn văn sau:
…(1) Một viên sỏi nhỏ cũng có thể làm xáo động cả một vùng nước. Nhỏ
thôi, nhưng khi ta biết gieo một điều tốt, sự lan tỏa của nó là gần như khơng thể
giới hạn. Nhỏ thôi, nhưng khi ta làm một điều xấu, tiếng của nó lan xa chẳng gì
có thể ngăn được. Người xưa nói; Đừng thấy việc ác nhỏ mà làm. Đừng thấy
việc thiện nhỏ mà không làm. Khi ta biết tránh làm điều ác, biết gieo mầm thiện,
cho dù nhỏ thơi, thì ta cũng có cơ hội để thành người tử tế qua mỗi ngày lớn lên.
Như những vòng trịn đồng tâm lan rộng, ta startup cuộc đời mình theo cách
nhẹ nhàng và lãng mạn, tỏa lan năng lượng tích cực, tạo nên những con sóng dù
nhỏ nhưng có thể đánh động cả tự nhiên để tất cả biết rằng ta đang thực sự
sống.
Cuộc sống cũng nhắc ta không ngừng hành động. Ta khởi sự một việc
dù nhỏ thì cũng có thể tạo những làn sóng tỏa lan, những vịng trịn đồng tâm
nối nhau sống động. Đơi khi ta ném xuống mặt bến sông tĩnh lặng là tâm hồn ta
một viên sỏi nhỏ để nhắc mình sống, nhắc những điều tốt cần được thể hiện,
nhắc dám đối đầu với những kẻ ác và những hành động không tử tế. Khi còn trẻ
là khi ta cần lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực cho người xung quanh,
cho bạn bè, cho ánh sáng đẩy lùi bóng tối… (Trích Bay xun những tầng mây –
Hà Nhân, NXB Văn học, 2016, tr.191, 192)
(2)

Với đoạn trích trong phần Đọc - hiểu như trên thì câu NLXH là: Từ nội
dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)


20


trình bày suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của việc lan tỏa nguồn năng lượng
sống tích cực cho người xung quanh.
Chúng ta tiến hành bước Xác định yêu cầu đề như sau:
Đọc kĩ đề: đoạn văn trên truyền tải thông điệp làm điều thiện hay điều ác
dù nhỏ thơi nhưng nó cũng có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng. Qua đó tác
giả cũng khẳng định mỗi việc chúng ta làm, dù nhỏ hay lớn đều có tác động rất
lớn đến xung quanh. Bởi vậy làm bất cứ điều gì cũng cần có sự cân nhắc kỹ
lưỡng, đặc biệt nhấn mạnh chúng ta cần lan truyền những điều tốt đẹp đến mọi
người xung quanh. Vì thế chúng ta cần gạch chân những từ ngữ quan trọng, tìm
mối liên hệ với nội dung đoạn đọc hiểu để hiểu rõ nội dung cần nghị luận: với đề
trên chúng ta cần chú ý các từ ngữ quan trọng là: trình bày suy nghĩ, ý nghĩa bản
thân, lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực.
Xác định: dạng đề là nghị luận về một tư tưởng đạo lí, đối tượng và nội
dung nghị luận là ý nghĩa của việc lan tỏa nguồn năng lượng tích cực, các thao
tác nghị luận sẽ sử dụng có thể là giải thích, phân tích, bác bỏ…
Làm tốt bước này sẽ giúp các em hiểu rõ vấn đề cần nghị luận, tránh lạc
đề, sai đề.
Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận.
Tức là dẫn dắt người đọc đến vấn đề mà em cần nghị luận. Nếu dẫn dắt tốt
sẽ truyền cảm hứng giúp các em đi vào bàn luận tốt hơn, hơn nữa ngay phần dẫn
dắt sẽ phần nào cho biết các em có đi đúng hướng hay lạc đề hay khơng. Nhưng
vì chỉ viết một đoạn văn 200 từ nên phần dẫn dắt nên đi trực tiếp vấn đề.
Ví dụ: Với đề trên ta có thể dẫn dắt như sau: Lối sống lan tỏa nguồn năng
lượng sống tích cực cho người xung quanh được đề cập trong ngữ liệu phần Đọc
hiểu mang lại nhiều giá trị và ý nghĩa.
Thân đoạn:
Giải thích: giải thích khái niệm, hình ảnh, câu nói từ đó suy ra nội dung, ý
nghĩa vấn đề mà đề yêu cầu. Với đề trên chúng ta cần giải thích: Năng lượng
sống tích cực: có thể hiểu là những suy nghĩ, hành động, thái độ sống tích cực,
lạc quan của mỗi cá nhân đối với các vấn đề trong cuộc sống. Tạo ra năng lượng

sống tích cực, để lan tỏa đến những người xung quanh là việc làm hết sức có ý
nghĩa và cần thiết.
Phân tích – chứng minh: tìm cách đặt câu hỏi vì sao? Lí giải biểu hiện?
Ngun nhân?... để từ đó giảng giải, làm rõ bản chất vấn đề.


