Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận pháp luật bán hàng đa cấp (luật thương mại 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.04 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------------------------------------------------

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM: PHÁP LUẬT BÁN HÀNG ĐA CẤP
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Lớp : Luật Thương mại 2
Giang viên: TS Bùi Đăng Duy
Danh sách thành viên:

Hà Nội - Năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

2

Chương 1: Khái quát về bán hàng đa cấp và pháp luật bán hàng đa cấp tại Việt
Nam
1. Nguồn gốc, lịch sử hình thành bán hàng đa cấp…………………………………….1
2. Khái niệm bán hàng đa cấp, pháp luật bán hàng đa cấp…………………………….3
2.1Khái niệm bán hàng đa cấp………………………………………………….4
2.2Pháp luật bán hàng đa cấp …………………………………………………..4
3. Đặc điểm bán hàng đa cấp…………………………………………………………..5
4 Phân biệt BHĐC với BHĐC bất chính………………………………………………5
Chương 2: Nội dung bán hàng đa cấp và pháp luật bán hàng đa cấp……………5


1 Tổng quan về mối quan hệ Pháp luật bán hàng đa cấp……………………………..6
1.1 Chủ thể quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp………………………………...6
1.2 Về khách thể quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp…………………………..6
1.3 Về nội dung quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp……………………………7
2. Quyền và nghĩa vụ chủ thể tham gia quan hệ pháp luật BHĐC…………………...8
2.1 Quyền và nghĩa vụ của nhà nước……………………………………………8
2.2 Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp BHĐC……………………………….9
2.3Quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHĐC……………………………...9
3.Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp……………………………………………..…10
Chương :Cơ sở thực tiễn bán hàng đa cấp và pháp luật bán hàng đa cấp……..12
3.1 Thực trạng kinh doanh đa cấp tại Việt Nam………………………………..13
3.2 Những điểm hạn chế và khó khăn trong việc quản lí BHĐC, pháp luật
BHĐC………………………………………………………………………………...13
3.3Hồn thiện hệ thống pháp luật BHĐC……………………………………….14
3.4 Kinh nghiệm quốc tế hoàn thiện pháp luật BHĐC…………………………15
KẾT LUẬN………………………………………………………………………….16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
BHĐC: Bán hàng đa cấp
Bảng 1.1 Văn bản pháp lý quốc tế BHĐC
Bảng 1.2 Phân biệt BHĐC và BHĐC bất chính
Bảng 1.3 Số liệu doanh thu bán hàng đa cấp giai đoạn 2015 - 2020 (nguồn Cục Cạnh
tranh và Bảo vệ người tiêu dùng)


Dẫn Nhập:
Ngày nay cùng sự phát triển kinh tế thị trường, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, con
người đã có thể chế tạo ra hàng loạt những sản phẩm hiện đại như xe hơi, tivi, …song
vấn đề về tiêu thụ sản phẩm, đưa những thành quả làm ra đến người tiêu dùng một
cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Đây cũng là tiền đề cơ sở cho sự ra đời phương

thức kinh doanh mới, rất ưu việt phân phối sản phẩm tới người tiêu dùng và tiết kiệm
được các chi phí tốn kém cho khâu trung gian và quảng cáo tiếp thị đó là hoạt động
bán hàng đa cấp. Mặc dù đạt được nhiều thành tích trong q trình vận hành và phát
triển. Tuy nhiên thực tễ mọi người con hiểu sai về mơ hình bán hàng đa cấp, nhầm lẫn
với mơ hình đa cấp bất chính, liệu rằng pháp luật có những quy định gì về BHĐC. Từ
cơ sở trên đặt ra nhiều vấn đề nghiên cứu BHĐC. Vì vậy nhóm sinh viên tiếp cận,
nghiên cứu BHĐC, vì đây là vấn đề khá rộng nên nhóm tập trung khai thác BHĐC
những cái căn bản nhất từ cơ sở lý luận khái niệm BHĐC, pháp luật BHĐC, đến
những đặc điểm BHĐC, từ đó tiếp cận các vấn đề pháp luật nội dung và thực tiễn
BHĐC ở Việt Nam và đưa ra những kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật BHĐC
hiện nay.

Chương 1: Khái quát về bán hàng đa cấp và pháp luật bán hàng đa
cấp tại Việt Nam
1. Nguồn gốc, lịch sử hình thành bán hàng đa cấp
BHĐC được ra đời đầu tiên ở Mỹ 1 nguồn gốc của phương thức bán hàng đa cấp
hay còn gọi kinh doanh theo mạng lưới (multi-level marketing) gắn liền với tên tuổi
của Nhà Nghiên cứu Dinh dưỡng người Mỹ - Carl Rehnborg. Ông được xem là cha đẻ
của một ngành kinh doanh có triển vọng nhất trong thế kỷ 21 bởi đã phát minh và
nhân rộng ý tưởng tiếp thị mạng lưới vào trong cuộc sống.
Vào đầu thập niên 1970, việc bán hàng đa cấp lại chịu sức ép từ nhiều phía khác
nhau. Năm 1975, trong hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những người phản đối kinh
doanh đa cấp và quy kết nó với cái gọi là "hình tháp ảo" - một hình thức kinh doanh
bất hợp pháp. Sau cùng, cuối năm 1979 tòa án thương mại Liên Bang Hoa Kỳ công
nhận phương pháp kinh doanh của Amway không phải là "hình tháp ảo" và được chấp
nhận về mặt luật pháp. Từ đó Bộ luật đầu tiên về kinh doanh đa cấp đã ra đời tại Mỹ
và ngành này chính thức được công nhận. Từ 1949-1990 trải qua ba làn sóng phát
triển, BHĐC đã ngày càng lớn mạnh và mở rộng phạm vi ra nhiều nước trên thế giới
trong đó có Việt Nam
2. Khái niệm bán hàng đa cấp, pháp luật bán hàng đa cấp.

2.1 Khái niệm bán hàng đa cấp

1 Lịch sử phát triển của ngành bán hàng đa cấp-cổng thông tin điện tử bộ công thương


Thế kỷ XXI đang chứng kiến sự thay đổi trong thói quen mua hàng của người
tiêu dùng. Thay vì nằm một nơi nào đó trên kệ trong các hệ thống siêu thị, cửa hàng
truyền thống, giờ đây hàng hóa đang tự tìm đến người tiêu dùng. Người ta gọi phương
pháp mới mẻ đó với cái tên Phương thức bán hàng trực tiếp (Direct Selling ).Bán hàng
trực tiếp (Direct Selling) gồm 2 phương thức cơ bản:
Thứ nhất, bán hàng đơn cấp (Single Level Marketing): nhân viên tiếp thị (hay
còn gọi là đại diện bán hàng, phân phối viên, đại lý, ...) bán lẻ sản phẩm trực tiếp cho
người tiêu dùng và hưởng hoa hồng trên số sản phẩm do chính mình tiêu thụ được.
Thứ hai, kinh doanh đa cấp (Multi Level Marketing): nhân viên tiếp thị ngoài
việc bán lẻ trực tiếp cho người tiêu dùng còn được quyền tuyển các nhà tiếp thị khác
làm nhà phân phối cho mình, xây dựng mạng lưới tiếp thị riêng của mình và hưởng
hoa hồng trên sản phẩm do chính mình và mạng lưới của mình tiêu thụ được. 2
Tại Việt Nam BHĐC được định nghĩa trong luật cạnh tranh 2004: "Bán hàng
đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị đế bán lẻ hàng hóa được thực hiện thơng qua mạng lưới người tham
gia Bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia Bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu
dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa
điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc người tham gia;
c) Người tham gia Bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc
các lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia
Bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được
doanh nghiệp Bán hàng đa cấp chấp thuận. 3
Như vậy, khái niệm BHĐC được hiểu là “hoạt động kinh doanh sử dụng mạng
lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh, trong đó người tham gia được

hưởng tiền hoa hồng tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của
mình và của những người khác trong mạng lưới”4
2.2 Khái niệm pháp luật bán hàng đa cấp
Hiện tại chưa có nhà nghiên cứu pháp lý nào đưa ra khái niệm pháp luật về
BHĐC. Tại Việt Nam, quy định pháp luật quản lí BHĐC chủ yếu ghi nhận tại nghi
định 42 mà chưa đưa lên thành Luật như nhiều nước (Malaysia, Canada…..). Hiện nay
luật điều chỉnh duy nhất đề cấp đến phương thức BHĐC là luật Cạnh tranh. Tuy
nhiên pháp luật cạnh tranh chỉ điều chỉnh một phần nội dung quản lý hoạt động
BHĐC khi có dấu hiệu bất chính xảy ra. Phần điều chỉnh liên quan đến quản lí hành
chính đối với hoạt động BHĐC khơng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật cạnh tranh.
Vì vậy để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động BHĐC chân chính và ngăn chặn các

2 Đồn Văn Bình (2006) Một số vấn đề pháp lý về bán hàng đa cấp ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Đại học luật
Hà Nội

3 Luật canh tranh 2004
4 Khoản 1 điều 3 Nghị định số 40.2018/ NĐ-CP ngày 12 tháng 3 của Chính Phủ về quản lí hoạt động kinh
doanh theo phương thức đa cấp


hiện tượng bất chính. Tổng hợp văn bản pháp luật tạo thành hệ thống bán hàng đa cấp,
pháp luật bán hàng đa cấp được hiểu là “là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động bán hàng đa cấp”
Trên thế giới hầu hết các quốc gia để tránh nhầm lẫn bán hàng đa cấp thơng
thường và bán hàng đa cấp bất chính hầu hết các nước đều có luật, văn bản pháp lý
thừa nhận bán hàng đa cấp, cấm kinh doanh theo mô hình kim tự tháp, đồng thời quản
lý chặt chẽ phương thức bán hàng đa cấp.5

Tên nước

Mỹ

Văn bản điều chỉnh hoạt động bán hàng
đa cấp
Đạo luật cấm kế hoạch tiếp thị theo mơ
hình kim tự tháp (2003)

Anh

Luật về kinh doanh đa cấp (1990)

Hàn Quôc

Luật bán hàng tận cửa (1995)

Thái Lan

Đạo luật bán hàng và marketing trực tiếp
(2002)
Luật Thương mạị

Austalia, Grazia
Đan Mạch

Luật hình sự

3.Đặc điểm bán hàng đa cấp
Thứ nhất, BHĐC là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa, đặc điểm này
được thể hiện ở 2 khía cạnh
Một nó là phương thức bán lẻ hàng hóa, nói cách khác thơng qua mạng lưới

tiếp thị, doanh nghiệp tổ chức bán hàng đa cấp sẽ thiết lập được mối quan hệ mua bán
sản phẩm trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng mà khơng tốn phí các khoản đầu tư
thành lập, duy trì mạng lưới phân phối dưới dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc
các đại lý phân phối theo pháp luật thương mại. Điều này cũng giúp chúng ta phân
biệt với đại lý thương mại khi đại lý thương mại cần thương nhân, có trụ sở và được
bên giao đại lý trả thù lao. 6 Ngược lại bên BHĐC được thực hiện bởi cá nhân người
tham gia BHĐC và không được trả thù lao mà nhận hoa hồng từ sản phẩm được bán

5 Bộ thương mại (2004) Kỷ yếu hội thảo lấy ý kiến dự thảo nghị định về giám sát hoạt động bán hàng đa cấp.


Hai là BHĐC chỉ xảy ra trên thị trường hàng hóa, Nói cách khác đối tượng của
BHĐC chỉ là hàng hóa mà khơng đặt ra đối với thị trường dịch vụ. Một khi BHĐC
được hiểu như phương thức tiếp thị để cung ứng trong thị trường dịch vụ sẽ không thể
là BHĐC
Thứ hai doanh nghiệp BHĐC tiếp thị hàng hóa thông qua những người tham
gia được tổ chức ở nhiều cấp khác nhau. Hiểu một cách đơn giản người tham gia
BHĐC là những cộng tác viên trong việc tiếp thị và bán hàng hóa, vì vậy khi giới
thiệu và bán lẻ sản phẩm doanh nghiệp đã không phải là người trực tiếp thiết lập quan
hệ với người tiêu dùng mà không nhân danh doanh nghiệp. Thêm nữa bản thân người
BHĐC không phải là nhân viên công ty, nên Doanh nghiệp cũng không phải chịu
trách nhiệm về hành vi của người tham gia trước khách hàng. Bên cạnh đó người tham
gia tổ chức thành những cấp khác nhau theo phương thức mỗi người tham gia ở một
mạng lưới phân phối mới khi doanh nghiệp chấp nhận. Mạng lưới mới tạo ra cấp phân
phối tiếp sau cấp phân phối của người tạo ra chúng.
Thứ ba người tham gia được hưởng tiền hoa hồng tiền thưởng, lợi ích kinh tế
khác từ kết quả bán hàng của mình và của người tham gia khác trong mạng lưới do
họ tổ chức. Cách thức phân chia lợi ích như trên khơng chỉ kích thích người tham gia
tích cực tiêu thụ hàng hóa mà cịn kích thích họ tích cực tạo lập hệ thống phân phối
cấp dưới. BHĐC có thể đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng như mua