21

Với đề trên, chúng ta cần tập trung phân tích - Ý nghĩa khi lan tỏa năng
lượng sống tích cực. Muốn làm rõ điều đó chúng ta cần chỉ rõ việc lan tỏa lan
tỏa năng lượng sống tích cực đối với bản thân sẽ giúp ta luôn cảm thấy lạc quan,
yêu đời, dễ dàng vượt qua được mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Đối
với người xung quanh: Khi lan tỏa năng lượng sống tích cực đến những người
xung quanh sẽ giúp họ có niềm tin vào cuộc sống và vượt qua thử thách; Khơng
chỉ vậy, năng lượng tích cực khi được lan tỏa sẽ khiến cho cộng đồng sống đẹp
hơn, có ý nghĩa hơn; Năng lượng tích cực sẽ tạo nên một xã hội vững mạnh, văn
minh và nhân ái.
Dẫn chứng: với yêu cầu của một đoạn văn 200 chữ các em không cần phải
dẫn quá nhiều dẫn chứng hoặc kể lể dài dịng… Dẫn chứng khơng nên quá cũ
cũng không nên quá mơ hồ, càng gần thời đại càng tốt (Đảm bảo tính tiêu biểu
và cập nhật). Với đề trên tốt nhất là các em nên lấy dẫn chứng từ những con
người, việc làm xung quanh chúng ta, nhỏ bé, bình dị nhưng đủ sức lan tỏa
(những bác sĩ tuyến đầu chống dịch Covid, ước mơ của Thúy…) thì bài sẽ sâu
sắc và đủ sức thuyết phục.
Bàn bạc mở rộng vấn đề: ở phần này chúng ta cần đánh giá vấn đề cần
nghị luận tức là chỉ rõ vấn đề đúng hay sai, đồng tình hay khơng đồng tình, đưa
ra giải pháp… từ đó chúng ta có thể đưa ra phản đề (phê phán, bác bỏ những vấn
đề ngược lại), để cuối cùng chúng ta rút ra bài học nhận thức và hành động cho
bản thân.
Với đề trên, chúng ta cần đồng tình việc lan tỏa những năng lượng tích

cực là vơ cùng cần thiết. Nhưng khơng có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng ép
mình phải vui vẻ, giả tạo hay che đậy cảm xúc thật của bản thân… Và dù thế
nào hãy luôn nhớ giữ thái độ sống lạc quan, yêu đời; Luôn ghi nhận và khen
ngợi trước những thành tích người khác đạt được; Ln mỉm cười, sống thân
thiện, chan hịa. …
(Có thể sử dung cách viết phần bài học nhận thức và bài học hành động
để kết đoạn cho ngắn gọn và súc tích).
Giải pháp 5: Rèn kĩ năng diễn đạt, phép liên kết (liên kết các câu trong
văn bản), cách đưa và lựa chọn dẫn chứng.
Vận dụng phép liên kết câu trong đoạn văn cũng là một đơn vị kiến thức
không dễ đối với học sinh. Để học sinh nắm tốt và biết vận dụng, khi ôn tập, tôi
thường yêu cầu học sinh kẻ bảng tên các phép liên kết và đặc điểm nhận diện


22

trên bảng nhóm. Sau đó, tơi u cầu các nhóm trao đổi bảng phụ để nhận xét, bổ
sung.
Kết quả đạt được trên bảng nhóm như sau:
Các phép liên kết
Phép lặp từ ngữ
Phép liên tưởng
(đồng nghĩa / trái
nghĩa)
Phép thế
Phép nối
Song song với việc liên kết câu trong đoạn văn thì khâu lựa chọn và đưa
dẫn chứng cũng là một nghệ thuật trong đoạn văn nghị luận. Trong đoạn văn, có
thể đưa từ 1 đến 2 dẫn chứng, dẫn chứng cần đảm bảo tiêu chí: tiêu biểu và cập
nhật. Chúng tơi thường hướng dẫn học sinh những cách đưa dẫn chứng sau:

Cách 1: Lấy dẫn chứng vào bài văn nghị luận bằng những câu nói nổi
tiếng:
Khi những câu nói nổi tiếng trở thành dẫn chứng vào bài văn nghị luận,
chúng sẽ là cơng cụ hữu hiệu để gia tăng tính xác thực. Ngồi ra, những câu nói
này sẽ khiến cho bài văn tăng tính hấp dẫn và khơng hề khơ khan. Ví dụ: Khi
bình luận về vấn đề tình yêu thương, người viết có thể trích dẫn những câu nói:
“Tình thương là hạnh phúc của con người”, “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc
Cực, mà là nơi khơng có tình thương”, “Chỉ có trái tim yêu thương mới gieo
mầm hạnh phúc” (Đặng Thùy Trâm). Hoặc đưa những câu văn, câu thơ có giá trị
vào bài làm:
“Tôi hỏi đất: Đất sống với nhau như thế nào?
Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước: Nước sống với nhau như thế nào?
Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với nhau như thế nào?
Chúng tôi đan vào nhau tạo thành những chân trời.
Tôi hỏi người: Người sống với nhau như thế nào?
Tôi hỏi người: Người sống với nhau như thế nào?


23

Tôi hỏi người: Người sống với nhau như thế nào?”
(Hỏi – Hữu Thỉnh)
Với những câu nói đầy cảm xúc này, chắc chắn bài văn nghị luận có thể
tăng thêm sự sâu sắc, thuyết phục độc giả một cách “thấu tình đạt lí”. Đó chính
là nghệ thuật đi vào lịng người bằng con đường tình cảm, cảm xúc.
Cách 2: Lấy dẫn chứng vào bài văn nghị luận bằng những nhân vật nổi
tiếng
Nhân vật nổi tiếng là những người đã được dư luận công nhận, đánh giá

về phẩm chất cũng như năng lực. Khi lấy nhân vật nổi tiếng làm dẫn chứng
trong bài văn nghị luận, những dẫn chứng này sẽ làm tạo nên một hiệu ứng bất
ngờ trong việc đi vào lòng độc giả. Đây cũng là cách đưa dẫn chứng tiêu biểu
thường xuyên xuất hiện trong bài văn nghị luận. Khi đưa dẫn chứng là nhân vật
nổi tiếng, cần lưu ý câu chuyện của nhân vật cần liên quan chặt chẽ đến vấn đề
cần nghị luận. Và mỗi một câu chuyện có thể trở thành dẫn chứng cho nhiều vấn
đề nghị luận khác nhau. Đồng thời, chúng ta có thể lấy dẫn chứng là những nhân
vật nổi tiếng trong đời sống lẫn trong văn học. Ví dụ: Dẫn chứng Nguyễn Hải
An- cô bé 7 tuổi hiến giác mạc: “Mặc dù chỉ mới 7 tuổi nhưng em đã mang
trong mình căn bệnh ung thư. Biết mình sẽ qua đời, An quyết định hiến giác mạc
đem lại ánh sáng cho người khác”. Với câu chuyện cảm động trên, các em có thể
đưa vào những bài viết về chủ đề “tình yêu thương”, “sống đẹp” hoặc “cho đi là
còn mãi”…
Cách 3: Lấy dẫn chứng là những sự thật hiển nhiên
Trong bài văn nghị luận, những sự thật hiển nhiên chính là những biểu
hiện cụ thể, tiêu biểu đã được công nhận rộng rãi trong dư luận. Khi chọn những
sự thật hiển nhiên làm dẫn chứng vào bài văn nghị luận, tính chính xác sẽ được
đảm bảo, khiến người đọc hoàn toàn tin tưởng hơn nữa vào những lí lẽ mà người
đọc nêu ra. Ví dụ: Khi nghị luận về vấn đề ơ nhiễm mơi trường, ngồi việc đưa
số liệu, chúng ta có thể đưa vào bài những biểu hiện, sự thật về tình trạng ơ
nhiễm như: “hiện tượng Trái Đất đang nóng lên, hiện tượng biến đổi khí hậu”,
“nguồn nước bị ơ nhiễm, nhiều con sông đã qua đời, và nhiều con sông đang
kêu cứu”, “môi trường sinh thái đang mất cân bằng và bị phá hủy”…
Cách 4: Lấy dẫn chứng là những số liệu cu thể, rõ ràng
Khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận là những số liệu cụ thể, rõ ràng
vào bài viết, chúng sẽ trở thành những “con số biết nói” gia tăng sức thuyết phục


×