được như mua hàng trực tiếp từ nhà sản xuất nên tránh được hàng giả, hàng kém chất
lượng. Đối với doanh nghiệp BHĐC tiết kiệm được chi phí quảng cáo cắt giảm được
hàng loạt các chi phí khác như chi phí thuê mặt bằng trưng bày..
4. Phân biệt BHĐC và BHĐC bất chính
Thực tiễn bây giờ có rất nhiều người cịn hiểu sai với BHĐC là hình thức lừa
đảo, thơng qua hình thức bn bán tiếp thị để bán những sản phẩm kém chất lượng
đến với người dân. Để phân biệt sự khác biệt đó nhóm đưa ra bảng so sánh để chúng
ta có cái cách hiểu đúng về BHĐC.7
Tiêu chí
Sản phẩm

6

BHĐC
Cần có sản phẩm tốt chỉ khi có
sản phẩm tốt thì doanh nghiệp
BHĐC mới có cơ sở để giới thiệu
đến người dùng , mới tin tưởng
mua sản phẩm

BHĐC bất chính
BHĐC bản chất là giới thiệu,
chia sẻ về các sản phẩm chất
lượng tốt để bán cho người
tiêu dùng. Như vậy nếu sản
phẩm không tốt sẽ khó có thể
bán được hàng.

Nguyễn Thị Hằng (2011), Những vấn đề pháp lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, Khóa luận tốt


nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.

7 Vũ Văn Tú “Hoàn thiện pháp luật bán hàng đa cấp tại Việt Nam theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới


Người tham gia

Đào tạo phân phối tốt, đây là
những người giúp doanh nghiệp
giới thiệu và bán hàng cho người
tiêu dùng. Do đó doanh nghiệp
BHĐC cần phải đào tạo kỹ lưỡng
cho nhà phân phối của mình để họ
hiểu về sản phẩm và có kỹ năng
bán hàng tốt

Tuyển dụng

Chủ yếu tập trung bán hàng không
tập trung tuyển dụng.Hoạt động
BHĐC được thực hiện qua hệ
thống phân phối do đó, song song
với việc bán hàng doanh nghiệp
cũng phải tuyển dụng và xây dựng
hệ thống nhà phân phối, tuy nhiên
việc bán hàng phải được chú trọng
hàng đầu.

Dùng nhiều cách buộc người
tham gia phải mua hàng hoặc

dóng tiền. Việc tiêu dùng hoặc
bán hàng hóa của doanh
nghiệp BHĐC là tùy thuộc vào
nhu cầu khả năng của bản
thân, doanh nghiệp không
được bắt buộc cá nhân phải bỏ
tiền ra mua hàng để được tham
gia
Chỉ tập trung tuyển dụng, nếu
doanh nghiệp BHĐC chỉ chú
trọng tổ chức các buổi tuyển
dụng mà khơng đào tạo bán
hàng cho nhà phân phối thì
chúng ta cần cẩn trọng. Bởi vì
chỉ có bán hàng mới mang về
doanh thu cho doanh nghiệp
và từ đó nhà phân phối được
trả hoa hồng
Hứa hẹn nhiều khoản lợi hấp
dẫn, thực chất BHĐC chỉ là
hình thức bán hàng phân phối
hàng hóa, khơng phải là một
hình thức đầu tư, do đó chỉ
thực sự có thu nhập nếu thực
sự bán được hàng và những
người do chúng ta giới thiệu
cũng bán được

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG PHÁP LUẬT BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM
1.Tổng quan về mối quan hệ pháp luật trong bán hàng đa cấp

Quan hệ pháp luật về bán hàng đa cấp là quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi
các quy phạm pháp luật khác nhau trong lĩnh vực bán hàng đa cấp, từ đó làm phát sinh
những quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia quan hệ được pháp luật quy định và
nhà nước đảm bảo thực hiện.. Cấu trúc gồm 3 thành phần gồm: chủ thể quan hệ, khách
thể quan hệ và nội dụng quan hệ.


1.1 Về chủ thể quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp.
Đây là các bên tham gia quan hệ pháp luật, có các quyền và nghĩa vụ pháp lý
theo luật định, ở trong quan hệ pháp luật về bán hàng đa cấp, chủ thể gồm: Nhà nước
với vai trò quản lý, doanh nghiệp BHĐC, người tham gia BHĐC, khách hàng là người
tiêu dùng. Mỗi chủ thể ngoài đáp ứng năng lực chủ thể theo quy định pháp luật còn
đáp ứng điều kiện đặc thù của quan hệ pháp luật này, cụ thể là với doanh nghiệp bán
hàng đa cấp là tại điều 7 Nghị định 40/2018/NĐ-CP và với người tham gia bán hàng
đa cấp là điều 28 Nghị định 40/2018/NĐ-CP.Ở đây chủ thể chính tham gia quan hệ
pháp luật BHĐC bao gồm doanh nghiệp BHĐC và người tham gia BHĐC
Thứ nhất doanh nghiệp BHĐC có thể là doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản
phẩm đem bán hoặc doanh nghiệp phân phối các sản phẩm từ các thương nhân khác
nhau, nó có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài tùy thuộc vào mức độ
mở cửa của thị trường của mỗi nước cũng như môi trường kinh doanh nội địa.
Thứ hai người tham gia BHĐC tham gia vào mạng lưới BHĐC thông qua hợp
đồng. Lợi nhuận của người này nhận được từ phía cơng ty BHĐC thơng qua việc bán
hàng của chính mình và của những người khác thuộc hệ thống do mình lập ra. Địa vị
pháp lý của họ hết sức đặc biệt họ có thể là người đại lý, nhân viên tiếp thị, vừa là
nhân viên bán hàng cũng là người vận chuyển hàng sản phẩm đến tay người tiêu
dùng..
Đối với chủ thể pháp luật BHĐC cần quan tâm đến chủ thể đặc biệt đó là nhà
nước. Sự tham gia của nhà nước thể hiện thông qua ban hành các văn bản pháp luật,
ban hành bộ thủ tục đăng ký để được cấp GĐK, nhà nước giữ vai trị điều tiết và quản
lý. Ví dụ mức hoa hồng trả cho người tham gia thường bị khống chế ở một mức độ

nhất định (Việt Nam không quá 40%)8
1.2 Về khách thể quan hệ pháp luật BHĐC
Đây có thể hiểu là những gì mà các bên mong muốn đạt được khi tham gia vào
quan hệ pháp luật mà ở đây là quan hệ pháp luật về bán hàng đa cấp. Vì quan hệ bán
hàng đa cấp là một quan hệ mang tính thương mại nên mục đích mà các bên mong
muốn đạt được khi tham gia quan hệ là lợi ích vật chất, với doanh nghiệp bán hàng đa
cấp là lợi nhuận thu được khi bán được hàng, với người tham gia bán hàng đa cấp là
hoa hồng, tiền thưởng hay lợi ích kinh tế khi họ bán được hàng, cịn với người tiêu
dùng thì là hàng hóa được bán.
1.3 Về nội dung quan hệ pháp luật BHĐC: Phần này gồm quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật. Với quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp mỗi
chủ thể đều có các quyền và nghĩa vụ riêng được pháp luật về bán hàng đa cấp quy
định.
2. Quyền và nghĩa vụ chủ thể tham gia quan hệ bán hàng đa cấp
2.1 Quyền và nghĩa vụ của Nhà nước

8 Quốc hội (2004) Luật cạnh tranh số 27/2004 (QH1) Hà Nội điều 27 khoản 3


Với vai trò là chủ thể quản lý quan hệ pháp luật bán hàng đa cấp, quyền đồng thời
là nghĩa vụ của chủ thể. Cơ quan có thẩm quyền trực tiếp nhất trong quản lý hoạt động
bán hàng đa cấp là Bộ Công thương với hai cục là Cục Cạnh tranh và bảo vệ người
tiêu dùng và Tổng cục quản lý thị trường.
Mặc dù có nhiều quyền hạn và trách nhiệm khác nhau xong tựu chung lại có thể
thấy cả 2 cục đều thực hiện 3 nhóm trách nhiệm khác nhau. Nhóm thứ nhất là nhóm
nghĩa vụ quản lý, hành chính thể hiện ở việc cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi hay xác
nhận các loại giấy tờ quan trọng trong hoạt động bán hàng đa cấp của doanh nghiệp
Nhóm thứ hai là nhóm nghĩa vụ giám sát, thể hiện ở các hoạt động kiểm tra, giám sát
hoạt động kinh doanh đa cấp của doanh nghiệp, đồng thời tự mình hoặc chuyển tới cơ
quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về kinh doanh đa cấp. Nhóm cuối

cùng là nhóm nghĩa vụ pháp luật, thể hiện ở việc đào tạo đội ngũ cán bộ am hiểu pháp
luật, giáo dục pháp luật cho người dân đồng thời tham gia xây dựng và sửa đổi pháp
luật về bán hàng đa cấp khi cần thiết9
Ngoài ra, kinh doanh bán hàng đa cấp lại là hoạt động ảnh hưởng tới rất lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, chính vì vậy ngoài trách nhiệm của cơ quản lý trực
tiếp nhất, pháp luật còn quy định về trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ có liên
quan, thể hiện trong điều 55 Nghị định 40/2018/NĐ-CP, chúng gồm: bộ công an, bộ y
tế, bộ tài chính,… ngân hàng nhà nước. Mỗi cơ quan tổ chức này mang nhiệm vụ
nghĩa vụ riêng.
Cuối cùng với hoạt động bán hàng đa cấp tại các địa phương thì khơng thể thiếu
vai trị của các chính quyền địa phương, mà cụ thể là Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, được thể hiện tại điều 56 Nghị định 40/2018/NĐ-CP, ngoài quy
định về trách nhiệm ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan tại địa
phương trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh đa cấp trên
địa bàn tại điểm a và báo cáo theo định kỳ hàng năm hoặc đột xuất với Bộ Công
Thương về công tác quản lý hoạt động bán hàng đa cấp trên địa bàn
2.2 Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp bán hàng đa cấp
Nhìn chung doanh nghiệp bán hàng đa cấp cũng là một pháp nhân thực hiện hoạt
động kinh doanh và chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại, Luật dân sự, và một số
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Tuy nhiên do đặc thù của mơ hình này,
doanh nghiệp bán hàng đa cấp cũng cần có sự điều chỉnh riêng phù hợp với thực tiễn
và đảm bảo sự vận hành ổn định của nền kinh tế, quyền lợi của người tiêu dùng.
Đối với hình thức hoạt động: Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp đóng vai trò cung
cấp cho các Nhà phân phối trong hệ thống để đưa sản phẩm dịch vụ đó đến tay người
tiêu dùng. Tự xác định mơ hình kinh doanh đa cấp để tiến hành kinh doanh, mơ hình
này quyết định đến sự hấp dẫn và mức chi trả hoa hồng cho các nhà phân phối, nó
cũng là cơ sở quan trọng nhất của hình thức bán hàng đa cấp.

9 Quốc hội (2005) Luật thương mại số 36/2005/QH1 Hà Nội , Hà Nội.



Về đối tượng kinh doanh: Doanh nghiệp bán hàng đa cấp được kinh doanh tất cả
hàng hóa được kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp theo quy định của pháp
luật. Nhưng bên cạnh đó Nghị định 42/2015/NĐ – CP cũng đặt ra đã giới hạn một số
đối tượng kinh doanh đối với hoạt động bán hàng đa cấp:10
● Hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, danh mục hàng hóa
hạn chế kinh doanh, hàng hóa đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp buộc
phải thu hồi, cấm lưu thông hoặc tạm ngừng lưu thông theo quy định của
pháp luật
● Hàng hóa là thuốc; trang thiết bị y tế; các loại thuốc thú y (bao gồm cả
thuốc thú y thủy sản), thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phẩm diệt côn
trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; các loại hóa chất
nguy hiểm và sản phẩm có hóa chất nguy hiểm theo quy định của pháp luật.
Về thủ tục đăng ký kinh doanh: Nghị định 42/2015/NĐ – CP đã quy định thủ tục đăng
ký kinh doanh phải được thực hiện theo quy định của luật này
● Đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp: để có thể đăng ký hoạt động bán hàng đa
cấp các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu như: có đủ điều kiện kinh
doanh và được cấp giấy chứng nhận kinh doanh theo yêu cầu của pháp luật, Ký
quỹ tại một ngân hàng thương mại hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có quy
tắc hoạt động, trả lương thưởng đúng theo quy định của pháp luật.
● Đối với chủ doanh nghiệp bán hàng đa cấp là thành viên hợp danh đối với công
ty hợp danh, chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn, cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần, …công ty cổ phần
phải là những cá nhân chưa từng giữ một trong các chức vụ nêu trên tại doanh
nghiệp bán hàng đa cấp đã bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán
hàng đa cấp theo quy định tại Điểm b, Điểm c Khoản 1 Điều 14 Nghị định này
2.3 Quyền và nghĩa vụ của người tham gia bán hàng đa cấp
Theo khoản 3, điều 3 của Nghị định số 40/2018/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh
doanh theo phương thức đa cấp thì người tham gia bán hàng đa cấp được giải thích là
“cá nhân giao kết hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với doanh nghiệp bán hàng đa

cấp”. Tức là chủ thể tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp thông qua hợp đồng.
Về điều kiện tham gia bán hàng đa cấp, chúng được quy định tại điều 28, Nghị
định số 40/2018/NĐ-CP như sau:11
“1. Người tham gia bán hàng đa cấp là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo
quy định của pháp luật
2. Những trường hợp sau không được tham gia bán hàng đa cấp:
a) Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc có tiền án về các tội sản xuất, buôn bán
hàng giả, sản xuất, buôn bán hàng cấm, quảng cáo gian dối, lừa dối khách hàng, lừa

10 Nghị định 42/2015/NĐ-CP
11 điều 28, Nghị định số 40/2018/NĐ-CP điều kiện tham gia bán hàng đa cấp


đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài
sản, tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp
b) Người nước ngồi khơng có giấy phép lao động tại Việt Nam do cơ quan có thẩm
quyền cấp trừ trường hợp được miễn theo quy định của pháp luật”
c) Người tham gia bán hàng đa cấp đã từng bị xử phạt do vi phạm các quy định tại
khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 5 Nghị định này mà chưa hết thời hạn được coi là
chưa bị xử lý vi phạm hành chính
d) Cá nhân quy định tại điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị định này
đ) Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, cơng chức”.
Ngồi những trường hợp đặc biệt bị cấm thì người có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự đều có thể tham gia bán hàng đa cấp. Các trường hợp cấm nhằm đảm bảo thi
hành các chế tài và đảm bảo tuyệt đối hoạt động bán hàng đa cấp không bị lợi dụng từ
các chức danh hay địa vị của chủ thể. Chúng đảm bảo cho môi trường bán hàng đa cấp
cạnh tranh lành mạnh.
3.Về hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp
Có thể hiểu rằng hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp là việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ bán hàng đa cấp giữa hai chủ thể nói trên.

Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ bán hàng đa cấp thì hợp đồng tham gia
bán hàng đa cấp có những dấu hiệu pháp lý sau:12
Chủ thể của hợp đồng bao gồm doanh nghiệp BHĐC và người tham gia
BHĐC
Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận kết quả mà các bên đã
thỏa thuận với nhau, đó có thể là lời nói, hành vi cụ thể hoặc văn bản. Tuy nhiên, với
tính chất phức tạp của việc bán hàng đa cấp thì khả năng xảy ra tranh chấp là rất lớn
nên khuyến nghị hình thức hợp đồng đảm bảo rõ ràng nhất giúp quá trình thực hiện
hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng được thuận tiện hơn.
Đối tượng của hợp đồng là tuy mỗi quốc gia khác nhau, nhiều quốc gia thừa
nhận cả hàng hóa và dịch vụ nhưng có những quốc chỉ cơng nhận hàng hóa là đối
tượng của hợp đồng (trong đó có Việt Nam)
Nội dung cơ bản của hợp đồng sẽ là thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ bán
hàng đa cấp. Pháp luật quy định các nội dung sau là cơ bản: chủ thể, hàng hóa, cách
tính tiền hoa hồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, chấm dứt và thanh lý hợp đồng, xử
lý khi xảy ra tranh chấp trong hợp đồng.
Các chính sách lao động của người tham gia bán hàng đa cấp được thỏa thuận
trong hợp đồng bán hàng đa cấp. Ngoài ra, Nhà nước buộc các doanh nghiệp bán hàng
đa cấp phải thực hiện đào tạo cho người tham gia bán hàng đa cấp. Các chương trình
đào tạo sẽ có các nội dung cơ bản là: pháp luật về bán hàng đa cấp; các chuẩn mực

12 Vũ Văn Tú (2014) Hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp tại Việt Nam theo kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới


đạo đức trong hoạt động bán hàng đa cấp…Người tham gia bán hàng đa cấp có trách
nhiệm tham gia và nắm bắt đầy đủ các nội dung của chương trình đào tạo cơ bản.
Doanh nghiệp bán hàng đa cấp chỉ được cấp Thẻ thành viên cho những người đã hoàn
thành chương trình đào tạo cơ bản và có cam kết bằng văn bản.
CHƯƠNG 3: CƠ SỞ THỰC TIỄN BÁN HÀNG ĐA CẤP, PHÁP LUẬT BÁN

HÀNG ĐA CẤP
1. Thực trạng kinh doanh đa cấp tại Việt Nam.
Kinh doanh đa cấp đã được pháp luật Việt Nam công nhận là một loại hình
kinh doanh hợp pháp. Tuy nhiên lợi dụng những kẽ hở từ pháp luật, nhiều công ty đã
biến tướng đi hình thức đa cấp. Những hình thức đa cấp biến tướng, lừa đảo người dân
hiện nay rất là nhiều, được các cơ quan báo chí, truyền thơng lên án. Tuy nhiên các
cơng ty đa cấp chân chính hiện nay được rất nhiều người tin tưởng và ủng hộ. Bán
hàng đa cấp hiện nay đang rất phát triển và được xem như giải pháp cho vấn đề việc
làm. Tại Việt Nam, bán hàng đa cấp đang trở thành một thị trường tiềm năng. Doanh
nghiệp trong nước và quốc tế đã đóng góp một phần khơng nhỏ trong việc tăng trưởng
kinh tế. Giúp người dân cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập.
Cục Canh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Cơng Thương) vừa cơng bố
Báo cáo về tình hoạt động của các cơng ty đa cấp. Theo đó, trong năm 2020, cả nước
có 22 cơng ty đa cấp, hơn 800.000 người tham gia, tổng doanh thu đạt trên 15.300 tỷ
đồng. Theo báo cáo của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, trong giai đoạn
2015 - 2020 số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh đa cấp ngày càng sụt
giảm. Cụ thể: năm 2015, cả nước có 67 doanh nghiệp kinh doanh đa cấp, với 850.000
người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp. Thậm chí, trong năm 2018, mạng lưới bán
hàng đa cấp đã thu hút hơn 1,2 triệu người. Tuy nhiên, trong năm 2020, số lượng
doanh nghiệp đa cấp chỉ còn 22 đơn vị, số người bán hàng đa cấp cũng giảm, chỉ còn
khoảng 800.000 người tham gia. Dù vậy, doanh thu từ việc bán hàng đa cấp lại tăng
rất mạnh. Năm 2015, tổng doanh thu từ việc bán hàng đa cấp đạt 8.000 tỷ đồng, nộp
ngân sách Nhà nước 588 tỷ đồng. Tới năm 2020, tổng doanh thu từ việc bán hàng đa
cấp đã tăng gấp đôi, lên hơn 15.300 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 1.837 tỷ đồng
(tăng gấp 3 lần).


Số liệu doanh thu bán hàng đa cấp giai đoạn 2015 - 2020 (nguồn Cục Cạnh tranh và
Bảo vệ người tiêu dùng).13
Theo Cục Cạnh tranh, trong 5 năm qua, nhờ vào sự vào cuộc quyết liệt của cơ

quan chức năng, cho nên thị trường đã thanh lọc bớt các doanh nghiệp đa cấp biến
tướng. “Với sự vào cuộc đồng loạt và quyết liệt của các cơ quan quản lý nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, đến nay có thể nói hoạt động bán hàng đa cấp đã và đang
từng bước ổn định, khơng cịn các vụ việc có hậu quả nghiêm trọng, doanh thu ngành
tăng đều và các doanh nghiệp đã có những đóng góp nhất định vào ngân sách của Nhà
nước” - đại diện Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng nói.14
Thống kê của Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng cho thấy, từ đầu năm
2021 đến nay, khơng có doanh nghiệp nào được cấp mới giấy chứng nhận, khơng có
doanh nghiệp nào chấm dứt hoạt động hay bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động bán hàng đa cấp. Hiện trên cả nước chỉ có 22 doanh nghiệp hoạt động bán hàng
đa cấp hợp pháp. Như vậy, những doanh nghiệp bán hàng đa cấp làm ăn bát nháo,
kinh doanh bất chính đã bị tước giấy phép và xử lý. Điều này đã cho thấy vai trò kiểm
tra, giám sát và quản lý rất hiệu quả của Bộ Công Thương. Doanh thu bán hàng đa cấp
chủ yếu đến từ thực phẩm chức năng (trên 80%), và mỹ phẩm (khoảng 15%). 15 Doanh
thu từ đồ gia dụng, quần áo thời trang, thiết bị và mặt hàng khác chiếm khoảng 4,44%.

13 Tọa đàm “Toàn cảnh ngành bán hàng đa cấp tại Việt Nam”,

, truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.

14 Hạn chế tiêu cực của kinh doanh đa cấp, Tạp chí của Hội Dầu khí Việt Nam - PetroTimes (bản điện tử) ,
15


Số liệu báo cáo của các doanh nghiệp cho thấy, tổng số lượng người tham gia bán
hàng đa cấp năm 2020 là 832.385 người, giảm 25% so với cuối năm 2019.
2. Những điểm hạn chế và khó khăn trong việc quản lý bán hàng đa cấp
Dù đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong cơng tác quản lý, tuy nhiên đại
diện Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng vẫn phải thừa nhận: Hiện tại, thị
trường bán hàng đa cấp vẫn là vấn đề phức tạp và nhạy cảm trong quản lý, khi mà các

đối tượng ngày càng có phương thức hoạt động tinh vi, phức tạp, lợi dụng mơi trường
mạng và hình thức thương mại điện tử để kêu gọi người tham gia dưới các danh nghĩa
như kinh doanh 4.0, công nghệ số, nền tảng số… Sự biến tướng của các tổ chức núp
bóng đa cấp này là hoạt động không phép nên không được quản lý theo các quy định
pháp luật chuyên ngành hiện nay, đòi hỏi sự phối hợp thực sự chặt chẽ của các cơ
quan quản lý. Trong khi đó, người dân tham gia vào hoạt động của các đơn vị trái
phép này thường không thông tin cho cơ quan quản lý ngay từ ban đầu mà chỉ khi hệ
thống sụp đổ, thiệt hại về tài sản thì mới trình báo đến các cơ quan có thẩm quyền
Chế tài xử lý đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh theo phương thức đa cấp
khơng phép chưa đủ mạnh nên vẫn cịn tình trạng các tổ chức/cá nhân tìm cách lách
luật và bất chấp quy định pháp luật để kiếm lời bất chính. Hoạt động kinh doanh đa
cấp trái phép hoặc khơng có phép đã lôi kéo, dụ dỗ một bộ phận không nhỏ người dân
tham gia, điều này cho thấy hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức cho người dân
vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ở các địa phương được triển khai
đồng bộ, nhưng vẫn cịn ít, chưa bao qt tồn bộ các địa bàn của từng địa phương.
Việc xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh đa cấp vẫn chưa triệt để và mức xử
phạt chưa đủ sức răn đe. Việc theo dõi, thu thập thông tin, tài liệu để xử lý các đối
tượng này cũng gặp nhiều khó khăn.
Đội ngũ cán bộ quản lý về lĩnh vực kinh doanh đa cấp vẫn cịn thiếu và yếu.
Theo Bộ Cơng Thương, về nguồn nhân lực thực hiện quản lý hoạt động bán hàng đa
cấp thường được giao kiêm nhiệm cho một cán bộ, khi cán bộ này được thuyên
chuyển công tác sang đơn vị khác thì người thay thế thường phải tiếp cận lại từ đầu.
Điều này gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý nhà nước một cách hệ thống
bài bản.
3.Hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt Nam
Thứ nhất Pháp luật về BHĐC ở Việt Nam cần mở rộng phạm vi áp dụng. Theo
luật Cạnh Tranh và điều 1 nghị định số 110/2005 NĐ-CP về BHĐC ở Việt Nam là
hoạt động bán hàng đa cấp cà quản lí BHĐC.Việt Nam khơng điều chỉnh hoạt động
dịch vụ đã cấp và quản lý hoạt động cung ứng dịch vụ đa cấp, Việt Nam nên cần mở

rộng hoạt động cung ứng dịch vụ và quản lý hoạt động cung ứng dịch vụ. Hoạt động
cung ứng dịch vụ cũng có thể được kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp.


Điều này phù hợp với quyền tự do khẳng định của doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các hoạt động thương mại dịch vụ ngày
càng phát triển nên các doanh nghiệp áp dụng phương thức kinh doanh đa cấp đối với
cung ứng dịch vụ sẽ phát triển. pháp luật của nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận và
có những quy định để điều chỉnh hoạt động cung ứng dịch vụ đa cấp như Hoa Kỳ,
Singapore, Thái Lan và Indonesia….16
Thứ hai Pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt Nam nên cấm cán bộ, công chức
tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp vì
Xuất phát từ đặc trưng của phương thức BHĐC là bán hàng trực tiếp từ cá nhân
đến cá nhân dựa trên cơ sở khai thác mối quan hệ giữa con người với con người nên
cán bộ, cơng chức. Có thể thấy những người cán bộ cơng chức họ có uy tín, địa vị)
nên khi được doanh nghiệp trả tiền thưởng tiền hoa hồng thì họ có thể ra sức giúp đỡ
doanh nghiệp điều này sẽ dẫn đến hiện tượng tiêu cực công việc. Mặt khác khi họ
tham gia vào mạng lưới BHĐC thì có thể sẽ giới thiệu chào bán hàng cán bộ cấp dưới,
trường hợp này cấp dưới khó có thể từ chối. Điều này khiến cán bộ công chức tham
gia mạng lưới BHĐC và họ khó có thể tồn tâm tồn ý phục vụ việc nhà nước.Nó có
thể làm cho mơi trường kinh doanh và hoạt động BHĐC nói riêng có nguy cơ khơng
lành mạnh và đây là lý do pháp luật doanh nghiệp không cho phép cán bộ công chức
thành lập và quản lý doanh nghiệp17
Thứ ba pháp luật BHĐC nên mở rộng địa điểm tiếp thị bán hàng đa cấp. Điểm
b khoản 11 điều 3 Luật cạnh tranh quy định “hàng hóa được người tham gia bán hàng
đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở nơi làm việc của người tiêu
dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh
nghiệp hoặc của người tham gia” . Theo sinh viên thì quy định này khơng phù hợp với
thực tiễn sẽ gây khó khăn cho người tham gia bán hàng. Có thể thấy pháp luật về bán
hàng đa cấp của một số nước khơng ngăn cấm tiếp thị hàng hóa tại địa điểm bán lẻ

thường xuyên của doanh nghiệp hoặc người tham gia như pháp luật bán hàng đa cấp
thái lan “bán hàng trực tiếp được hiểu là việc Marketing hàng hóa bằng cách bán trực
tiếp đến người tiêu dùng hoặc của các đối tượng khác hoặc tại các đại lý bán hàng trực
tiếp hoặc người tham gia bán hàng đơn cấp hoặc đa cấp trừ các hoạt động pháp lý
được ghi trong các quy định cấp bộ”18
3. Một số khuyến nghị, quan điểm cá nhân về giải pháp
Hoàn thiện hành lang pháp lý, khuôn khổ pháp luật để quản lý việc kinh doanh
và bán hàng đa cấp trên thị trường Việt Nam. Kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; tăng
mức hình phạt đối với hàng vi đa cấp bất chính, trá hình.

16 Xem đạo luật cấm kế hoạch tiếp thị theo mơ hình kim tự tháp

của Mỹ (2003) Luật tiếp thị đa cấp và cấm

bán hàng theo mạng của Singapore (2000).

17 Xem điều 17 khoản 2 Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh
nghiệp (Luật doanh nghiệp 2020)

18 Xem điều 3 đạo luật bán hàng và marketing trực tiếp của Thái Lan B.E.2545


Các địa phương cũng nên có những nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý hiệu
quả hoạt động bán hàng đa cấp ở địa phương mình, giải quyết vấn đề mâu thuẫn giữa
bản chất hoạt động truyền miệng, khơng có địa điểm cố định của hoạt động bán hàng
đa cấp với khó khăn trong cơng tác quản lý tại địa phương khi doanh nghiệp khơng có
địa điểm hoạt động cố định.
Bộ Cơng Thương nên có những sự phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước
khác, đặc biệt là Bộ Công An trong việc xử lý và ngăn chặn các hoạt động đa cấp biến
tướng, thu lợi bất chính. Xây dựng một Trang web riêng về việc niêm yết các công ty

kinh doanh đa cấp đã được nhà nước cấp phép để người dân nắm bắt được, đồng thời
bắt buộc mọi cơng ty nước ngồi muốn hoạt động đa cấp ở Việt Nam phải có những
đảm bảo nhất định trước khi cho phép hoạt động. Đào tạo đội ngũ thanh tra, kiểm tra
có kinh nghiệm về việc nhận diện đa cấp biến tướng, nâng cao chất lượng đội ngũ và
con người.
Tăng cường giáo dục pháp luật về đa cấp, có thể làm các video youtube hoặc
tiktok để tuyên truyền chống đa cấp trá hình. Ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào quản
lý các doanh nghiệp đa cấp, điều này sẽ tiết kiệm thời gian và công sức cho các cơ
quan chức năng.
5. So sánh, học hỏi kinh nghiệm với pháp luật nước ngồi
Nhìn sang Trung quốc, hoạt động bán hàng đa cấp tuy được thừa nhận nhưng chỉ
được thực hiện hạn chế theo Quy tắc quản lý bán hàng trực tiếp áp dụng từ
01/12/2005. Các quy định tại quy tắc này hạn chế sản phẩm được kinh doanh theo
phương thức đa cấp là hàng tiêu dùng. Các doanh nghiệp muốn kinh doanh mơ hình
này bắt buộc phải có nhà máy sản xuất tại Trung Quốc. Việc quản lý bằng cách quy
định sản phẩm bán hàng đa cấp phải được sản xuất tại Trung Quốc giúp cơ quan quản
lý kiểm sốt giá cả, chất lượng hàng hóa. Như vậy đối tượng của Doanh nghiệp bán
hàng đa cấp của Trung quốc có phần ngặt nghèo hơn ở việt nam chúng ta khi quy định
đối tượng sản phẩm chỉ là hàng tiêu dùng, các nhà máy phải đặt tại trung quốc, vốn
điều lệ lớn…19
Từ kinh nghiệm của Singapore, mức phạt cho hành vi bán hàng đa cấp bất chính
có thể lên đến 200.000 USD. Người đã bị xử phạt hành chính mà cịn tái phạm có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chịu hình phạt năm năm tù giam. Tại Canada, 20 một
doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bị quy kết vi phạm điều khoản kinh doanh của Luật
Cạnh tranh mang tính chất lừa đảo có thể bị phạt 150.000 USD. Doanh nghiệp sai

19 Xem điều 5 đao luật bán hàng và marketing trực tiếp của Trung Quốc
20 Xem điều 7 hình thức xử lý bán hàng đa cấp ở Canada



phạm sẽ bị buộc phải ký vào Lệnh cấm (Prohibition Order) được trình lên tịa án liên
bang Canada. Theo đó, họ bị buộc phải kê khai mức thu nhập thực tế của các nhân
viên của công ty trong một khoảng thời gian được ấn định, thông báo cho tất cả nhà
phân phối và nhân viên công ty về vụ việc và không được tham gia bất kỳ hoạt động
kinh doanh nào về hình thức kinh doanh đa cấp. Như vậy có thể thấy mức phạt ở Việt
Nam cịn Khá nhẹ chỉ từ 80.000.000 đến 100.000.000 được quy định tại nghị định
141/2018/NĐ-CP.
KẾT LUẬN:
Bán hàng đa cấp là loại hình kinh doanh không quá mới được du nhập Việt Nam.
Cùng với sự phát triển nên kinh tế thị trường và nỗ lực của cơ quan quản lý trong việc
đặt ra khung pháp lý ngày một toàn diện chấn chỉnh của Doanh nghiệp BHĐC, của
người tham gia và bảo vệ quyền lợi của NTD. Kinh doanh BHĐC cũng đạt nhiều
thành tựu nhất định. Tuy nhiên trong thực tiễn kinh doanh BHĐC cũng như pháp luật
bán hàng đa cấp còn nhiều hạn chế, gây khó khăn trong q trình thực thi và áp dụng.
Trước những vấn đề đặt ra nhóm sinh viên cũng đã làm rõ các vấn đề BHĐC (khái
niệm, đặc điểm, mô hình bán hàng đa cấp cũng như quy định pháp lý BHĐC ở Việt
Nam, chỉ ra những vấn đề hạn chế khó khăn BHĐC và pháp luật BHĐC. Từ đó nhóm
sinh viên cũng đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện Kinh doanh đa cấp và
BHĐC. Tuy nhiên do dung lượng bài viết có hạn nên nhóm sinh viên chưa đi sâu các
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn cụ thể, cũng như mở rộng phạm vi BHĐC, pháp luật
BHĐC mang tính quốc tế.

Danh mục tài liệu tham khảo.
1.Tài liệu sách, giáo trình, sách chuyên khảo.
(1) Nguyễn Thị Vân Anh “Giáo trình luật canh tranh” Đại học luật Hà Nội (2018)
(2) Luật doanh nghiệp 2020
(3) luật Thương mại 2005
(4) Nghị định 40/2018/NĐ-CP Về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa
cấp
2. Tài liệu khoa học ( tạp chí, luận văn, luận án)



(5) Đồn Văn Bình (2006), Một số vấn đề pháp lý về bán hàng đa cấp ở Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nôik.
(6) Bộ Tài Chính (2005), Quyết định 92/2005/QĐ-BTC ngày 30/7/2014 về việc quy
định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp giấy đăng ký tổ chức bán
hàng đa cấp, Hà Nội.
(7) Nguyễn Thị Hằng (2011), Những vấn đề pháp lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở
Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.
(8) Vũ Văn Tú (2014) Hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp tại Việt Nam theo kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới
(9) Trần Thị Thu (2014). Pháp luật về kiểm soát bán hàng đa cấp tại Việt Nam
3.Tài liệu Web
(10) , truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.
(11) Bán hàng đa cấp và những vấn đề pháp lý đặt ra, Tạp chí Cơng thương (bản điện
tử), , truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.
(12) truy
cập ngày 10 tháng 11 năm 202
(13) Tọa đàm “Toàn cảnh ngành bán hàng đa cấp tại Việt Nam”,
, truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.
4.Tài liệu nước ngoài
(14) Direcrt selling Association (2011) “Direct selling Organization Menbership”
(15)Michael L,Sheffied (1999) “Comp Plan Conversion: Direct sales to MLM
Compensation Plans”. Direct sales Journal (citiong Neil Offen, president of the Direct
Selling Association.



×